Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Thị trường tài chính
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia đã chủ động phát triển các trung tâm tài chính như một mũi nhọn chiến lược thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập. Với độ mở kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam liệu đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển các trung tâm tài chính. Sự ra đời của Nghị quyết 42/NQ-CP của Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến trung tâm tài chính tại Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong hành trình đó. Nhằm làm rõ thêm tiềm năng, điều kiện, thách thức cũng như những đề xuất cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính.
aa
Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Ngày 5/3/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về trung tâm tài chính tại Việt Nam. Bà đánh giá như thế nào về quyết sách này?

Việc thành lập trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam là một bước tiến quan trọng, thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ trong việc phát triển thị trường tài chính theo hướng hiện đại, hội nhập trong kỷ nguyên mới. Không chỉ tạo cú hích về thể chế, trung tâm tài chính còn đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế, qua đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, mở rộng khả năng kết nối và tham gia sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu.

Theo bà, Việt Nam đã hội đủ điều kiện để hình thành một trung tâm tài chính quốc tế?

Có thể nói, Việt Nam đang hội tụ nhiều yếu tố nền tảng quan trọng. Đầu tiên là vị trí địa lý chiến lược. Việt Nam nằm tại trung tâm của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi có tốc độ phát triển năng động nhất thế giới. TP. Hồ Chí Minh có vị trí thuận lợi trên các tuyến giao thương hàng hải, hàng không quốc tế, với múi giờ khác biệt so với 21 trung tâm tài chính lớn trên toàn cầu, là lợi thế trong giao dịch xuyên thời gian. Trong khi đó, Đà Nẵng cũng có tiềm năng lớn với lợi thế kết nối vùng, hạ tầng cảng biển và quy hoạch phát triển đô thị hiện đại.

Thứ hai là mức độ hội nhập kinh tế cao. Việt Nam đã ký kết 17 FTA với trên 65 nền kinh tế hàng đầu thế giới; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,3 tỷ đồng (năm 2024), gấp khoảng 1,7 lần GDP, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại với trên 230 thị trường. Thị trường tài chính đang trên đà phát triển. Hệ thống ngân hàng ngày càng tiệm cận chuẩn Basel. Thị trường chứng khoán đạt mức vốn hóa tương đương hơn 70% GDP, các rào cản với nhà đầu tư nước ngoài đang được dỡ bỏ. TP. Hồ Chí Minh hiện là trung tâm tài chính lớn nhất cả nước, đóng góp 15,5% GDP, hơn 25% tổng thu ngân sách, và gần 11,3% kim ngạch xuất khẩu. Thành phố cũng đã được xếp hạng trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu (GFCI) và có xu hướng cải thiện thứ hạng qua các năm.

Thứ ba, kết cấu hạ tầng đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, về khung thể chế, pháp luật, môi trường đầu tư kinh doanh đã cải thiện đáng kể, góp phần phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân.

Thứ năm, kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Tổng quy mô GDP năm 2024 khoảng 470 tỷ USD (xếp hạng 33-34 thế giới về quy mô), GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.600 - 4.700 USD; lạm phát được điểm soát tốt; lãi suất ổn định; nợ công, nợ chính phủ giảm nhanh, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội…

Nhưng để xây dựng được trung tâm tài chính thì chắc chắn sẽ còn không ít thách thức đối với Việt Nam, thưa bà?

Đúng vậy, thách thức là không nhỏ đối với Việt Nam, cả về thể chế, hạ tầng lẫn năng lực thực thi. Trước hết, thách thức trong hoàn thiện khung pháp lý và thể chế để tạo môi trường thuận lợi cho các trung tâm tài chính phát triển trong bối cảnh hệ thống phát luật về tài chính, đầu tư và thị trường vốn vẫn còn nhiều điểm cần cải thiện để tiệm cận tốt hơn với các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp luật hiện tại chưa hoàn toàn bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực tài chính quốc tế, đặc biệt là trong các vấn đề về bảo vệ nhà đầu tư, và giao dịch tài chính xuyên biên giới. Bên cạnh đó, cạnh tranh khu vực rất mạnh. Singapore, Hong Kong, Thượng Hải… đều đã xây dựng trung tâm tài chính với nền tảng pháp lý rõ ràng, hạ tầng hiện đại, và hệ sinh thái tài chính tiên tiến và chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn, đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng những cơ chế đặc thù để tạo lợi thế riêng để thu hút doanh nghiệp và dòng vốn đầu tư.

Một trong những thách thức lớn nhất đối với TP. Hồ Chí Minh là tình trạng giao thông quá tải, ô nhiễm môi trường và thiếu các khu trung tâm tài chính đạt chuẩn quốc tế. Đây chính là những rào cản cần được khắc phục. Bên cạnh đó, mặc dù sân bay quốc tế Long Thành đang được xây dựng, việc hoàn thiện các dự án hạ tầng lớn cần thời gian và nguồn lực đáng kể.

Ngoài ra, một trong những điều kiện để trở thành trung tâm tài chính quốc tế là phải tự do hóa tài chính. Hệ thống ngân hàng vẫn phụ thuộc nhiều vào sản phẩm tín dụng truyền thống, chưa có nhiều sản phẩm tài chính hiện đại như các nước phát triển. Trên thị trường chứng khoán, mặc dù Luật Chứng khoán đã được sửa đổi và hệ thống từng bước phát triển nhưng Việt Nam vẫn chưa được nâng hạng lên nhóm các nước có thị trường chứng khoán mới nổi. Cuối cùng, hạn chế về công nghệ và an ninh mạng cũng là một thách thức lớn trong bối cảnh nguy cơ tội phạm mạng và các lỗ hổng bảo mật trong giao dịch tài chính cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nâng cao năng lực bảo mật và quản lý rủi ro trong lĩnh vực này.

Vậy giải pháp nào để vượt qua những thách thức đó và bà kỳ vọng gì về tương lai của các trung tâm tài chính tại Việt Nam?

Trung tâm tài chính tại Việt Nam nên kết hợp giữa các yếu tố hiện đại, bền vững và linh hoạt, tận dụng tối đa tiềm năng hiện có của các thành phố và đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong khu vực.

Một là lựa chọn mô hình phát triển phù hợp. Nếu phát triển trung tâm tài chính quốc tế theo mô hình gắn với các hoạt động giao thương, công nghiệp, công nghệ kỹ thuật, thị trường vốn và dịch vụ phụ trợ (bán cổ điển) thì lựa chọn số một là TP. Hồ Chí Minh. Trong khi đó, Đà Nẵng có thể triển khai mô hình hệ sinh thái đa thành phần bao gồm các trung tâm phát triển tập trung cho 3 nhóm dịch vụ gồm thanh toán, thương mại quốc tế, dịch vụ quản lý rủi ro và giao dịch ngoại hối, dịch vụ tài chính xanh.

Hai là, thiết lập khung pháp lý linh hoạt, hiện đại, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế để thu hút các tổ chức tài chính quốc tế. Việc thiết lập khung pháp lý vững chắc để đảm bảo tính toàn vẹn và ổn định của thị trường tài chính đặc biệt là các quy định bảo vệ nhà đầu tư, ứng xử trên thị trường, yêu cầu về vốn, quản lý rủi ro và tiêu chuẩn công bố thông tin... Nghiên cứu cho phép thử nghiệm các mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực tài chính như Fintech, Insurtech, và các nền tảng giao dịch kỹ thuật số. Quy trình cấp phép nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư cần được triển khai...

Ba là, về hạ tầng tài chính và công nghệ, một trung tâm tài chính quốc tế cần có hệ thống thanh toán hiện đại, kết nối với thị trường tài chính toàn cầu, cũng như cơ sở hạ tầng công nghệ cao để hỗ trợ các hoạt động giao dịch tài chính, fintech và thương mại điện tử. Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin cũng đóng vai trò cốt lõi. TP. Hồ Chí Minh cần xây dựng hệ thống dữ liệu tài chính mạnh mẽ, tích hợp các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain và dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ hoạt động tài chính. Một khu vực tài chính kỹ thuật số có thể được thành lập để tập trung các công ty Fintech, tạo điều kiện cho họ thử nghiệm các sản phẩm và dịch vụ mới. Đây cũng sẽ là nơi khuyến khích sự hợp tác giữa các startup công nghệ và tổ chức tài chính truyền thống.

Bốn là phải có chính sách ưu đãi thuế. Nghị quyết số 259/NQ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Thông báo số 47-TB/TW ngày 15/11/2024 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về kết luận của Bộ Chính trị về việc xây dựng trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam đã giao một số nhiệm vụ để Bộ Tài chính chủ trì liên quan đến lĩnh vực thuế: “Nghiên cứu cơ chế ưu đãi vượt trội đối với hoạt động tài chính xanh trong phạm vi trung tâm tài chính; có chính sách ưu đãi cho các ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc chuyển trụ sở, văn phòng đại diện đến trung tâm tài chính tại Việt Nam (như ưu đãi về thuế, phí…)”.

Năm là tiếp tục đơn giản hóa quy trình cấp phép, đăng ký kinh doanh, cũng như nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Việc giảm thiểu các rào cản hành chính sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư quốc tế và thúc đẩy sự phát triển của các trung tâm tài chính.

Sáu là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt trong mô hình trung tâm tài chính. Việc hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức đào tạo quốc tế để nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng lao động trong lĩnh vực tài chính là cần thiết. Các chương trình đào tạo chuyên sâu về tài chính, quản lý rủi ro, phân tích dữ liệu và công nghệ tài chính cũng cần được đẩy mạnh. Đồng thời, cần triển khai các chính sách thu hút nhân tài quốc tế, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, và công nghệ; cùng các chính sách thị thực đặc biệt cho các chuyên gia tài chính, Fintech, và công nghệ từ nước ngoài... để đưa trung tâm tài chính trở thành điểm đến lý tưởng cho nhân tài toàn cầu.

Tôi tin rằng nếu có chiến lược đúng đắn, cách làm bài bản và sự đồng hành giữa trung ương - địa phương - doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng được một hoặc vài trung tâm tài chính tầm khu vực trong quá trình trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Như tôi nói ở trên, việc xây dựng và phát triển trung tâm tài chính khu vực và quốc tế sẽ giúp Việt Nam kết nối thị trường tài chính toàn cầu, thu hút các tổ chức tài chính nước ngoài, tạo thêm nguồn lực mới, đồng thời tăng cường các nguồn lực hiện có.

Ngoài ra, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội dịch chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam phát triển hiệu quả, theo chuẩn mực quốc tế. Trung tâm tài chính sẽ là một trong những mũi nhọn chiến lược, đột phá về thể chế mang tầm quốc gia, giúp Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, qua đó tăng sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu, tạo động lực mới nhằm phát triển nền kinh tế trong kỷ nguyên mới.

Xin trân trọng cảm ơn bà!

Sắp diễn ra Tọa đàm “Kinh nghiệm QUỐC TẾ
và vai trò của hệ thống ngân hàng trong xây dựng trung tâm tài chính”

Nhằm trao đổi kinh nghiệm trong việc xây dựng trung tâm tài chính và làm rõ vai trò của hệ thống ngân hàng trong quá trình này tại Việt Nam, được sự đồng ý của Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sáng ngày 16/4, Thời báo Ngân hàng sẽ tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Kinh nghiệm quốc tế và vai trò của hệ thống ngân hàng trong xây dựng trung tâm tài chính”. Tham dự Tọa đàm có chuyên gia quốc tế hàng đầu về chính sách kinh tế, phát triển khu vực tài chính và chiến lược đầu tư; Đại diện Lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan... Cùng đại diện Lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN; một số NHNN chi nhánh khu vực; Hiệp hội Ngân hàng; các tổ chức tín dụng; các tổ chức quốc tế, ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam…

Nguyễn Vũ

Tin bài khác

Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Tài chính xanh trong phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam

Mục tiêu chính của bài viết là phân tích vai trò của tài chính xanh trong thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Bài viết tập trung đánh giá các cơ chế tài chính hiện có, làm rõ mối quan hệ giữa tài chính xanh và năng lượng tái tạo, từ đó đề xuất chính sách cần thiết để tối ưu hóa tác động của tài chính xanh trong lĩnh vực này.
Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Kết nối tài chính xanh với thị trường carbon: Hướng đi “xanh” cho nền kinh tế

Mô hình kết nối tài chính xanh với thị trường carbon là huy động nguồn vốn xanh cho các dự án, chương trình, hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. Ngoài ra, mô hình này còn thúc đẩy sự phát triển của các công cụ tài chính xanh trên cơ sở thị trường carbon.
Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Đồng bộ thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng hướng tới phát triển bền vững nền kinh tế

Thế giới hiện nay đang trải qua một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc, với những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối các thành tựu của thời kỳ độc lập và đổi mới. Trong bối cảnh này, phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Điều này không chỉ hỗ trợ tăng trưởng bền vững mà còn góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.
Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Thủ tướng: Phải đặt niềm tin, hy vọng, tạo động lực, truyền cảm hứng, tạo bước ngoặt về phát triển kinh tế tư nhân

Chiều ngày 02/4/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân đã chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo, tiếp tục cho ý kiến, hoàn thiện thêm một bước dự thảo Đề án để chuẩn bị trình Bộ Chính trị.
Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Xác định kinh tế tư nhân là trụ cột quan trọng cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ trở nên gần hơn, khả thi hơn khi có sự chung tay của người dân và khu vực kinh tế tư nhân.
Tiềm năng phát triển đối với chứng khoán hóa tài sản trí tuệ

Tiềm năng phát triển đối với chứng khoán hóa tài sản trí tuệ

Để khai thác tối đa tiềm năng của chứng khoán hóa tài sản trí tuệ, đa phần các quốc gia đều xây dựng một khung pháp lý chuyên biệt, hoàn thiện cơ chế định giá tài sản trí tuệ minh bạch và hiệu quả, cũng như sự tham gia tích cực của các chủ thể liên quan. Bài viết này sẽ tìm hiểu về cơ chế hoạt động, các thương vụ trên thế giới và lợi ích của chứng khoán hóa tài sản trí tuệ; qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm chuẩn bị cho trường hợp hoạt động chứng khoán hóa tài sản trí tuệ đi vào hoạt động tại thị trường Việt Nam thời gian tới.
“Dọn đường” cho nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam

“Dọn đường” cho nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã và đang nỗ lực tháo gỡ từng điểm nghẽn chính sách, công nghệ để nới rộng cơ hội tiếp cận thị trường chứng khoán Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài.
Nghiên cứu ảnh hưởng của tính cách nhà đầu tư cá nhân đến hiệu quả đầu tư cổ phiếu và một số khuyến nghị

Nghiên cứu ảnh hưởng của tính cách nhà đầu tư cá nhân đến hiệu quả đầu tư cổ phiếu và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này nhằm mục tiêu khám phá và giải thích chính xác mối quan hệ giữa tính cách nhà đầu tư và hiệu quả đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2020 - 2022. Đặc biệt, nghiên cứu còn hướng đến trả lời câu hỏi: Liệu trong bối cảnh thị trường giảm điểm mạnh và liên tục thì tất cả các nhà đầu tư có phải đều chịu thua lỗ, hay vẫn tồn tại cơ hội sinh lợi dựa trên tính cách và nhận thức khác biệt của mỗi nhà đầu tư, ngay cả trong điều kiện thị trường đầy thách thức này?
Xem thêm
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Khung pháp lý cho phát triển ngân hàng bền vững - Cơ hội và thách thức

Nghiên cứu này đã hệ thống hóa khung pháp lý toàn cầu và thực tiễn Việt Nam về phát triển ngân hàng bền vững, qua đó làm nổi bật xu hướng hội tụ giữa tiêu chuẩn quốc tế và nỗ lực địa phương hóa. Nghiên cứu cũng khẳng định xu hướng tất yếu là hài hòa hóa tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết về minh bạch hóa thông tin và hợp tác đa bên để cân bằng giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc