Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Hoạt động ngân hàng
Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
aa

Tóm tắt: Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua đã góp phần tích cực vào chuyển dịch kinh tế nông thôn theo hướng chuẩn hóa sản phẩm và liên kết chuỗi giá trị. Trong đó, nguồn lực tài chính, đặc biệt là tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đóng vai trò then chốt. Bài viết phân tích tác động của vốn vay ưu đãi đối với các chủ thể OCOP, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất và tiếp cận thị trường. Qua các minh chứng thực tiễn và số liệu cụ thể, bài viết làm rõ hiệu quả của tín dụng chính sách, đồng thời chỉ ra những rào cản trong tiếp cận vốn. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phối hợp, nâng cao năng lực quản trị tài chính và hiệu quả sử dụng vốn, hướng tới phát triển bền vững các sản phẩm OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi.

Từ khóa: Chương trình OCOP, tín dụng chính sách, phát triển nông thôn, Quảng Ngãi, tiếp cận tài chính.

POLICY CREDIT SUPPORTING THE EXPANSION OF OCOP PRODUCTS
IN QUANG NGAI PROVINCE

Abstract: The “One Commune One Product” (OCOP) program in Quang Ngai province has significantly contributed to rural economic transformation through product standardization and value chain integration. A key factor behind its success is the financial support from policy credit sources, especially from the Vietnam Bank for Social Policies. This article analyzes how preferential loans have enabled OCOP entities to improve product quality, expand production, and enhance market access. Through typical examples and statistical data, the study highlights the positive impact of policy credit on OCOP development and identifies barriers to credit accessibility. Additionally, recommendations are proposed to strengthen coordination among stakeholders, improve financial management capacity and the effectiveness of credit, support to ensure sustainable development of OCOP products in Quang Ngai.

Keywords: OCOP program, policy credit, rural development, Quang Ngai, financial access.

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi
Tín dụng chính sách đã và đang tiếp sức cho các sản phẩm OCOP ở Quảng Ngãi

1. Lan tỏa thương hiệu OCOP từ vốn chính sách

OCOP là chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát huy nội lực (trí tuệ, sự sáng tạo, lao động, nguyên liệu và văn hóa địa phương...) và gia tăng giá trị, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới. Chương trình OCOP được nhiều nước trên thế giới triển khai với các tên gọi khác nhau, nhưng đều có điểm chung là phát huy nội lực của các địa phương gắn với đơn vị làng, xã để tập trung phát triển các sản phẩm ngành nghề nông thôn có giá trị gia tăng cao và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong cơ chế thị trường.

Trọng tâm Chương trình OCOP ở Việt Nam là phát triển sản nhiều công nghiệp, phi nông nghiệp và dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, gắn với các chủ thể. Các chủ thể tham gia Chương trình OCOP bao gồm các thành phần kinh tế tập thể (hợp tác xã, tổ hợp tác) và kinh tế tư nhân (doanh nghiệp, hộ sản xuất). Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, ban hành khung pháp lý và chính sách để thực hiện định hướng phát triển trục sản phẩm đặc sản địa phương, các vùng sản xuất hàng hóa, dịch vụ; quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; hỗ trợ đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ tín dụng, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm.

Trong những năm qua, các cơ sở tham gia Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi đã có những bước phát triển đáng kể cả về số lượng sản phẩm lẫn chất lượng, góp phần tạo nên sự chuyển mình mạnh mẽ của kinh tế nông thôn. Các sản phẩm đặc trưng mang đậm bản sắc địa phương như: Nước mắm Mười Quý, hành tỏi Lý Sơn, quế Trà Bồng… không chỉ tạo dựng được thương hiệu mà còn dần mở rộng thị trường tiêu thụ, vươn xa ra ngoài tỉnh, thậm chí xuất khẩu.

Với nhiều nỗ lực, đến nay số lượng sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ngãi có sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2019 - 2024. Giai đoạn 2019 - 2021, toàn tỉnh có 61 sản phẩm được chứng nhận OCOP, trong đó có 4 sản phẩm đạt 4 sao; năm 2022 tăng thêm 65 sản phẩm (tăng 6,56%), trong đó sản phẩm OCOP 4 sao tăng 25%. Năm 2023 số lượng sản phẩm mới đạt OCOP là 100 sản phẩm, trong đó có 10 sản phẩm 4 sao, tốc độ tăng trưởng đạt tới 53,85%. Sang năm 2024, số lượng sản phẩm OCOP được đánh giá đạt thêm 99 sản phẩm, giảm 1% so với năm trước nhưng vượt 141,42% kế hoạch đề ra.

Lũy kế từ khi triển khai Chương trình OCOP, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 325 sản phẩm đạt chuẩn OCOP, trong đó có 65 sản phẩm không tiếp tục duy trì đánh giá, phân hạng do không tiếp cận được thị trường và phát huy hiệu quả kinh doanh. Đến hết năm 2024, toàn tỉnh còn lại 260 sản phẩm OCOP, gồm 2 sản phẩm tiềm năng 5 sao; 16 sản phẩm 4 sao và 242 sản phẩm 3 sao; có 173/260 sản phẩm được bán trên các sàn thương mại điện tử như Shopee, Voso, Postmart... và xây dựng được 20 điểm giới thiệu, bán sản phẩm OCOP.

Đến tháng 4/2025, toàn tỉnh Quảng Ngãi đã có tổng cộng 271 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 16 sản phẩm đạt 4 sao, 253 sản phẩm đạt 3 sao và 2 sản phẩm đang được đánh giá là tiềm năng đạt 5 sao. Chương trình đã được triển khai đồng bộ tại cả 13 huyện, thị xã và thành phố trên địa bàn tỉnh, với sự tham gia của 160 chủ thể, bao gồm 23 doanh nghiệp, 42 hợp tác xã và 95 cơ sở, hộ sản xuất kinh doanh.

Đặc biệt, đến nay tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ hình thành và duy trì các chuỗi giá trị bền vững từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm OCOP, góp phần xây dựng và phát triển thương hiệu OCOP ở Quảng Ngãi, tạo dấu ấn trên thị trường. Thông qua chương trình OCOP và nguồn hỗ trợ từ tín dụng chính sách, các sản phẩm đã có nhiều thay đổi về chất lượng, bao bì nhãn mác, bộ nhận diện thương hiệu, quy mô sản xuất; thị trường tiêu thụ cũng được mở rộng, từ chỉ bán trong huyện, xã, cho thương lái, nay đã đưa vào các đại lý ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Giai đoạn 2020 - 2024, các khoản vay chủ yếu gắn với chương trình cho vay giải quyết việc làm cho người lao động, quy mô vốn vay nhỏ, không có tài sản bảo đảm, 100% từ nguồn vốn ngân sách địa phương.

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình OCOP, UBND tỉnh Quảng Ngãi khẳng định: Chương trình OCOP đã góp phần chuyển đổi nền sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng chuẩn hóa, hiện đại, hiệu quả và bền vững hơn; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Công tác tổ chức thực hiện chương trình ở các cấp, các ngành đã được định hình cơ bản về nhận thức, giải pháp và phương thức thực hiện.

Chương trình OCOP đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành, trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chương trình đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế nông thôn, góp phần chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản xuất theo chuỗi giá trị, có tiêu chuẩn, quy chuẩn, truy xuất nguồn gốc và theo nhu cầu thị trường; khơi dậy tiềm năng đất đai, sản vật, lợi thế so sánh, đặc biệt là các giá trị văn hóa vùng miền để hình thành các sản phẩm OCOP tích hợp “đa giá trị”, gắn kết phát triển nông nghiệp với dịch vụ, du lịch.

Nguồn vốn thực hiện Chương trình OCOP bao gồm: Vốn ngân sách Trung ương; vốn ngân sách địa phương; vốn tín dụng (gồm vốn tín dụng ưu đãi từ NHCSXH, vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác, các quỹ đầu tư, quỹ phát triển doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã...); vốn tự huy động của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất; vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án khác; vốn huy động hợp pháp khác. Một trong những lực đẩy quan trọng góp phần giúp chương trình OCOP tại Quảng Ngãi đạt được những thành tựu nêu trên chính là sự đồng hành của NHCSXH. Theo đại diện NHCSXH chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi, nguồn vốn tín dụng ưu đãi đã giúp các chủ thể OCOP đầu tư sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh.

Vốn vay ưu đãi từ tín dụng chính sách là “chìa khóa” để các chủ thể OCOP mở rộng sản xuất, nâng cấp công nghệ và cơ sở vật chất. Nhờ nguồn lực này, nhiều sản phẩm OCOP đã được nâng hạng lên 3 - 5 sao, gia tăng giá trị thương hiệu và chinh phục thị trường rộng lớn hơn.

Thực tế, từ sự hỗ trợ kịp thời của NHCSXH, nhiều mô hình sản xuất OCOP đã phát triển vững chắc, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Tiêu biểu như gia đình bà Phạm Hồng Thắm tại xã Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ, nơi có nghề làm muối truyền thống Sa Huỳnh. Với khoản vay 100 triệu đồng từ chương trình giải quyết việc làm, bà Phạm Hồng Thắm đầu tư chế biến các dòng sản phẩm muối cao cấp như muối tre, hoa muối… và đạt chứng nhận OCOP 4 sao. Đến nay, thương hiệu muối sạch của gia đình bà đã có mặt tại hơn 30 đại lý trên toàn quốc, góp phần gìn giữ nghề muối truyền thống, đồng thời mang lại thu nhập ổn định cho nhiều lao động địa phương.

Tại huyện Nghĩa Hành, địa phương đang nỗ lực giữ vững danh hiệu huyện nông thôn mới và phấn đấu đạt chuẩn xã nông thôn mới nâng cao, chương trình OCOP được xác định là một trong những giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. Ông Đỗ Văn Kha, Giám đốc Phòng giao dịch NHCSXH huyện Nghĩa Hành cho biết, thời gian qua, đơn vị đã tập trung giải ngân vốn kịp thời cho các hộ sản xuất nông nghiệp tiêu biểu, các chủ thể OCOP có tiềm năng nâng hạng sản phẩm. Tín dụng chính sách không chỉ giúp người dân có vốn phát triển sản xuất mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo việc làm bền vững tại địa phương. Qua đó, giúp các sản phẩm OCOP của huyện ngày càng khẳng định được chỗ đứng trên thị trường và hướng tới xuất khẩu.

2. Một số khó khăn, hạn chế

Theo các chuyên gia, hiệu quả tín dụng gắn với OCOP còn phụ thuộc nhiều vào khả năng tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm không đáp ứng được thị hiếu thị trường, không có đầu ra ổn định, việc hoàn trả vốn sẽ gặp khó khăn, dẫn tới rủi ro tín dụng. Vì vậy, việc phối hợp chặt chẽ giữa NHCSXH, chính quyền địa phương và các tổ chức hội, đoàn thể trong hỗ trợ kỹ thuật, tuyên truyền và giám sát quá trình sử dụng vốn là rất cần thiết.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của các chủ thể OCOP. Đặc biệt, NHCSXH và cơ quan quản lý Chương trình OCOP chưa xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ và hiệu quả trong triển khai tín dụng chính sách hỗ trợ các chủ thể OCOP.

Trong khi đó, đối với NHCSXH, việc nhiều chủ thể OCOP chưa tiếp cận được nguồn vốn chính thức cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ phát triển tín dụng gắn với chương trình này. Điều đó phản ánh sự quan tâm của ngân hàng và chính quyền địa phương trong việc tập trung nguồn lực phát triển Chương trình OCOP.

Các ngân hàng thương mại thường áp dụng chính sách hạn chế cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp do lo ngại rủi ro và nợ xấu cao, vì vậy, rủi ro đối với các chủ thể OCOP cũng được đánh giá khá lớn. Khi thiếu lịch sử tín dụng vững chắc và khả năng thanh toán chưa bảo đảm, các chủ thể OCOP thường bị xếp vào nhóm rủi ro cao, dẫn tới việc tiếp cận vốn gặp nhiều hạn chế. Điều này tạo nên một vòng luẩn quẩn: thiếu vốn khiến năng lực sản xuất yếu, khả năng gia tăng thu nhập hạn chế, khó trả nợ; từ đó bị đánh giá rủi ro cao, và kết quả là không thể tiếp cận nguồn tín dụng để giải quyết bài toán thiếu vốn.

Bên cạnh đó, các chủ thể OCOP còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận tài chính như thiếu tài sản bảo đảm, thiếu thông tin. Mặc dù Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách tín dụng ưu đãi, nhưng các chủ thể OCOP thường gặp khó khăn trong đáp ứng các tiêu chí về tài sản thế chấp và năng lực quản trị tài chính. Với quy mô nhỏ, vốn tự có hạn chế, nhiều chủ thể OCOP không có đủ tài sản để thế chấp, khiến việc vay vốn với lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài trở nên khó khăn. Điều này không chỉ hạn chế khả năng đầu tư mở rộng sản xuất mà còn cản trở việc nâng cao chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh trên thị trường.

Về phía chính quyền địa phương, các cán bộ phụ trách Chương trình OCOP chủ yếu kiêm nhiệm, dẫn đến thiếu thời gian và chuyên môn trong việc triển khai hiệu quả chương trình, làm giảm chất lượng quản lý và giám sát…

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Để tiếp tục phát huy hiệu quả chương trình tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị như sau:

Về phía NHCSXH chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi: Tăng cường nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH dành riêng cho các chủ thể OCOP - yếu tố then chốt để mở rộng đối tượng vay vốn, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển sản xuất. Tích cực tuyên truyền về chương trình tín dụng chính sách đến các chủ thể OCOP, trong đó nhấn mạnh vai trò hỗ trợ gián tiếp từ các chương trình cho vay như hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm; cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn… nhằm giúp các chủ thể OCOP có thêm nguồn lực phát triển bền vững. Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ để bảo đảm các khoản vay được sử dụng đúng mục đích và mang lại hiệu quả kinh tế. Việc kiểm tra, giám sát không chỉ giúp tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh, tổ hợp tác sản xuất - những đơn vị thường gặp khó khăn khi tiếp cận tín dụng ngân hàng thương mại, mà còn nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc hoàn trả vốn, nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng duy trì các chương trình hỗ trợ tương tự trong tương lai.

Về phía các chủ thể OCOP: Nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng sản xuất - kinh doanh, chủ động xây dựng phương án kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường. Đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, GMP, ISO… nhằm nâng cao chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và mở rộng kênh tiêu thụ. Đặc biệt, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ sản phẩm vẫn là yếu tố sống còn. Cần đầu tư bài bản vào bao bì, nhãn mác, quảng bá hình ảnh sản phẩm gắn với biểu trưng OCOP, nhằm khẳng định vị thế sản phẩm địa phương trên thị trường trong nước và quốc tế.

Về phía chính quyền địa phương: Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng và chủ thể OCOP về tín dụng chính sách; tạo điều kiện để các chủ thể tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của NHCSXH để đầu tư phát triển sản phẩm. Tổ chức các chương trình hướng dẫn, hỗ trợ chủ thể OCOP xây dựng phương án kinh doanh, nâng cao kỹ năng quản trị tài chính. Các nghiên cứu cho thấy, năng lực quản trị, kỹ năng sử dụng và quản lý vốn của các chủ thể OCOP còn hạn chế. Việc tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về quản trị tài chính, lập kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý sản xuất - kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp OCOP cải thiện năng lực nội bộ. Điều này không chỉ giúp tăng khả năng tiếp cận tín dụng mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy đầu tư mở rộng sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm….

Tài liệu tham khảo:

1. Anang, BT, Bäckman, S., & Sipiläinen, T. (2016). Tín dụng vi mô nông nghiệp và hiệu quả kỹ thuật. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ở vùng Nhiệt đới và Cận nhiệt đới.

2. Anh, N. T. P. (2024). Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến ý định mua sản phẩm OCOP của người tiêu dùng Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Chính sách và Phát triển, 1(1), trang 72-86.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2021). Báo cáo thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020 tại Hội nghị tổng kết Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020, ngày 23/3/2021.

4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2022). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2019 - 2021, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

5. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2023). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2022, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2023 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

6. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2024). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2023, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2024 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

7. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2025). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2024, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Trần Duy Cường
Ngân hàng Chính sách xã hội Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng