Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Công nghệ & ngân hàng số
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
aa

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/01/2022 Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030), phối hợp Bộ Công an triển khai Kế hoạch 01/KHPH-BCA-NHNNVN và đã mang lại hiệu quả tích cực trong công tác làm sạch dữ liệu và xác minh thông tin khách hàng, hỗ trợ tích cực trong quá trình phát triển, cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Từ đó mang lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng, tăng cường công tác đảm bảo an ninh, an toàn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Tiên phong chuyển đổi số và triển khai Đề án 06

Trong giai đoạn 2022 - 2025, NHNN đã ban hành 6 kế hoạch thực hiện Đề án 06 và hơn 21 văn bản chỉ đạo thực hiện. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2025, NHNN đã ban hành 02 kế hoạch thực hiện Đề án 06 (gồm Quyết định số 1744/QĐ-NHNN ngày 11/4/2025 ban hành Kế hoạch năm 2025 của ngành Ngân hàng triển khai Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 14/03/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai Đề án 06 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2025 và những năm tiếp theo; Quyết định số 67/QĐ-NHNN ngày 06/01/2025 phê duyệt Đề án chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06 năm 2025); 01 kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh (Quyết định số 1746/QĐ-NHNN ngày 14/04/2025 ban hành Kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2025 của NHNN Việt Nam thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ); đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện.

Trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để ứng dụng VNeID trong công tác chuyển đổi số, NHNN đã hoàn thành triển khai từ năm 2024. NHNN đã điều chỉnh quy trình, cho phép việc sử dụng các giấy tờ điện tử tích hợp trên ứng dụng VNeID tương đương với giấy tờ vật lý đã được quy định tại một số thông tư. Cụ thể:

Thông tư số 15/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định về cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM); trong đó quy định giấy tờ tùy thân có bao gồm căn cước điện tử (đối với trường hợp khách hàng có tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với cá nhân là công dân Việt Nam và danh tính điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam khi phải xuất trình giấy tờ tùy thân.

Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; trong đó quy định hồ sơ mở tài khoản thanh toán trong đó đối với tài liệu, thông tin, dữ liệu về giấy tờ tùy thân của khách hàng cá nhân có bao gồm căn cước điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với cá nhân là công dân Việt Nam và danh tính điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02).

Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; trong đó quy định thủ tục phát hành thẻ chủ thẻ có thể cung cấp giấy tờ tùy thân để nhận biết khách hàng có bao gồm căn cước điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02).

Thông tư số 40/2024/TT-NHNN ngày 17/7/2024 quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trong đó quy định hồ sơ mở ví điện tử trong đó đối với tài liệu, thông tin, dữ liệu về giấy tờ tùy thân của khách hàng cá nhân có bao gồm căn cước điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với cá nhân là công dân Việt Nam và danh tính điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02).

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng; trong đó cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD), trung gian thanh toán (TGTT) triển khai tích hợp VNeID để khách hàng đăng ký sử dụng truy cập phần mềm ứng dụng Online Banking.

Làm sạch dữ liệu - Ứng dụng dữ liệu dân cư trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng

NHNN đã bám sát chỉ đạo của Thủ tướng, Tổ Công tác của Chính phủ triển khai Đề án 06, đồng thời tích cực phối hợp với Bộ Công an và các các cơ quan, đơn vị liên quan căn cứ thực trạng để tổ chức triển khai Đề án 06 trong ngành Ngân hàng một cách đồng bộ, hiệu quả. NHNN đã chỉ đạo các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT nghiên cứu, ứng dụng dữ liệu về dân cư, căn cước công dân (CCCD) gắn chíp, tài khoản VNeID để làm sạch dữ liệu, nhận biết, xác minh chính xác khách hàng nhằm phòng chống, ngăn ngừa việc tội phạm mạo danh, sử dụng giấy tờ tùy thân giả mạo đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng cho mục đích bất hợp pháp; đồng thời nghiên cứu ứng dụng dữ liệu dân cư trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thuận tiện, an toàn nhất đến với người dân, khách hàng.

Trong ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), CCCD, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, theo báo cáo của NHNN, tính đến ngày 30/7/2025, có 57 TCTD và 39 tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT đã tích hợp trên ứng dụng Mobile Banking tính năng đối khớp thông tin sinh trắc học với dữ liệu trong CCCD gắn chíp để nhận biết khách hàng; 63 TCTD đã triển khai tại quầy giao dịch ứng dụng nhận biết khách hàng qua thẻ CCCD gắn chíp, 32 TCTD và 15 TGTT đang triển khai tích hợp ứng dụng VNeID.

Tại các TCTD, TGTT, 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Sau một thời gian làm sạch cơ sở dữ liệu khách hàng, áp dụng giải pháp đối khớp thông tin sinh trắc học, số lượng khách hàng cá nhân bị lừa đảo, mất tiền giảm 59%, số lượng tài khoản cá nhân nhận tiền lừa đảo giảm 52% so với thời điểm trước 01/07/2024. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.

Ngoài ra, trong thúc đẩy thanh toán dịch vụ công, NHNN thường xuyên chỉ đạo các ngân hàng thương mại, TGTT tích cực đầu tư ứng dụng công nghệ, nghiên cứu, có giải pháp kết nối với Cổng dịch vụ công Quốc gia (DVCQG) để thực hiện thanh toán trực tuyến cho các dịch vụ đã được tích hợp trên Cổng DVCQG, áp dụng chính sách miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán đối với các giao dịch thanh toán trên Cổng DVCQG. Đến nay, hơn 80% số người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp trên địa bàn đô thị được chi trả thông qua các phương thức TTKDTM; 100% các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn đô thị triển khai thanh toán học phí không dùng tiền mặt; hơn 88% các bệnh viện đã triển khai TTKDTM.

Dữ liệu còn là chìa khóa kết nối hệ sinh thái số. Các ngân hàng đã và đang xây dựng hệ sinh thái tích hợp đa dịch vụ, với người dùng là trung tâm, kết nối với Cổng DVCQG và các ngành, lĩnh vực, hệ sinh thái ngoài ngân hàng để cung ứng dịch vụ một cách liền mạch, tiện ích cho khách hàng.

Giá trị TTKDTM trong năm 2024 đạt 295,2 triệu tỉ đồng, gấp 25 lần GDP. Đến cuối năm 2024, tỉ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân hàng đạt gần 87%. Trong 6 tháng đầu năm 2025, giao dịch TTKDTM đạt 11,3 tỉ giao dịch với giá trị đạt trên 169 triệu tỉ đồng (tăng 45,43% về số lượng và 25,52% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024).

Nhờ ứng dụng số hóa, công tác cải cách hành chính được nâng cao rõ rệt, 7 năm liên tiếp NHNN dẫn đầu bảng xếp hạng Par Index của các bộ, ngành. Trong năm 2024, 100% dịch vụ công của NHNN đủ điều kiện được nâng lên toàn trình; 100% dịch vụ công toàn trình được tích hợp lên Cổng DVCQG; 99% hồ sơ công việc tại NHNN được xử lý và lưu trữ trên môi trường mạng; 100% giao dịch trên Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa của NHNN được xác thực điện tử.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, thực tiễn công tác triển khai Đề án 06 cũng như quá trình số hóa ngân hàng cũng có những thách thức, đặc biệt, trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân. Những năm gần đây, các vụ vi phạm dữ liệu cá nhân ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người dân và uy tín của Chính phủ. Để giải quyết vấn đề này, việc xây dựng một khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân hoàn chỉnh, chặt chẽ và hiệu quả là cấp thiết. Khung pháp lý này không chỉ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mà còn góp phần tạo lập môi trường kinh doanh an toàn, thu hút đầu tư và phát triển kinh tế số.

Chưa kể, hiện nay dữ liệu còn phân mảnh, thiếu tính liên thông, chưa có sự đồng bộ và chuẩn hóa cơ sở hạ tầng giữa các ngành, lĩnh vực để tạo điều kiện thuận tiện nhất cho việc kết nối, tích hợp tạo lập hệ sinh thái số. Thông tin, dữ liệu về tài khoản thanh toán của người nộp thuế là các thông tin nhạy cảm, đòi hỏi việc xử lý, tổng hợp cẩn thận, đáp ứng quy định về bảo vệ bí mật thông tin khách hàng và bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Nguồn nhân lực chất lượng cao, có kinh nghiệm, có kiến thức về nghiệp vụ và công nghệ phục vụ chuyển đổi số còn thiếu. Xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường, gia tăng rủi ro an ninh mạng. Trong khi đó vẫn còn một bộ phận người dân có tâm lý e ngại khi tiếp cận và sử dụng các dịch vụ thanh toán trên nền tảng số, nhiều người vẫn chưa sử dụng VNeID thành thạo và thường xuyên, đặc biệt là nhóm người dùng cao tuổi, người ít sử dụng điện thoại thông minh.

Phát triển hạ tầng kết nối dữ liệu liên ngành, kết nối đồng bộ cơ sở dữ liệu dân cư

Thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục bám sát các nhiệm vụ của Đề án 06 giai đoạn 2025 - 2030, đảm bảo phù hợp với mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngành Ngân hàng đảm bảo an ninh, an toàn, chú trọng việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung ngành Ngân hàng tiến đến ra quyết định dựa trên dữ liệu.

Đồng thời, NHNN tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT: Đẩy nhanh tiến độ triển khai tích hợp ứng dụng VNeID để tạo sự tiện lợi cho khách hàng trong quá trình cung ứng dịch vụ; đẩy mạnh làm sạch, xác thực kết nối dữ liệu chuyên ngành với CSDLQGvDC, giảm thiểu tài khoản rác, ví điện tử rác; tiến tới ứng dụng dữ liệu từ CSDLQGvDC trong đánh giá khách hàng vay của TCTD (xây dựng, hoàn thiện giải pháp chấm điểm khả tín); tiếp tục triển khai phối hợp liên ngành: tích hợp, kết nối, chia sẻ thông tin ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác góp phần hình thành hệ sinh thái số liên thông, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ nhanh chóng, an toàn, hiệu quả; kết nối, cung cấp dữ liệu với cơ quan thuế, tiếp tục nâng cao hiệu quả chống thất thu thuế, nhất là với hoạt động thương mại điện tử; triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ ngân hàng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Ở tầm vĩ mô, Chính phủ cần tiếp tục ưu tiên đầu tư cho các dự án hạ tầng kết nối dữ liệu liên ngành, kết nối đồng bộ CSDL dân cư, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, thuế, hải quan… nhằm đẩy nhanh việc cung cấp dịch vụ công và dịch vụ tài chính thông minh.

Mặc dù Việt Nam đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (Luật số 91/2025/QH15); tuy nhiên hiện tại, chưa có một cơ quan chuyên trách để giám sát, xử lý vi phạm và đảm bảo thực thi hiệu quả các quy định pháp luật liên quan. Việc thành lập một Ủy ban độc lập về bảo vệ dữ liệu cá nhân không chỉ là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mà còn là một biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền lợi của công dân, nâng cao niềm tin vào Chính phủ số và đảm bảo an toàn thông tin trong kỷ nguyên số.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

3. Quyết định số 1744/QĐ-NHNN ngày 11/4/2025 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Kế hoạch năm 2025 của ngành Ngân hàng triển khai Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 14/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai Đề án 06 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2025 và những năm tiếp theo.

4. Quyết định số 67/QĐ-NHNN ngày 06/01/2025 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt Đề án chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06 năm 2025.

Hà Trang
NHNN

Tin bài khác

Chuẩn chữ ký số dựa trên lưới - Giải pháp đảm bảo an toàn cho giao dịch điện tử trong kỷ nguyên máy tính lượng tử

Chuẩn chữ ký số dựa trên lưới - Giải pháp đảm bảo an toàn cho giao dịch điện tử trong kỷ nguyên máy tính lượng tử

Có thể thấy rằng chữ ký số dựa trên lưới là một hướng phát triển tất yếu nhằm bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử trong kỷ nguyên hậu lượng tử. Việc sớm nghiên cứu, thử nghiệm và xây dựng lộ trình chuyển đổi chuẩn mật mã quốc gia theo hướng hậu lượng tử sẽ giúp Việt Nam chủ động trong việc bảo vệ hạ tầng dữ liệu, thương mại điện tử và chính phủ số trước các nguy cơ an ninh mạng trong tương lai.
Sự bền vững của thói quen sử dụng ngân hàng số trong bối cảnh hậu Covid-19

Sự bền vững của thói quen sử dụng ngân hàng số trong bối cảnh hậu Covid-19

Bài viết này được thực hiện nhằm cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về sự bền vững và sự chuyển biến của các thói quen sử dụng ngân hàng số sau khủng hoảng. Dựa trên việc phân tích các nghiên cứu thực nghiệm từ nhiều quốc gia và bối cảnh khác nhau, nghiên cứu khám phá các động lực và rào cản đa chiều định hình hành vi của người dùng.
Ứng dụng học tăng cường trong quản trị danh mục đầu tư: Phân tích trắc lượng thư mục và xu hướng nghiên cứu tiềm năng

Ứng dụng học tăng cường trong quản trị danh mục đầu tư: Phân tích trắc lượng thư mục và xu hướng nghiên cứu tiềm năng

Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo và học máy đã mở ra những hướng tiếp cận mới cho quản trị danh mục đầu tư. Đặc biệt, học tăng cường đã thu hút sự quan tâm đáng kể từ cả giới học thuật lẫn thực tiễn nhờ khả năng học từ tương tác động với môi trường và thích ứng với các điều kiện thị trường thay đổi.
Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - tài chính khiến đồng nội tệ mất giá và niềm tin suy yếu, tiền mã hóa thường nổi lên như lựa chọn bảo toàn sức mua. Các cú sốc vĩ mô có thể đóng vai trò chất xúc tác thúc đẩy mở rộng hệ sinh thái tài sản mã hóa (hay tiền mã hóa).
Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Trong ngành Ngân hàng, sự hội tụ của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo không chỉ nâng cao hiệu quả vận hành mà còn củng cố quản trị rủi ro từ việc số hóa hồ sơ đến dự báo biến động thị trường. Bài viết sau đây tập trung vào ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong quản lý tài sản tại ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Việc triển khai rCBDC cũng đặt ra nhiều thách thức, bao gồm nguy cơ phi trung gian hóa ngân hàng, yêu cầu về hạ tầng công nghệ an toàn và bảo mật cao, cũng như vấn đề niềm tin của công chúng. Bên cạnh đó, việc cho phép sử dụng rCBDC trong giao dịch xuyên biên giới có thể tiềm ẩn rủi ro đối với dòng vốn và ổn định tiền tệ quốc gia.
Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia. Việc tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích cho cả hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ tài chính - ngân hàng, từ cải thiện tính chính xác trong xác thực, đến nâng cao trải nghiệm khách hàng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế số.
Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Blockchain không chỉ là một công nghệ hỗ trợ mà còn có thể trở thành hạ tầng cốt lõi cho quá trình chuyển đổi số ngành tài chính - ngân hàng. Trong một thế giới mà giao dịch được thực hiện từ xa, khách hàng không cần đến quầy giao dịch và mọi dữ liệu đều có thể được xác minh tức thời, thì danh tính số là “chìa khóa” mở ra toàn bộ hệ sinh thái tài chính kỹ thuật số.
Xem thêm
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô