Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng: Tuân thủ các quy định về an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu

Công nghệ & ngân hàng số
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia.
aa

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia. Việc tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích cho cả hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ tài chính - ngân hàng, từ cải thiện tính chính xác trong xác thực, đến nâng cao trải nghiệm khách hàng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế số. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả tối đa, cần giải quyết các vấn đề về bảo mật, hạ tầng công nghệ và sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.

Theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06), một trong các nhiệm vụ ngành Ngân hàng cần triển khai bao gồm: Tích hợp, phát triển các ứng dụng trên nền tảng hệ thống định danh và xác thực điện tử với các ứng dụng cốt lõi như: Ví điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, chứng khoán, điện, nước... lên ứng dụng VNeID, mã QR của thẻ CCCD gắn chíp điện tử; triển khai rộng rãi việc ứng dụng các tính năng của chíp điện tử trên thẻ CCCD đối với các hoạt động tài chính, ngân hàng (mở tài khoản, nhận biết khách hàng, thanh toán, cho vay, ví điện tử...) và một số lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội khác.

Ngành Ngân hàng quyết liệt trong triển khai thực hiện Đề án 06

Ngày 24/4/2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã phối hợp Bộ Công an ký kết Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNNVN về triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 (Kế hoạch 01). Từ đó đến nay, ngành Ngân hàng đã rất tích cực và nỗ lực để triển khai các nhiệm vụ đặt ra tại Kế hoạch 01, đặc biệt là đối với những nhiệm vụ liên quan đến việc kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, làm sạch dữ liệu khách hàng và các hoạt động nghiệp vụ của ngành Ngân hàng; ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp và VNeID để xác minh khách hàng khi cung ứng dịch vụ, qua đó góp phần tăng cường an ninh, an toàn trong quá trình phổ cập thanh toán số.

Ngày 01/02/2024, Thống đốc NHNN đã có Quyết định số 182/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch năm 2024 của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06; trong đó có nhiệm vụ: Kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống định danh và xác thực điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội: Ứng dụng xác thực người dân qua thẻ CCCD gắn chíp và tài khoản định danh điện tử khi cung cấp dịch vụ ngân hàng. Đồng thời, kết nối, khai thác dữ liệu dân cư phục vụ các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.

Với quan điểm​​​ lấy dữ liệu dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử là nền tảng, dữ liệu “gốc” phục vụ xác minh danh tính người dùng và phát triển đa tiện ích số cho người dân, doanh nghiệp, NHNN đã liên tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trung gian thanh toán (TGTT) nghiên cứu, ứng dụng dữ liệu về dân cư, CCCD gắn chíp, VNeID để làm sạch dữ liệu, nhận biết, xác minh chính xác khách hàng nhằm phòng, chống, ngăn ngừa việc tội phạm mạo danh, sử dụng giấy tờ tùy thân giả mạo đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng cho mục đích bất hợp pháp; đồng thời nghiên cứu ứng dụng dữ liệu dân cư trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thuận tiện, an toàn nhất đến với người dân, khách hàng.

Nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, nhiệm vụ tại Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06, ngày 18/12/2023, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2345/QĐ-NHNN về triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng (Quyết định số 2345) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024, trong đó có quy định từ ngày 01/7/2024, các giao dịch chuyển tiền điện tử của cá nhân có giá trị trên 10 triệu đồng hoặc tổng giá trị giao dịch chuyển tiền điện tử trong ngày vượt 20 triệu đồng phải áp dụng một trong các biện pháp xác thực sinh trắc học.

Việc ban hành Quyết định số 2345 là cần thiết, phù hợp với thực tiễn và nhiệm vụ đặt ra tại Kế hoạch triển khai của ngành Ngân hàng đối với Đề án 06; hướng tới mục tiêu bảo đảm người giao dịch ngân hàng trực tuyến là chính chủ nhằm bảo vệ khách hàng, góp phần giảm thiểu tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của khách hàng, cũng như phòng ngừa những vụ việc cho thuê, mượn, mua bán tài khoản thanh toán, ví điện tử sử dụng cho mục đích bất hợp pháp.

Theo NHNN, qua theo dõi số liệu báo cáo của các TCTD, kể từ khi áp dụng xác thực sinh trắc học (từ ngày 01/7/2024), số lượng vụ việc lừa đảo mất tiền của khách hàng và số lượng tài khoản có phát sinh nhận tiền lừa đảo ở các đơn vị đã giảm đáng kể, cụ thể: Số lượng vụ việc khách hàng bị lừa đảo mất tiền trong tháng 8/2024 giảm khoảng 50% so với số vụ việc trung bình 7 tháng đầu năm 2024. Đặc biệt tại một số đơn vị đã không có phát sinh số lượng vụ việc trong thời gian tháng 8 và tháng 9 vừa qua.

Về phía các TCTD, TGTT, thực hiện Kế hoạch triển khai Đề án 06 của ngành Ngân hàng và Kế hoạch 01, nhiều TCTD, TGTT đang phối hợp với C06 (Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an) triển khai mở rộng giải pháp xác thực khách hàng qua thẻ CCCD gắn chíp và triển khai giải pháp xác thực khách hàng qua ứng dụng VNeID trong việc mở tài khoản và sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, cụ thể:

Các TCTD, TGTT đang tích cực phối hợp với những doanh nghiệp được Bộ Công an cấp giấy phép cung cấp giải pháp xác thực người dùng bằng thẻ CCCD gắn chíp theo Quyết định số 2345. Tính đến ngày 18/10/2024, nhiều TCTD và TGTT đã ký hợp đồng và triển khai thực tế, đạt tổng cộng 46,4 triệu hồ sơ khách hàng được thu thập và đối chiếu thông tin sinh trắc học, trong đó: 53 TCTD và 43 TGTT đang phối hợp với Bộ Công an để triển khai ứng dụng xác thực thông tin sinh trắc học qua CCCD gắn chíp thông qua ứng dụng điện thoại; 62 TCTD đang hợp tác với doanh nghiệp được cấp phép để triển khai xác thực bằng thẻ CCCD gắn chíp thông qua thiết bị tại quầy giao dịch.

Đến hết tháng 9/2024, có 29 TCTD và 13 TGTT đang triển khai ứng dụng VNeID cho 3 luồng quy trình nghiệp vụ chính, gồm: Mở tài khoản thanh toán; xác thực giao dịch thanh toán; đối chiếu, xác thực thông tin khách hàng, trong đó, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã thực hiện thu thập, đối chiếu thông tin sinh trắc học cho hơn 1,1 triệu khách hàng cá nhân thông qua hệ thống VneID.

Về kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư liên quan đến nghiệp vụ thông tin tín dụng: Đến nay, Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đã hoàn thành 6 đợt xác thực với khoảng 57 triệu hồ sơ khách hàng theo phương thức offline. Bên cạnh đó, CIC đang tiếp tục phối hợp với C06, Bộ Công an để triển khai các công việc liên quan phục vụ thiết lập kênh xác thực online.

Ngoài ban hành Quyết định số 2345 nói trên, nhằm tăng cường an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, giao dịch trực tuyến, đẩy mạnh triển khai việc ứng dụng dữ liệu dân cư vào hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, ngày 28/6/2024, Thống đốc NHNN quy định về việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại TCTD cung ứng dịch vụ thanh toán tại Thông tư số 17/2024/TT-NHNN, quy định bắt buộc khách hàng chỉ được thực hiện rút tiền, giao dịch thanh toán bằng phương tiện điện tử trên tài khoản thanh toán khi đã hoàn thành việc đối chiếu khớp đúng giấy tờ tùy thân và thông tin sinh trắc học của chủ tài khoản hoặc người đại diện (đối với khách hàng cá nhân) hoặc người đại diện hợp pháp (đối với khách hàng tổ chức) với: (i) Dữ liệu sinh trắc học được lưu trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước của người đó đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử của người đó do Hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập; (ii) Dữ liệu sinh trắc học được thu thập thông qua gặp mặt trực tiếp người đó đối với trường hợp là người nước ngoài không sử dụng danh tính điện tử, người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch; (iii) Dữ liệu sinh trắc học đã được thu thập và kiểm tra (bảo đảm sự khớp đúng giữa dữ liệu sinh trắc học của người đó với dữ liệu sinh trắc học trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc với dữ liệu sinh trắc học của người đó thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử do Hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập); (iv) Dữ liệu sinh trắc học của người đó được lưu trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong trường hợp sử dụng thẻ CCCD không có bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa. Quy định được áp dụng đối với khách hàng cá nhân từ ngày 01/01/2025 và áp dụng đối với khách hàng tổ chức từ ngày 01/7/2025.

Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm an ninh an toàn trong giao dịch thẻ, tại khoản 6, Điều 16, Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng cũng nêu rõ, thẻ chỉ được sử dụng để thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử khi đã hoàn thành việc đối chiếu bảo đảm khớp đúng giấy tờ tùy thân và thông tin sinh trắc học của chủ thẻ với: (i) Dữ liệu sinh trắc học được lưu trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử của người đó do Hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập; (ii) Dữ liệu sinh trắc học đã được thu thập và kiểm tra (bảo đảm sự khớp đúng giữa dữ liệu sinh trắc học của người đó với dữ liệu sinh trắc học trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc với dữ liệu sinh trắc học của người đó thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử do Hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập); (iii) Dữ liệu sinh trắc học được thu thập thông qua gặp mặt trực tiếp người đó đối với trường hợp là người nước ngoài không sử dụng danh tính điện tử, người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch; (iv) Dữ liệu sinh trắc học của người đó được lưu trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong trường hợp sử dụng thẻ CCCD không có bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa.

Như vậy, từ ngày 01/01/2025, khách hàng không cung cấp dữ liệu sinh trắc học và chưa hoàn tất đối chiếu sẽ bị dừng toàn bộ giao dịch trực tuyến. Nếu muốn tiếp tục giao dịch, khách hàng sẽ phải đến trực tiếp ngân hàng. Quy định này không bắt buộc mọi giao dịch đều phải đối chiếu sinh trắc học, nhưng để đăng ký sử dụng Mobile Banking và Internet Banking, khách hàng cần hoàn tất quy trình đối chiếu sinh trắc học.

Việc triển khai xác thực sinh trắc học trong các giao dịch ngân hàng góp phần bảo đảm các giao dịch thanh toán trực tuyến được thực hiện bởi chính chủ tài khoản, qua đó sẽ nâng cao an ninh, an toàn, bảo mật cho các giao dịch thanh toán trực tuyến, giảm thiểu rủi ro gian lận, lừa đảo trong giao dịch thanh toán trực tuyến.

Chuẩn hóa thông tin khách hàng, tối ưu hóa hệ thống tài chính số

Quá trình số hóa và xây dựng dữ liệu chuẩn là nền tảng quan trọng giúp ngành Ngân hàng chuẩn hóa thông tin khách hàng, giảm thiểu gian lận, giả mạo và nâng cao khả năng tiếp cận khách hàng qua môi trường số an toàn và tiết kiệm. Việc tích hợp Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với dữ liệu ngân hàng sẽ tăng cường khả năng nhận diện và xác thực danh tính khách hàng nhanh chóng, chính xác, giúp giảm thiểu các trường hợp giả mạo thông tin và mở tài khoản ảo, đồng thời phòng chống gian lận trong giao dịch tài chính.

Cơ sở dữ liệu dân cư với các thông tin sinh trắc học như vân tay, khuôn mặt sẽ bảo đảm tính toàn vẹn và đồng bộ với dữ liệu ngân hàng, giúp quản lý và phục vụ khách hàng hiệu quả hơn. Thông qua dữ liệu tích hợp, ngân hàng có thể hiểu rõ hơn về khách hàng qua các thông tin nhân khẩu học, lịch sử tín dụng và giao dịch tài chính, từ đó cung cấp các sản phẩm tài chính tùy chỉnh, đáp ứng nhu cầu cá nhân. Việc này cũng giúp tăng tốc độ xử lý dịch vụ tài chính, như xét duyệt tín dụng hoặc khoản vay, nhờ có dữ liệu hỗ trợ phân tích và đánh giá.

Việc tích hợp còn thúc đẩy phát triển kinh tế số và quản lý nhà nước hiệu quả, hỗ trợ Chính phủ trong quản lý tài chính và thuế, giúp quá trình thu thuế minh bạch và chính xác hơn. Sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước và ngân hàng sẽ góp phần phát triển hệ thống tài chính số bền vững, minh bạch, hỗ trợ nền kinh tế số.

Dù mang lại nhiều lợi ích, quá trình áp dụng dữ liệu dân cư, CCCD và xác thực điện tử vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng gặp nhiều thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực và hợp tác chặt chẽ để tối ưu hóa hiệu quả:

Một là, tội phạm công nghệ cao ngày càng tinh vi và phức tạp trên quy mô toàn cầu, tạo ra thách thức lớn về an toàn thông tin cho ngành Ngân hàng khi triển khai các ứng dụng dựa trên dữ liệu dân cư, CCCD, định danh và xác thực điện tử. Sự phát triển nhanh chóng của các hình thức tấn công mạng đòi hỏi các ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ lộ lọt thông tin, mất an toàn dữ liệu, gây rủi ro cho cả khách hàng và hệ thống tài chính. Thêm vào đó, việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng cũng trở nên khó khăn khi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Rủi ro bị lộ thông tin hoặc sử dụng dữ liệu cá nhân sai mục đích có thể dẫn đến các hệ quả nghiêm trọng như xâm phạm quyền riêng tư, lừa đảo và gian lận tài chính.

Hai là, việc hoàn thiện hành lang pháp lý để theo kịp với quá trình chuyển đổi số là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi thời gian và nỗ lực điều chỉnh phù hợp. Ngành Ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc thay đổi nhận thức và thói quen của người dùng khi áp dụng các dịch vụ tài chính số. Các ngân hàng cũng cần đầu tư đáng kể về công nghệ, cơ sở hạ tầng và nguồn lực, cả về tài chính lẫn nhân lực, để bảo đảm điều kiện vận hành an toàn và hiệu quả. Đây là áp lực lớn về chi phí và thời gian, đặc biệt khi ngân hàng phải cân đối giữa việc đáp ứng yêu cầu bảo mật cao và tối ưu hóa trải nghiệm khách hàng trong quá trình số hóa.

Để ứng dụng dữ liệu dân cư, căn cước, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số lĩnh vực tài chính - ngân hàng, thúc đẩy các dịch vụ tài chính toàn diện, tài chính vi mô, thanh toán không dùng tiền mặt, về phía ngành Ngân hàng cần tiếp tục triển khai một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, ngành Ngân hàng cần tiếp tục bám sát chủ trương của Đảng, Nhà nước và Chính phủ trong việc thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt triển khai các nhiệm vụ trong Đề án 06 và Kế hoạch 01. Ngành cũng cần đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số của ngành Ngân hàng đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, nhằm đạt được các mục tiêu số hóa mà toàn Ngành đã đặt ra. Việc này không chỉ giúp hệ thống tài chính - ngân hàng vận hành hiệu quả hơn mà còn nâng cao trải nghiệm khách hàng trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính số an toàn và thuận tiện.

Thứ hai, NHNN cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để hoàn thiện khung pháp lý cho chuyển đổi số. Điều này nhằm bảo đảm rằng người dân và doanh nghiệp có thể sử dụng các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số một cách minh bạch, đúng quy định và bảo mật. Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý sẽ tạo nền tảng cho quá trình số hóa dịch vụ tài chính, góp phần thúc đẩy kinh tế số phát triển mạnh mẽ, bền vững và thu hút ngày càng nhiều người sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến.

Thứ ba, ngành Ngân hàng cần triển khai các giải pháp nhằm bảo đảm an ninh, an toàn trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân và tổ chức trong quá trình kết nối, chia sẻ, khai thác và sử dụng thông tin cho chuyển đổi số. NHNN có thể nghiên cứu quy định để TCTD không gửi SMS hoặc email có chứa đường dẫn liên kết đến khách hàng (trừ khi có yêu cầu cụ thể từ khách hàng). Quy định này sẽ giúp khách hàng dễ dàng nhận diện các tin nhắn hoặc email giả mạo, từ đó phòng, chống hiệu quả hành vi lừa đảo. Đồng thời, NHNN cần yêu cầu TCTD triển khai các biện pháp ngăn ngừa hành vi can thiệp trái phép vào ứng dụng Mobile Banking của khách hàng và mở rộng hệ thống giám sát các tài khoản thanh toán, ví điện tử nghi ngờ gian lận (SIMO) nhằm giám sát tài khoản thanh toán và ví điện tử nghi ngờ gian lận, giả mạo. Hệ thống SIMO sẽ cho phép các thành viên trong hệ thống cảnh báo, báo cáo thông tin về các tài khoản đáng ngờ và chia sẻ thông tin này với các thành viên khác, giúp tăng cường an ninh trong giao dịch tài chính.

Thứ tư, ngành Ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông... để bảo vệ dữ liệu cá nhân, thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ dữ liệu và cùng phối hợp trong công tác phòng, chống tội phạm trên không gian mạng, nhất là những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tài chính. Sự hợp tác này sẽ góp phần xây dựng môi trường giao dịch tài chính trực tuyến an toàn, đồng thời nâng cao uy tín của ngành Ngân hàng trong mắt người dân và doanh nghiệp.

Thứ năm, việc tăng cường truyền thông và giáo dục tài chính cũng là nhiệm vụ quan trọng của ngành Ngân hàng. Cần có những chương trình phổ biến kiến thức và kỹ năng cho người dân để họ tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính số một cách an toàn và hiệu quả. Điều này sẽ giúp nâng cao nhận thức về bảo mật thông tin, giúp khách hàng nhận diện các rủi ro tiềm ẩn trong giao dịch số và chủ động bảo vệ dữ liệu cá nhân của mình.

Thứ sáu, để chuyển đổi số thành công, không chỉ có ngành Ngân hàng mà các bộ, ngành và toàn xã hội đều cần thay đổi nhận thức và hành động. Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các đơn vị khác cần nghiên cứu và triển khai cơ chế đánh giá mức độ tin cậy của cá nhân và tổ chức tham gia hoạt động trên môi trường điện tử. Việc xây dựng chỉ số tin cậy sẽ giúp xác định mức độ uy tín của từng cá nhân và tổ chức, tạo điều kiện cho các giao dịch an toàn và giảm thiểu rủi ro, tăng cường công tác phòng, chống gian lận trong môi trường số.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”.

2. Quyết định số 182/QĐ-NHNN ngày 01/02/2024 của Thống đốc NHNN ban hành Kế hoạch năm 2024 của ngành Ngân hàng để triển khai Đề án 06.

3. Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023 của Thống đốc NHNN về việc triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng.

4. Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại TCTD cung ứng dịch vụ thanh toán.


Hà Thu (Hà Nội)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ứng dụng AI tạo sinh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Ứng dụng AI tạo sinh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Trí tuệ nhân tạo (AI) và Trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI) đang mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành Ngân hàng Việt Nam, nơi công nghệ không chỉ đóng vai trò hỗ trợ mà còn trở thành nhân tố trung tâm trong đổi mới mô hình hoạt động...
Cloud Computing - Nền tảng hạ tầng lõi cho chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam

Cloud Computing - Nền tảng hạ tầng lõi cho chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh Việt Nam ưu tiên phát triển hạ tầng đám mây trong nước, yêu cầu đặt ra là bảo đảm năng lực kỹ thuật, tiêu chuẩn bảo mật, khả năng mở rộng và tính ổn định của các nhà cung cấp nội địa trước khi triển khai trên quy mô ngành.
Phát triển thị trường ví điện tử góp phần thúc đẩy thanh toán số và chuyển đổi số

Phát triển thị trường ví điện tử góp phần thúc đẩy thanh toán số và chuyển đổi số

Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hoàn thiện môi trường pháp lý vững chắc, rõ ràng hơn cho hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (TGTT), trong đó có dịch vụ ví điện tử. Ví điện tử không chỉ là công cụ thanh toán tiện lợi mà còn trở thành một phần thiết yếu của hệ thống tài chính quốc gia, góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và chuyển đổi số ngành Ngân hàng.
Chuẩn chữ ký số dựa trên lưới - Giải pháp đảm bảo an toàn cho giao dịch điện tử trong kỷ nguyên máy tính lượng tử

Chuẩn chữ ký số dựa trên lưới - Giải pháp đảm bảo an toàn cho giao dịch điện tử trong kỷ nguyên máy tính lượng tử

Có thể thấy rằng chữ ký số dựa trên lưới là một hướng phát triển tất yếu nhằm bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử trong kỷ nguyên hậu lượng tử. Việc sớm nghiên cứu, thử nghiệm và xây dựng lộ trình chuyển đổi chuẩn mật mã quốc gia theo hướng hậu lượng tử sẽ giúp Việt Nam chủ động trong việc bảo vệ hạ tầng dữ liệu, thương mại điện tử và chính phủ số trước các nguy cơ an ninh mạng trong tương lai.
Sự bền vững của thói quen sử dụng ngân hàng số trong bối cảnh hậu Covid-19

Sự bền vững của thói quen sử dụng ngân hàng số trong bối cảnh hậu Covid-19

Bài viết này được thực hiện nhằm cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về sự bền vững và sự chuyển biến của các thói quen sử dụng ngân hàng số sau khủng hoảng. Dựa trên việc phân tích các nghiên cứu thực nghiệm từ nhiều quốc gia và bối cảnh khác nhau, nghiên cứu khám phá các động lực và rào cản đa chiều định hình hành vi của người dùng.
Ứng dụng học tăng cường trong quản trị danh mục đầu tư: Phân tích trắc lượng thư mục và xu hướng nghiên cứu tiềm năng

Ứng dụng học tăng cường trong quản trị danh mục đầu tư: Phân tích trắc lượng thư mục và xu hướng nghiên cứu tiềm năng

Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo và học máy đã mở ra những hướng tiếp cận mới cho quản trị danh mục đầu tư. Đặc biệt, học tăng cường đã thu hút sự quan tâm đáng kể từ cả giới học thuật lẫn thực tiễn nhờ khả năng học từ tương tác động với môi trường và thích ứng với các điều kiện thị trường thay đổi.
Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - tài chính khiến đồng nội tệ mất giá và niềm tin suy yếu, tiền mã hóa thường nổi lên như lựa chọn bảo toàn sức mua. Các cú sốc vĩ mô có thể đóng vai trò chất xúc tác thúc đẩy mở rộng hệ sinh thái tài sản mã hóa (hay tiền mã hóa).
Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Trong ngành Ngân hàng, sự hội tụ của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo không chỉ nâng cao hiệu quả vận hành mà còn củng cố quản trị rủi ro từ việc số hóa hồ sơ đến dự báo biến động thị trường. Bài viết sau đây tập trung vào ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong quản lý tài sản tại ngân hàng.
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô