Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Công nghệ & ngân hàng số
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
aa

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/01/2022 Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030), phối hợp Bộ Công an triển khai Kế hoạch 01/KHPH-BCA-NHNNVN và đã mang lại hiệu quả tích cực trong công tác làm sạch dữ liệu và xác minh thông tin khách hàng, hỗ trợ tích cực trong quá trình phát triển, cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Từ đó mang lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, thúc đẩy chuyển đổi số ngành Ngân hàng, tăng cường công tác đảm bảo an ninh, an toàn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Tiên phong chuyển đổi số và triển khai Đề án 06

Trong giai đoạn 2022 - 2025, NHNN đã ban hành 6 kế hoạch thực hiện Đề án 06 và hơn 21 văn bản chỉ đạo thực hiện. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2025, NHNN đã ban hành 02 kế hoạch thực hiện Đề án 06 (gồm Quyết định số 1744/QĐ-NHNN ngày 11/4/2025 ban hành Kế hoạch năm 2025 của ngành Ngân hàng triển khai Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 14/03/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai Đề án 06 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2025 và những năm tiếp theo; Quyết định số 67/QĐ-NHNN ngày 06/01/2025 phê duyệt Đề án chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06 năm 2025); 01 kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh (Quyết định số 1746/QĐ-NHNN ngày 14/04/2025 ban hành Kế hoạch cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2025 của NHNN Việt Nam thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ); đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện.

Trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để ứng dụng VNeID trong công tác chuyển đổi số, NHNN đã hoàn thành triển khai từ năm 2024. NHNN đã điều chỉnh quy trình, cho phép việc sử dụng các giấy tờ điện tử tích hợp trên ứng dụng VNeID tương đương với giấy tờ giấy đã được quy định tại một số thông tư. Cụ thể:

Thông tư số 15/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định về cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM); trong đó quy định giấy tờ tùy thân có bao gồm căn cước điện tử (đối với trường hợp khách hàng có tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với cá nhân là công dân Việt Nam và danh tính điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam khi phải xuất trình giấy tờ tùy thân.

Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; trong đó quy định hồ sơ mở tài khoản thanh toán trong đó đối với tài liệu, thông tin, dữ liệu về giấy tờ tùy thân của khách hàng cá nhân có bao gồm căn cước điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với cá nhân là công dân Việt Nam và danh tính điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02).

Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; trong đó quy định thủ tục phát hành thẻ chủ thẻ có thể cung cấp giấy tờ tùy thân để nhận biết khách hàng có bao gồm căn cước điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02).

Thông tư số 40/2024/TT-NHNN ngày 17/7/2024 quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; trong đó quy định hồ sơ mở ví điện tử trong đó đối với tài liệu, thông tin, dữ liệu về giấy tờ tùy thân của khách hàng cá nhân có bao gồm căn cước điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02) đối với cá nhân là công dân Việt Nam và danh tính điện tử (thông qua việc truy cập vào tài khoản định danh điện tử mức độ 02).

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng; trong đó cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD), trung gian thanh toán (TGTT) triển khai tích hợp VNeID để khách hàng đăng ký sử dụng truy cập phần mềm ứng dụng Online Banking.

Làm sạch dữ liệu - Ứng dụng dữ liệu dân cư trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng

NHNN đã bám sát chỉ đạo của Thủ tướng, Tổ Công tác của Chính phủ triển khai Đề án 06, đồng thời tích cực phối hợp với Bộ Công an và các các cơ quan, đơn vị liên quan căn cứ thực trạng để tổ chức triển khai Đề án 06 trong ngành Ngân hàng một cách đồng bộ, hiệu quả. NHNN đã chỉ đạo các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT nghiên cứu, ứng dụng dữ liệu về dân cư, căn cước công dân (CCCD) gắn chíp, tài khoản VNeID để làm sạch dữ liệu, nhận biết, xác minh chính xác khách hàng nhằm phòng chống, ngăn ngừa việc tội phạm mạo danh, sử dụng giấy tờ tùy thân giả mạo đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng cho mục đích bất hợp pháp; đồng thời nghiên cứu ứng dụng dữ liệu dân cư trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thuận tiện, an toàn nhất đến với người dân, khách hàng.

Trong ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), CCCD, định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, theo báo cáo của NHNN, tính đến ngày 30/7/2025, có 57 TCTD và 39 tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT đã tích hợp trên ứng dụng Mobile Banking tính năng đối khớp thông tin sinh trắc học với dữ liệu trong CCCD gắn chíp để nhận biết khách hàng; 63 TCTD đã triển khai tại quầy giao dịch ứng dụng nhận biết khách hàng qua thẻ CCCD gắn chíp, 32 TCTD và 15 TGTT đang triển khai tích hợp ứng dụng VNeID.

Tại các TCTD, TGTT, 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Sau một thời gian làm sạch cơ sở dữ liệu khách hàng, áp dụng giải pháp đối khớp thông tin sinh trắc học, số lượng khách hàng cá nhân bị lừa đảo, mất tiền giảm 59%, số lượng tài khoản cá nhân nhận tiền lừa đảo giảm 52% so với thời điểm trước 01/07/2024. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.

Ngoài ra, trong thúc đẩy thanh toán dịch vụ công, NHNN thường xuyên chỉ đạo các ngân hàng thương mại, TGTT tích cực đầu tư ứng dụng công nghệ, nghiên cứu, có giải pháp kết nối với Cổng dịch vụ công Quốc gia (DVCQG) để thực hiện thanh toán trực tuyến cho các dịch vụ đã được tích hợp trên Cổng DVCQG, áp dụng chính sách miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán đối với các giao dịch thanh toán trên Cổng DVCQG. Đến nay, hơn 80% số người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp trên địa bàn đô thị được chi trả thông qua các phương thức TTKDTM; 100% các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn đô thị triển khai thanh toán học phí không dùng tiền mặt; hơn 88% các bệnh viện đã triển khai TTKDTM.

Dữ liệu còn là chìa khóa kết nối hệ sinh thái số. Các ngân hàng đã và đang xây dựng hệ sinh thái tích hợp đa dịch vụ, với người dùng là trung tâm, kết nối với Cổng DVCQG và các ngành, lĩnh vực, hệ sinh thái ngoài ngân hàng để cung ứng dịch vụ một cách liền mạch, tiện ích cho khách hàng.

Giá trị TTKDTM trong năm 2024 đạt 295,2 triệu tỉ đồng, gấp 25 lần GDP. Đến cuối năm 2024, tỉ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân hàng đạt gần 87%. Trong 6 tháng đầu năm 2025, giao dịch TTKDTM đạt 11,3 tỉ giao dịch với giá trị đạt trên 169 triệu tỉ đồng (tăng 45,43% về số lượng và 25,52% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024).

Nhờ ứng dụng số hóa, công tác cải cách hành chính được nâng cao rõ rệt, 7 năm liên tiếp NHNN dẫn đầu bảng xếp hạng Par Index của các bộ, ngành. Trong năm 2024, 100% dịch vụ công của NHNN đủ điều kiện được nâng lên toàn trình; 100% dịch vụ công toàn trình được tích hợp lên Cổng DVCQG; 99% hồ sơ công việc tại NHNN được xử lý và lưu trữ trên môi trường mạng; 100% giao dịch trên Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa của NHNN được xác thực điện tử.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, thực tiễn công tác triển khai Đề án 06 cũng như quá trình số hóa ngân hàng cũng có những thách thức, đặc biệt, trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân. Những năm gần đây, các vụ vi phạm dữ liệu cá nhân ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người dân và uy tín của Chính phủ. Để giải quyết vấn đề này, việc xây dựng một khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân hoàn chỉnh, chặt chẽ và hiệu quả là cấp thiết. Khung pháp lý này không chỉ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mà còn góp phần tạo lập môi trường kinh doanh an toàn, thu hút đầu tư và phát triển kinh tế số.

Chưa kể, hiện nay dữ liệu còn phân mảnh, thiếu tính liên thông, chưa có sự đồng bộ và chuẩn hóa cơ sở hạ tầng giữa các ngành, lĩnh vực để tạo điều kiện thuận tiện nhất cho việc kết nối, tích hợp tạo lập hệ sinh thái số. Thông tin, dữ liệu về tài khoản thanh toán của người nộp thuế là các thông tin nhạy cảm, đòi hỏi việc xử lý, tổng hợp cẩn thận, đáp ứng quy định về bảo vệ bí mật thông tin khách hàng và bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Nguồn nhân lực chất lượng cao, có kinh nghiệm, có kiến thức về nghiệp vụ và công nghệ phục vụ chuyển đổi số còn thiếu. Xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường, gia tăng rủi ro an ninh mạng. Trong khi đó vẫn còn một bộ phận người dân có tâm lý e ngại khi tiếp cận và sử dụng các dịch vụ thanh toán trên nền tảng số, nhiều người vẫn chưa sử dụng VNeID thành thạo và thường xuyên, đặc biệt là nhóm người dùng cao tuổi, người ít sử dụng điện thoại thông minh.

Phát triển hạ tầng kết nối dữ liệu liên ngành, kết nối đồng bộ cơ sở dữ liệu dân cư

Thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục bám sát các nhiệm vụ của Đề án 06 giai đoạn 2025 - 2030, đảm bảo phù hợp với mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngành Ngân hàng đảm bảo an ninh, an toàn, chú trọng việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung ngành Ngân hàng tiến đến ra quyết định dựa trên dữ liệu.

Đồng thời, NHNN tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ TGTT: Đẩy nhanh tiến độ triển khai tích hợp ứng dụng VNeID để tạo sự tiện lợi cho khách hàng trong quá trình cung ứng dịch vụ; đẩy mạnh làm sạch, xác thực kết nối dữ liệu chuyên ngành với CSDLQGvDC, giảm thiểu tài khoản rác, ví điện tử rác; tiến tới ứng dụng dữ liệu từ CSDLQGvDC trong đánh giá khách hàng vay của TCTD (xây dựng, hoàn thiện giải pháp chấm điểm khả tín); tiếp tục triển khai phối hợp liên ngành: tích hợp, kết nối, chia sẻ thông tin ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác góp phần hình thành hệ sinh thái số liên thông, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ nhanh chóng, an toàn, hiệu quả; kết nối, cung cấp dữ liệu với cơ quan thuế, tiếp tục nâng cao hiệu quả chống thất thu thuế, nhất là với hoạt động thương mại điện tử; triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ ngân hàng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Ở tầm vĩ mô, Chính phủ cần tiếp tục ưu tiên đầu tư cho các dự án hạ tầng kết nối dữ liệu liên ngành, kết nối đồng bộ CSDL dân cư, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, thuế, hải quan… nhằm đẩy nhanh việc cung cấp dịch vụ công và dịch vụ tài chính thông minh.

Mặc dù Việt Nam đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (Luật số 91/2025/QH15); tuy nhiên hiện tại, chưa có một cơ quan chuyên trách để giám sát, xử lý vi phạm và đảm bảo thực thi hiệu quả các quy định pháp luật liên quan. Việc thành lập một Ủy ban độc lập về bảo vệ dữ liệu cá nhân không chỉ là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mà còn là một biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền lợi của công dân, nâng cao niềm tin vào Chính phủ số và đảm bảo an toàn thông tin trong kỷ nguyên số.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

3. Quyết định số 1744/QĐ-NHNN ngày 11/4/2025 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Kế hoạch năm 2025 của ngành Ngân hàng triển khai Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 14/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai Đề án 06 tại các bộ, ngành, địa phương năm 2025 và những năm tiếp theo.

4. Quyết định số 67/QĐ-NHNN ngày 06/01/2025 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt Đề án chuyển đổi số của NHNN triển khai tiện ích cốt lõi phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm kết nối với Đề án 06 năm 2025.

Hà Trang
NHNN

Tin bài khác

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Phát triển hệ sinh thái Fintech và ngân hàng mở ở Việt Nam hiện nay

Ngân hàng mở là một thuật ngữ chỉ việc ngân hàng có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu với bên cung cấp dịch vụ thứ ba (Third Party service Provider - TPP) thông qua các công nghệ giao diện lập trình ứng dụng (Application Programing Interface - API) một cách có kiểm soát trên cơ sở cho phép của khách hàng và theo quy định của pháp luật, từ đó giúp các đơn vị cung cấp dịch vụ hoặc Fintech có thể dễ dàng phát triển các ứng dụng và cung ứng dịch vụ cho khách hàng một cách thông suốt, tiện lợi.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Vietcombank và giải pháp

Ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số đối với lĩnh vực ngân hàng là vấn đề quan trọng nhằm xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đây là một phần cốt lõi trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa mô hình quản trị và hướng tới phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng ứng dụng công nghệ trong quản lý tài liệu số tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ đó rút ra những khuyến nghị cho Vietcombank để hoạt động này được triển khai hiệu quả trong thời gian tới.
Xem thêm
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng