Rộng mở đường đi tới hạnh phúc

Hoạt động ngân hàng
Hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập. Việc thực hiện tốt chính sách xã hội, trong đó có tín dụng chính sách xã hội là một giải pháp quan trọng để bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.
aa

Hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập. Việc thực hiện tốt chính sách xã hội, trong đó có tín dụng chính sách xã hội là một giải pháp quan trọng để bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân. Đặc biệt, 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40-CT/TW) là một minh chứng sống động cho sự kết tinh, thống nhất của “Ý Đảng, lòng Dân”, từ đó phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc trong triển khai tín dụng chính sách xã hội thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân.


NHCSXH cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn tại hơn 11.000 điểm giao dịch xã, phường, thị trấn trong cả nước

Krông Jing là xã đặc biệt khó khăn của huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk với dân số khoảng 12.345 người, gồm 15 dân tộc anh em cùng sinh sống. Ở đây, chuyện cũ mà bà con thường ôn lại là cuộc sống trước năm 2005 đầy khó khăn khi phải phụ thuộc hoàn toàn vào ruộng rẫy, điều kiện canh tác, sản xuất lạc hậu nên năng suất cây trồng, vật nuôi bấp bênh.

Chuyện chưa đến mùa đã thiếu ăn, thiếu tiền chi tiêu cho sinh hoạt, thậm chí cả tiền mua thuốc sâu, phân bón phổ biến trong các buôn, làng. Cách giải quyết để có tiền chi tiêu chỉ có một, đó là bán lúa non cho tư thương với giá rẻ. Đến vụ thu hoạch, thương lái vào tận ruộng lấy lúa, có gia đình không còn lúa mang về nhà. Người dân khó càng thêm khó, “tín dụng đen” cũng có cớ len lỏi vào trong buôn, làng của huyện M’Drắk.

Thấm được nỗi cùng cực của người dân, năm 2005, khi ông Y Hoan Ksơr được bầu làm Buôn trưởng buôn M'Lốc B, xã Krông Jing, lại đúng lúc chi nhánh NHCSXH tỉnh Đắk Lắk có chính sách hỗ trợ tín dụng cho bà con xóa tình trạng bán lúa non và “tín dụng đen”, ông Y Hoan Ksơr hiểu rằng cơ hội giúp bà con đã đến. Phát huy uy tín của Buôn trưởng với bà con, ông Y Hoan Ksơr cùng cán bộ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tuyên truyền đến từng nhà cho bà con hiểu về chính sách tín dụng, để tiếp cận vốn vay.

“Thời điểm đó ngân hàng cho vay 3 triệu đồng/hộ để xóa việc bán lúa non và “tín dụng đen”, bà con phấn khởi lắm, giúp bà con giải quyết nhiều bức bách, nhu cầu trong cuộc sống. Cây lúa không còn phải bán non mà chờ đến mùa thu hái giúp người dân có cái ăn, không còn lo đói”, ông Y Hoan Ksơr chia sẻ.

Đặc biệt, khi trở thành đảng viên và nay là Phó Bí thư Chi bộ buôn M'Lốc B, ông Y Hoan Ksơr càng có cơ hội được học tập, thấm nhuần đường lối, chính sách của Đảng. Cùng việc khảo nghiệm mô hình sản xuất tại nhiều địa phương, ông càng thêm quyết tâm tuyên truyền bà con vay vốn chính sách để nuôi bò, nuôi heo, trồng keo… để phát triển kinh tế và không lãng phí đất đai. Từ 96 hộ nghèo trên 120 hộ toàn buôn, đến nay, dù chuẩn nghèo đã nhiều lần thay đổi và hướng tới chuẩn nghèo đa chiều cùng với số hộ trong buôn đã lên tới 160 hộ, nhưng toàn buôn chỉ còn 52 hộ nghèo. Toàn buôn M'Lốc B không còn hộ đói, nhà nào cũng có tivi, xe máy và đã có hơn 30 hộ có nhà xây trị giá trên 500 triệu đồng.


Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Krông Jing Y Liêu Niê (áo trắng, thứ hai từ phải sang) cùng cán bộ NHCSXH thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn đồng bào sử dụng vốn vay ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh


Ông Y Liêu Niê - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND) xã Krông Jing, huyện M’Drắk cho biết: Krông Jing là xã đặc biệt khó khăn, địa bàn rộng, dân cư đông, hiện nay, tỉ lệ hộ nghèo rất cao là trăn trở lớn đối với cấp ủy, chính quyền địa phương. Chúng tôi nhận thức rằng, để giảm tỉ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo thì hạt nhân chính là chi bộ và trách nhiệm của mỗi đảng viên. Với phương châm: “Chi bộ năng làm, đảng viên sát hộ”, thời gian qua, chúng tôi cũng đã phân công các đảng viên, đặc biệt là các đồng chí Đảng ủy viên phụ trách từng buôn để giúp đỡ địa bàn cơ sở. Đặc biệt, có những đảng viên khi chưa được phân công nhiệm vụ, nhưng họ vẫn giúp đỡ người nghèo bằng nhiều cách trong khả năng, điều kiện có thể của mình. Chính vì lẽ đó, mà thời gian vừa qua tỉ lệ hộ nghèo của xã Krông Jin đã giảm mạnh, cuối năm 2023 chỉ còn 28% hộ nghèo, 11,6% hộ cận nghèo, trong khi tỉ lệ này năm 2021 là 42,67% và 19%.

Với xã Đại An, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh - nơi có 71,5% là đồng bào Khmer sinh sống. Dấu tích của một xã đặc biệt khó khăn trong Chương trình 135 theo Quyết định số 2405/QĐ-TTg ngày 10/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135 năm 2014 và năm 2015 đã nhạt phai theo dòng chảy Chỉ thị số 40-CT/TW. Sự tăng cường lãnh đạo của Đảng trong triển khai tín dụng chính sách xã hội thể hiện rõ từ việc Chủ tịch UBND xã tham gia vào Ban đại diện Hội đồng quản trị (HĐQT) NHCSXH cấp huyện. Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Đại An Nguyễn Trường Tam cho biết: “Từ khi là thành viên Ban đại diện HĐQT NHCSXH huyện, bản thân tôi luôn xác định đó là một trách nhiệm rất quan trọng. Từ đó, chỉ đạo, quan tâm tuyên truyền các chính sách, chủ trương pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chính sách tín dụng trên địa bàn để cho bà con tiếp cận vốn vay và phát triển cây trồng vật nuôi gắn với các định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế của xã đạt hiệu quả cao”.

Đặc biệt, chính quyền xã Đại An, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh đã tuyên truyền vận động người uy tín tham gia vào tuyên truyền và để động viên bà con người dân tộc chia sẻ, giúp nhau phát triển kinh tế. Trong đó có hai Sư cả trụ trì ở hai chùa Nam Tông Khmer trên địa bàn xã.

Ông Trần Kẹo - Trưởng Ban quản trị chùa Giồng Lớn, ấp Cây Da, xã Đại An cho biết, trước đây khó khăn nhất của bà con phật tử tại địa phương là vốn. Vì vậy, chúng tôi phối hợp với Đảng ủy, UBND xã và NHCSXH tuyên truyền cho bà con các chủ trương, chính sách, chương trình vay vốn. Đặc biệt, vào ngày Rằm và 30 hằng tháng, phật tử đến chùa khoảng trên 300 người, vì vậy, việc tuyên truyền các chính sách tín dụng chính sách, các gương thoát nghèo nhờ vốn tín dụng chính sách đã giúp bà con mạnh dạn hơn, vay vốn chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, xuất khẩu lao động…

“Bà con, phật tử của chùa Giồng Lớn, ấp Cây Da, cũng như xã Đại An rất vui mừng, phấn khởi được NHCSXH hỗ trợ cho vay vốn để tạo công ăn việc làm, từ đó ổn định đời sống gia đình”, ông Trần Kẹo cho biết.


Sản phẩm nông cụ lưu niệm bằng tre đan thu nhỏ tại cơ sở đan lát của bà Diệp Thị Trang - Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn ấp Giồng Đình, xã Đại An (ngồi giữa)

Hiệu ứng thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW thêm lan tỏa khi mỗi người dân đều có thể trở thành một người “dẫn lửa” cho tín dụng chính sách xã hội.

Như bà Diệp Thị Trang - Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn ấp Giồng Đình, xã Đại An. Không chỉ là người tiên phong chuyển đổi các sản phẩm nông cụ bằng tre đan thành những mô hình thu nhỏ làm quà lưu niệm cho khách du lịch, bà còn mở lớp truyền nghề làm hàng thủ công mỹ nghệ cho bà con trong ấp, đồng thời, biết khó khăn của chị em trước đây là thiếu tiền mua nguyên liệu, bà đã vận động chị em vay vốn để tăng gia sản xuất, đan lát, có thêm thu nhập trong lúc nông nhàn. Đến nay, cơ sở đan lát của bà có tới 87 chị em phụ nữ tham gia, trong đó có 52 chị em vay vốn. Tất cả các sản phẩm do chị em sản xuất đều được bà Trang bao tiêu.

Năm 2020, bộ sản phẩm đồ dùng sinh hoạt nông thôn thu nhỏ của hộ kinh doanh Diệp Thị Trang đạt giải Nhì sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu tỉnh Trà Vinh - lần thứ V và được công nhận là sản phẩm OCOP của tỉnh chuẩn 3 sao. Song với bà, niềm hạnh phúc hơn là tạo được việc làm cho chị em, bình quân 5 triệu đồng/tháng. “Tôi rất hạnh phúc vì các tổ viên được vay vốn làm đan lát, tăng gia sản xuất bây giờ vươn lên hết rồi, thoát nghèo hết rồi”, bà Trang tâm sự.

Những nỗ lực không ngừng nghỉ của các Sư thầy, bà Trang và Ban Nhân dân ấp Giồng Đình, xã Đại An cùng đảng bộ, chính quyền địa phương đã góp phần đưa Đại An vươn lên hoàn thành nông thôn mới vào năm 2019, nông thôn mới nâng cao vào năm 2021 và năm 2024 này là mục tiêu về đích nông thôn mới kiểu mẫu.

Đó chỉ là một vài nét chấm phá trong bức tranh triển khai tín dụng chính sách xã hội 10 năm qua. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị - xã hội cho đến từng người dân đã mang lại những bước đột phá lớn cho hoạt động tín dụng chính sách xã hội hiện thực hóa phương châm “Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm”.

Tính đến ngày 31/7/2024, tổng nguồn vốn chính sách đạt trên 373.000 tỉ đồng, tăng gấp 2,8 lần so với khi bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW. Nguồn vốn nhận ủy thác từ địa phương các cấp đạt 47.350 tỉ đồng, chiếm 12,7% tổng nguồn vốn, tăng 43.542 tỉ đồng so với trước khi có Chỉ thị số 40-CT/TW.


Những con số này thể hiện quyết tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, cấp ủy, chính quyền các địa phương và NHCSXH trong việc tập trung huy động nguồn lực tài chính nhằm thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội, đáp ứng kịp thời và ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Đây cũng là cơ sở để NHCSXH thực hiện tốt chức năng cung ứng vốn tín dụng chính sách xã hội đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, hoàn thành 100% chỉ tiêu, kế hoạch tăng trưởng tín dụng được Thủ tướng Chính phủ giao, tạo điều kiện giúp trên 21 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác được vay vốn với doanh số cho vay đạt trên 733.000 tỉ đồng.

Tính đến ngày 31/7/2024, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt gần 351.000 tỉ đồng, với hơn 6,8 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ. Tỉ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh giảm từ 0,93% tổng dư nợ (khi bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW) xuống còn 0,56% tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn chiếm 0,2% tổng dư nợ; NHCSXH thực hiện tốt mục tiêu bảo toàn, phát triển vốn cho Nhà nước.


Hiệu quả đầu tư tín dụng chính sách trong giai đoạn từ năm 2014 đến ngày 31/7/2024

Những thành quả này cho thấy, Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW đã thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển kinh tế gắn với thực hiện mục tiêu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả đạt được khi triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW cho thấy, mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng của NHCSXH là phù hợp với cấu trúc hệ thống chính trị và thực tiễn Việt Nam, huy động sức mạnh toàn thể xã hội chăm lo cho các đối tượng chính sách thông qua hoạt động tín dụng chính sách xã hội.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”, “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”. Để “không ai bị bỏ lại phía sau” việc triển khai, thực hiện chính sách giảm nghèo, tập trung giải quyết nhóm nghèo, vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc là cơ sở vững chắc nhất bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.

Từ thực tiễn triển khai và thách thức cho thấy, cần tiếp tục xác định rõ vai trò của tín dụng chính sách xã hội trong thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong bối cảnh những biến đổi phức tạp, khó lường của tình hình quốc tế, khu vực, trong nước đặt ra nhiều thách thức đến phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; đồng thời, tác động trực tiếp đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Tuy nhiên, để tiếp tục triển khai có hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, đặc biệt là Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06/KL-TW, cần có những giải pháp căn cơ, đồng bộ cùng sự vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa của cấp ủy, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội để nâng cao hơn nữa hiệu quả tín dụng chính sách xã hội; làm sâu sắc hơn các quan điểm, chủ trương, chính sách lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, trong suốt quá trình phát triển đất nước và từng địa phương.

Việt Hải - Thùy Trang

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc