Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Hoạt động ngân hàng
Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
aa

Tóm tắt: Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua đã góp phần tích cực vào chuyển dịch kinh tế nông thôn theo hướng chuẩn hóa sản phẩm và liên kết chuỗi giá trị. Trong đó, nguồn lực tài chính, đặc biệt là tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đóng vai trò then chốt. Bài viết phân tích tác động của vốn vay ưu đãi đối với các chủ thể OCOP, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất và tiếp cận thị trường. Qua các minh chứng thực tiễn và số liệu cụ thể, bài viết làm rõ hiệu quả của tín dụng chính sách, đồng thời chỉ ra những rào cản trong tiếp cận vốn. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phối hợp, nâng cao năng lực quản trị tài chính và hiệu quả sử dụng vốn, hướng tới phát triển bền vững các sản phẩm OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi.

Từ khóa: Chương trình OCOP, tín dụng chính sách, phát triển nông thôn, Quảng Ngãi, tiếp cận tài chính.

POLICY CREDIT SUPPORTING THE EXPANSION OF OCOP PRODUCTS
IN QUANG NGAI PROVINCE

Abstract: The “One Commune One Product” (OCOP) program in Quang Ngai province has significantly contributed to rural economic transformation through product standardization and value chain integration. A key factor behind its success is the financial support from policy credit sources, especially from the Vietnam Bank for Social Policies. This article analyzes how preferential loans have enabled OCOP entities to improve product quality, expand production, and enhance market access. Through typical examples and statistical data, the study highlights the positive impact of policy credit on OCOP development and identifies barriers to credit accessibility. Additionally, recommendations are proposed to strengthen coordination among stakeholders, improve financial management capacity and the effectiveness of credit, support to ensure sustainable development of OCOP products in Quang Ngai.

Keywords: OCOP program, policy credit, rural development, Quang Ngai, financial access.

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi
Tín dụng chính sách đã và đang tiếp sức cho các sản phẩm OCOP ở Quảng Ngãi

1. Lan tỏa thương hiệu OCOP từ vốn chính sách

OCOP là chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát huy nội lực (trí tuệ, sự sáng tạo, lao động, nguyên liệu và văn hóa địa phương...) và gia tăng giá trị, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới. Chương trình OCOP được nhiều nước trên thế giới triển khai với các tên gọi khác nhau, nhưng đều có điểm chung là phát huy nội lực của các địa phương gắn với đơn vị làng, xã để tập trung phát triển các sản phẩm ngành nghề nông thôn có giá trị gia tăng cao và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong cơ chế thị trường.

Trọng tâm Chương trình OCOP ở Việt Nam là phát triển sản nhiều công nghiệp, phi nông nghiệp và dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, gắn với các chủ thể. Các chủ thể tham gia Chương trình OCOP bao gồm các thành phần kinh tế tập thể (hợp tác xã, tổ hợp tác) và kinh tế tư nhân (doanh nghiệp, hộ sản xuất). Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, ban hành khung pháp lý và chính sách để thực hiện định hướng phát triển trục sản phẩm đặc sản địa phương, các vùng sản xuất hàng hóa, dịch vụ; quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; hỗ trợ đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ tín dụng, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm.

Trong những năm qua, các cơ sở tham gia Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi đã có những bước phát triển đáng kể cả về số lượng sản phẩm lẫn chất lượng, góp phần tạo nên sự chuyển mình mạnh mẽ của kinh tế nông thôn. Các sản phẩm đặc trưng mang đậm bản sắc địa phương như: Nước mắm Mười Quý, hành tỏi Lý Sơn, quế Trà Bồng… không chỉ tạo dựng được thương hiệu mà còn dần mở rộng thị trường tiêu thụ, vươn xa ra ngoài tỉnh, thậm chí xuất khẩu.

Với nhiều nỗ lực, đến nay số lượng sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Ngãi có sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2019 - 2024. Giai đoạn 2019 - 2021, toàn tỉnh có 61 sản phẩm được chứng nhận OCOP, trong đó có 4 sản phẩm đạt 4 sao; năm 2022 tăng thêm 65 sản phẩm (tăng 6,56%), trong đó sản phẩm OCOP 4 sao tăng 25%. Năm 2023 số lượng sản phẩm mới đạt OCOP là 100 sản phẩm, trong đó có 10 sản phẩm 4 sao, tốc độ tăng trưởng đạt tới 53,85%. Sang năm 2024, số lượng sản phẩm OCOP được đánh giá đạt thêm 99 sản phẩm, giảm 1% so với năm trước nhưng vượt 141,42% kế hoạch đề ra.

Lũy kế từ khi triển khai Chương trình OCOP, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 325 sản phẩm đạt chuẩn OCOP, trong đó có 65 sản phẩm không tiếp tục duy trì đánh giá, phân hạng do không tiếp cận được thị trường và phát huy hiệu quả kinh doanh. Đến hết năm 2024, toàn tỉnh còn lại 260 sản phẩm OCOP, gồm 2 sản phẩm tiềm năng 5 sao; 16 sản phẩm 4 sao và 242 sản phẩm 3 sao; có 173/260 sản phẩm được bán trên các sàn thương mại điện tử như Shopee, Voso, Postmart... và xây dựng được 20 điểm giới thiệu, bán sản phẩm OCOP.

Đến tháng 4/2025, toàn tỉnh Quảng Ngãi đã có tổng cộng 271 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 16 sản phẩm đạt 4 sao, 253 sản phẩm đạt 3 sao và 2 sản phẩm đang được đánh giá là tiềm năng đạt 5 sao. Chương trình đã được triển khai đồng bộ tại cả 13 huyện, thị xã và thành phố trên địa bàn tỉnh, với sự tham gia của 160 chủ thể, bao gồm 23 doanh nghiệp, 42 hợp tác xã và 95 cơ sở, hộ sản xuất kinh doanh.

Đặc biệt, đến nay tín dụng chính sách xã hội đã hỗ trợ hình thành và duy trì các chuỗi giá trị bền vững từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm OCOP, góp phần xây dựng và phát triển thương hiệu OCOP ở Quảng Ngãi, tạo dấu ấn trên thị trường. Thông qua chương trình OCOP và nguồn hỗ trợ từ tín dụng chính sách, các sản phẩm đã có nhiều thay đổi về chất lượng, bao bì nhãn mác, bộ nhận diện thương hiệu, quy mô sản xuất; thị trường tiêu thụ cũng được mở rộng, từ chỉ bán trong huyện, xã, cho thương lái, nay đã đưa vào các đại lý ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Giai đoạn 2020 - 2024, các khoản vay chủ yếu gắn với chương trình cho vay giải quyết việc làm cho người lao động, quy mô vốn vay nhỏ, không có tài sản bảo đảm, 100% từ nguồn vốn ngân sách địa phương.

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình OCOP, UBND tỉnh Quảng Ngãi khẳng định: Chương trình OCOP đã góp phần chuyển đổi nền sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng chuẩn hóa, hiện đại, hiệu quả và bền vững hơn; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Công tác tổ chức thực hiện chương trình ở các cấp, các ngành đã được định hình cơ bản về nhận thức, giải pháp và phương thức thực hiện.

Chương trình OCOP đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành, trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chương trình đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế nông thôn, góp phần chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản xuất theo chuỗi giá trị, có tiêu chuẩn, quy chuẩn, truy xuất nguồn gốc và theo nhu cầu thị trường; khơi dậy tiềm năng đất đai, sản vật, lợi thế so sánh, đặc biệt là các giá trị văn hóa vùng miền để hình thành các sản phẩm OCOP tích hợp “đa giá trị”, gắn kết phát triển nông nghiệp với dịch vụ, du lịch.

Nguồn vốn thực hiện Chương trình OCOP bao gồm: Vốn ngân sách Trung ương; vốn ngân sách địa phương; vốn tín dụng (gồm vốn tín dụng ưu đãi từ NHCSXH, vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác, các quỹ đầu tư, quỹ phát triển doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã...); vốn tự huy động của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất; vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án khác; vốn huy động hợp pháp khác. Một trong những lực đẩy quan trọng góp phần giúp chương trình OCOP tại Quảng Ngãi đạt được những thành tựu nêu trên chính là sự đồng hành của NHCSXH. Theo đại diện NHCSXH chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi, nguồn vốn tín dụng ưu đãi đã giúp các chủ thể OCOP đầu tư sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh.

Vốn vay ưu đãi từ tín dụng chính sách là “chìa khóa” để các chủ thể OCOP mở rộng sản xuất, nâng cấp công nghệ và cơ sở vật chất. Nhờ nguồn lực này, nhiều sản phẩm OCOP đã được nâng hạng lên 3 - 5 sao, gia tăng giá trị thương hiệu và chinh phục thị trường rộng lớn hơn.

Thực tế, từ sự hỗ trợ kịp thời của NHCSXH, nhiều mô hình sản xuất OCOP đã phát triển vững chắc, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Tiêu biểu như gia đình bà Phạm Hồng Thắm tại xã Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ, nơi có nghề làm muối truyền thống Sa Huỳnh. Với khoản vay 100 triệu đồng từ chương trình giải quyết việc làm, bà Phạm Hồng Thắm đầu tư chế biến các dòng sản phẩm muối cao cấp như muối tre, hoa muối… và đạt chứng nhận OCOP 4 sao. Đến nay, thương hiệu muối sạch của gia đình bà đã có mặt tại hơn 30 đại lý trên toàn quốc, góp phần gìn giữ nghề muối truyền thống, đồng thời mang lại thu nhập ổn định cho nhiều lao động địa phương.

Tại huyện Nghĩa Hành, địa phương đang nỗ lực giữ vững danh hiệu huyện nông thôn mới và phấn đấu đạt chuẩn xã nông thôn mới nâng cao, chương trình OCOP được xác định là một trong những giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. Ông Đỗ Văn Kha, Giám đốc Phòng giao dịch NHCSXH huyện Nghĩa Hành cho biết, thời gian qua, đơn vị đã tập trung giải ngân vốn kịp thời cho các hộ sản xuất nông nghiệp tiêu biểu, các chủ thể OCOP có tiềm năng nâng hạng sản phẩm. Tín dụng chính sách không chỉ giúp người dân có vốn phát triển sản xuất mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo việc làm bền vững tại địa phương. Qua đó, giúp các sản phẩm OCOP của huyện ngày càng khẳng định được chỗ đứng trên thị trường và hướng tới xuất khẩu.

2. Một số khó khăn, hạn chế

Theo các chuyên gia, hiệu quả tín dụng gắn với OCOP còn phụ thuộc nhiều vào khả năng tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm không đáp ứng được thị hiếu thị trường, không có đầu ra ổn định, việc hoàn trả vốn sẽ gặp khó khăn, dẫn tới rủi ro tín dụng. Vì vậy, việc phối hợp chặt chẽ giữa NHCSXH, chính quyền địa phương và các tổ chức hội, đoàn thể trong hỗ trợ kỹ thuật, tuyên truyền và giám sát quá trình sử dụng vốn là rất cần thiết.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của các chủ thể OCOP. Đặc biệt, NHCSXH và cơ quan quản lý Chương trình OCOP chưa xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ và hiệu quả trong triển khai tín dụng chính sách hỗ trợ các chủ thể OCOP.

Trong khi đó, đối với NHCSXH, việc nhiều chủ thể OCOP chưa tiếp cận được nguồn vốn chính thức cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ phát triển tín dụng gắn với chương trình này. Điều đó phản ánh sự quan tâm của ngân hàng và chính quyền địa phương trong việc tập trung nguồn lực phát triển Chương trình OCOP.

Các ngân hàng thương mại thường áp dụng chính sách hạn chế cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp do lo ngại rủi ro và nợ xấu cao, vì vậy, rủi ro đối với các chủ thể OCOP cũng được đánh giá khá lớn. Khi thiếu lịch sử tín dụng vững chắc và khả năng thanh toán chưa bảo đảm, các chủ thể OCOP thường bị xếp vào nhóm rủi ro cao, dẫn tới việc tiếp cận vốn gặp nhiều hạn chế. Điều này tạo nên một vòng luẩn quẩn: thiếu vốn khiến năng lực sản xuất yếu, khả năng gia tăng thu nhập hạn chế, khó trả nợ; từ đó bị đánh giá rủi ro cao, và kết quả là không thể tiếp cận nguồn tín dụng để giải quyết bài toán thiếu vốn.

Bên cạnh đó, các chủ thể OCOP còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận tài chính như thiếu tài sản bảo đảm, thiếu thông tin. Mặc dù Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách tín dụng ưu đãi, nhưng các chủ thể OCOP thường gặp khó khăn trong đáp ứng các tiêu chí về tài sản thế chấp và năng lực quản trị tài chính. Với quy mô nhỏ, vốn tự có hạn chế, nhiều chủ thể OCOP không có đủ tài sản để thế chấp, khiến việc vay vốn với lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài trở nên khó khăn. Điều này không chỉ hạn chế khả năng đầu tư mở rộng sản xuất mà còn cản trở việc nâng cao chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh trên thị trường.

Về phía chính quyền địa phương, các cán bộ phụ trách Chương trình OCOP chủ yếu kiêm nhiệm, dẫn đến thiếu thời gian và chuyên môn trong việc triển khai hiệu quả chương trình, làm giảm chất lượng quản lý và giám sát…

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Để tiếp tục phát huy hiệu quả chương trình tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị như sau:

Về phía NHCSXH chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi: Tăng cường nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH dành riêng cho các chủ thể OCOP - yếu tố then chốt để mở rộng đối tượng vay vốn, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển sản xuất. Tích cực tuyên truyền về chương trình tín dụng chính sách đến các chủ thể OCOP, trong đó nhấn mạnh vai trò hỗ trợ gián tiếp từ các chương trình cho vay như hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm; cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn… nhằm giúp các chủ thể OCOP có thêm nguồn lực phát triển bền vững. Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ để bảo đảm các khoản vay được sử dụng đúng mục đích và mang lại hiệu quả kinh tế. Việc kiểm tra, giám sát không chỉ giúp tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh, tổ hợp tác sản xuất - những đơn vị thường gặp khó khăn khi tiếp cận tín dụng ngân hàng thương mại, mà còn nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc hoàn trả vốn, nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng duy trì các chương trình hỗ trợ tương tự trong tương lai.

Về phía các chủ thể OCOP: Nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng sản xuất - kinh doanh, chủ động xây dựng phương án kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường. Đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, GMP, ISO… nhằm nâng cao chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và mở rộng kênh tiêu thụ. Đặc biệt, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ sản phẩm vẫn là yếu tố sống còn. Cần đầu tư bài bản vào bao bì, nhãn mác, quảng bá hình ảnh sản phẩm gắn với biểu trưng OCOP, nhằm khẳng định vị thế sản phẩm địa phương trên thị trường trong nước và quốc tế.

Về phía chính quyền địa phương: Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng và chủ thể OCOP về tín dụng chính sách; tạo điều kiện để các chủ thể tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của NHCSXH để đầu tư phát triển sản phẩm. Tổ chức các chương trình hướng dẫn, hỗ trợ chủ thể OCOP xây dựng phương án kinh doanh, nâng cao kỹ năng quản trị tài chính. Các nghiên cứu cho thấy, năng lực quản trị, kỹ năng sử dụng và quản lý vốn của các chủ thể OCOP còn hạn chế. Việc tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về quản trị tài chính, lập kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý sản xuất - kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp OCOP cải thiện năng lực nội bộ. Điều này không chỉ giúp tăng khả năng tiếp cận tín dụng mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy đầu tư mở rộng sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm….

Tài liệu tham khảo:

1. Anang, BT, Bäckman, S., & Sipiläinen, T. (2016). Tín dụng vi mô nông nghiệp và hiệu quả kỹ thuật. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ở vùng Nhiệt đới và Cận nhiệt đới.

2. Anh, N. T. P. (2024). Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến ý định mua sản phẩm OCOP của người tiêu dùng Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Chính sách và Phát triển, 1(1), trang 72-86.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2021). Báo cáo thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020 tại Hội nghị tổng kết Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020, ngày 23/3/2021.

4. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2022). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2019 - 2021, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

5. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2023). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2022, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2023 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

6. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2024). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2023, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2024 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

7. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi (2025). Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) năm 2024, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện năm 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Trần Duy Cường
Ngân hàng Chính sách xã hội Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô