Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Thị trường tài chính
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia đã chủ động phát triển các trung tâm tài chính như một mũi nhọn chiến lược thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập. Với độ mở kinh tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam liệu đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển các trung tâm tài chính. Sự ra đời của Nghị quyết 42/NQ-CP của Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến trung tâm tài chính tại Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong hành trình đó. Nhằm làm rõ thêm tiềm năng, điều kiện, thách thức cũng như những đề xuất cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Lê Thị Thùy Vân - Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính.
aa
Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng tầm vị thế Việt Nam

Ngày 5/3/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP về đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về trung tâm tài chính tại Việt Nam. Bà đánh giá như thế nào về quyết sách này?

Việc thành lập trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam là một bước tiến quan trọng, thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ trong việc phát triển thị trường tài chính theo hướng hiện đại, hội nhập trong kỷ nguyên mới. Không chỉ tạo cú hích về thể chế, trung tâm tài chính còn đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế, qua đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, mở rộng khả năng kết nối và tham gia sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu.

Theo bà, Việt Nam đã hội đủ điều kiện để hình thành một trung tâm tài chính quốc tế?

Có thể nói, Việt Nam đang hội tụ nhiều yếu tố nền tảng quan trọng. Đầu tiên là vị trí địa lý chiến lược. Việt Nam nằm tại trung tâm của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi có tốc độ phát triển năng động nhất thế giới. TP. Hồ Chí Minh có vị trí thuận lợi trên các tuyến giao thương hàng hải, hàng không quốc tế, với múi giờ khác biệt so với 21 trung tâm tài chính lớn trên toàn cầu, là lợi thế trong giao dịch xuyên thời gian. Trong khi đó, Đà Nẵng cũng có tiềm năng lớn với lợi thế kết nối vùng, hạ tầng cảng biển và quy hoạch phát triển đô thị hiện đại.

Thứ hai là mức độ hội nhập kinh tế cao. Việt Nam đã ký kết 17 FTA với trên 65 nền kinh tế hàng đầu thế giới; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,3 tỷ đồng (năm 2024), gấp khoảng 1,7 lần GDP, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại với trên 230 thị trường. Thị trường tài chính đang trên đà phát triển. Hệ thống ngân hàng ngày càng tiệm cận chuẩn Basel. Thị trường chứng khoán đạt mức vốn hóa tương đương hơn 70% GDP, các rào cản với nhà đầu tư nước ngoài đang được dỡ bỏ. TP. Hồ Chí Minh hiện là trung tâm tài chính lớn nhất cả nước, đóng góp 15,5% GDP, hơn 25% tổng thu ngân sách, và gần 11,3% kim ngạch xuất khẩu. Thành phố cũng đã được xếp hạng trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu (GFCI) và có xu hướng cải thiện thứ hạng qua các năm.

Thứ ba, kết cấu hạ tầng đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, về khung thể chế, pháp luật, môi trường đầu tư kinh doanh đã cải thiện đáng kể, góp phần phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân.

Thứ năm, kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Tổng quy mô GDP năm 2024 khoảng 470 tỷ USD (xếp hạng 33-34 thế giới về quy mô), GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.600 - 4.700 USD; lạm phát được điểm soát tốt; lãi suất ổn định; nợ công, nợ chính phủ giảm nhanh, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội…

Nhưng để xây dựng được trung tâm tài chính thì chắc chắn sẽ còn không ít thách thức đối với Việt Nam, thưa bà?

Đúng vậy, thách thức là không nhỏ đối với Việt Nam, cả về thể chế, hạ tầng lẫn năng lực thực thi. Trước hết, thách thức trong hoàn thiện khung pháp lý và thể chế để tạo môi trường thuận lợi cho các trung tâm tài chính phát triển trong bối cảnh hệ thống phát luật về tài chính, đầu tư và thị trường vốn vẫn còn nhiều điểm cần cải thiện để tiệm cận tốt hơn với các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp luật hiện tại chưa hoàn toàn bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực tài chính quốc tế, đặc biệt là trong các vấn đề về bảo vệ nhà đầu tư, và giao dịch tài chính xuyên biên giới. Bên cạnh đó, cạnh tranh khu vực rất mạnh. Singapore, Hong Kong, Thượng Hải… đều đã xây dựng trung tâm tài chính với nền tảng pháp lý rõ ràng, hạ tầng hiện đại, và hệ sinh thái tài chính tiên tiến và chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn, đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng những cơ chế đặc thù để tạo lợi thế riêng để thu hút doanh nghiệp và dòng vốn đầu tư.

Một trong những thách thức lớn nhất đối với TP. Hồ Chí Minh là tình trạng giao thông quá tải, ô nhiễm môi trường và thiếu các khu trung tâm tài chính đạt chuẩn quốc tế. Đây chính là những rào cản cần được khắc phục. Bên cạnh đó, mặc dù sân bay quốc tế Long Thành đang được xây dựng, việc hoàn thiện các dự án hạ tầng lớn cần thời gian và nguồn lực đáng kể.

Ngoài ra, một trong những điều kiện để trở thành trung tâm tài chính quốc tế là phải tự do hóa tài chính. Hệ thống ngân hàng vẫn phụ thuộc nhiều vào sản phẩm tín dụng truyền thống, chưa có nhiều sản phẩm tài chính hiện đại như các nước phát triển. Trên thị trường chứng khoán, mặc dù Luật Chứng khoán đã được sửa đổi và hệ thống từng bước phát triển nhưng Việt Nam vẫn chưa được nâng hạng lên nhóm các nước có thị trường chứng khoán mới nổi. Cuối cùng, hạn chế về công nghệ và an ninh mạng cũng là một thách thức lớn trong bối cảnh nguy cơ tội phạm mạng và các lỗ hổng bảo mật trong giao dịch tài chính cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nâng cao năng lực bảo mật và quản lý rủi ro trong lĩnh vực này.

Vậy giải pháp nào để vượt qua những thách thức đó và bà kỳ vọng gì về tương lai của các trung tâm tài chính tại Việt Nam?

Trung tâm tài chính tại Việt Nam nên kết hợp giữa các yếu tố hiện đại, bền vững và linh hoạt, tận dụng tối đa tiềm năng hiện có của các thành phố và đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong khu vực.

Một là lựa chọn mô hình phát triển phù hợp. Nếu phát triển trung tâm tài chính quốc tế theo mô hình gắn với các hoạt động giao thương, công nghiệp, công nghệ kỹ thuật, thị trường vốn và dịch vụ phụ trợ (bán cổ điển) thì lựa chọn số một là TP. Hồ Chí Minh. Trong khi đó, Đà Nẵng có thể triển khai mô hình hệ sinh thái đa thành phần bao gồm các trung tâm phát triển tập trung cho 3 nhóm dịch vụ gồm thanh toán, thương mại quốc tế, dịch vụ quản lý rủi ro và giao dịch ngoại hối, dịch vụ tài chính xanh.

Hai là, thiết lập khung pháp lý linh hoạt, hiện đại, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế để thu hút các tổ chức tài chính quốc tế. Việc thiết lập khung pháp lý vững chắc để đảm bảo tính toàn vẹn và ổn định của thị trường tài chính đặc biệt là các quy định bảo vệ nhà đầu tư, ứng xử trên thị trường, yêu cầu về vốn, quản lý rủi ro và tiêu chuẩn công bố thông tin... Nghiên cứu cho phép thử nghiệm các mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực tài chính như Fintech, Insurtech, và các nền tảng giao dịch kỹ thuật số. Quy trình cấp phép nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư cần được triển khai...

Ba là, về hạ tầng tài chính và công nghệ, một trung tâm tài chính quốc tế cần có hệ thống thanh toán hiện đại, kết nối với thị trường tài chính toàn cầu, cũng như cơ sở hạ tầng công nghệ cao để hỗ trợ các hoạt động giao dịch tài chính, fintech và thương mại điện tử. Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin cũng đóng vai trò cốt lõi. TP. Hồ Chí Minh cần xây dựng hệ thống dữ liệu tài chính mạnh mẽ, tích hợp các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain và dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ hoạt động tài chính. Một khu vực tài chính kỹ thuật số có thể được thành lập để tập trung các công ty Fintech, tạo điều kiện cho họ thử nghiệm các sản phẩm và dịch vụ mới. Đây cũng sẽ là nơi khuyến khích sự hợp tác giữa các startup công nghệ và tổ chức tài chính truyền thống.

Bốn là phải có chính sách ưu đãi thuế. Nghị quyết số 259/NQ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Thông báo số 47-TB/TW ngày 15/11/2024 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về kết luận của Bộ Chính trị về việc xây dựng trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam đã giao một số nhiệm vụ để Bộ Tài chính chủ trì liên quan đến lĩnh vực thuế: “Nghiên cứu cơ chế ưu đãi vượt trội đối với hoạt động tài chính xanh trong phạm vi trung tâm tài chính; có chính sách ưu đãi cho các ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc chuyển trụ sở, văn phòng đại diện đến trung tâm tài chính tại Việt Nam (như ưu đãi về thuế, phí…)”.

Năm là tiếp tục đơn giản hóa quy trình cấp phép, đăng ký kinh doanh, cũng như nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Việc giảm thiểu các rào cản hành chính sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư quốc tế và thúc đẩy sự phát triển của các trung tâm tài chính.

Sáu là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt trong mô hình trung tâm tài chính. Việc hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức đào tạo quốc tế để nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng lao động trong lĩnh vực tài chính là cần thiết. Các chương trình đào tạo chuyên sâu về tài chính, quản lý rủi ro, phân tích dữ liệu và công nghệ tài chính cũng cần được đẩy mạnh. Đồng thời, cần triển khai các chính sách thu hút nhân tài quốc tế, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, và công nghệ; cùng các chính sách thị thực đặc biệt cho các chuyên gia tài chính, Fintech, và công nghệ từ nước ngoài... để đưa trung tâm tài chính trở thành điểm đến lý tưởng cho nhân tài toàn cầu.

Tôi tin rằng nếu có chiến lược đúng đắn, cách làm bài bản và sự đồng hành giữa trung ương - địa phương - doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng được một hoặc vài trung tâm tài chính tầm khu vực trong quá trình trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Như tôi nói ở trên, việc xây dựng và phát triển trung tâm tài chính khu vực và quốc tế sẽ giúp Việt Nam kết nối thị trường tài chính toàn cầu, thu hút các tổ chức tài chính nước ngoài, tạo thêm nguồn lực mới, đồng thời tăng cường các nguồn lực hiện có.

Ngoài ra, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội dịch chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam phát triển hiệu quả, theo chuẩn mực quốc tế. Trung tâm tài chính sẽ là một trong những mũi nhọn chiến lược, đột phá về thể chế mang tầm quốc gia, giúp Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng, huy động, phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, qua đó tăng sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu, tạo động lực mới nhằm phát triển nền kinh tế trong kỷ nguyên mới.

Xin trân trọng cảm ơn bà!

Sắp diễn ra Tọa đàm “Kinh nghiệm QUỐC TẾ
và vai trò của hệ thống ngân hàng trong xây dựng trung tâm tài chính”

Nhằm trao đổi kinh nghiệm trong việc xây dựng trung tâm tài chính và làm rõ vai trò của hệ thống ngân hàng trong quá trình này tại Việt Nam, được sự đồng ý của Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sáng ngày 16/4, Thời báo Ngân hàng sẽ tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Kinh nghiệm quốc tế và vai trò của hệ thống ngân hàng trong xây dựng trung tâm tài chính”. Tham dự Tọa đàm có chuyên gia quốc tế hàng đầu về chính sách kinh tế, phát triển khu vực tài chính và chiến lược đầu tư; Đại diện Lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan... Cùng đại diện Lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN; một số NHNN chi nhánh khu vực; Hiệp hội Ngân hàng; các tổ chức tín dụng; các tổ chức quốc tế, ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam…

Nguyễn Vũ

Tin bài khác

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách

Việt Nam quyết tâm xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế theo chủ trương và định hướng nêu tại Nghị quyết số 222/2025/QH15 của Quốc hội là một bước đi đúng đắn và mang tầm nhìn chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế là cần thiết để lựa chọn các trường hợp mang tính tham chiếu cao và phản ánh đa dạng cách tiếp cận phù hợp với thực tiễn của đất nước...
Tác động của tài chính toàn diện đến thích ứng với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Tác động của tài chính toàn diện đến thích ứng với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Bài viết này nhằm tổng hợp cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm quốc tế và đề xuất hàm ý chính sách đối với Việt Nam.
Xây dựng hệ sinh thái tài chính an toàn:  Cân bằng lợi ích và rủi ro giữa ngân hàng và chứng khoán

Xây dựng hệ sinh thái tài chính an toàn: Cân bằng lợi ích và rủi ro giữa ngân hàng và chứng khoán

Thị trường tài chính Việt Nam phát triển nhanh đòi hỏi các ngân hàng phải đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái tài chính tích hợp nhiều dịch vụ. Tuy nhiên, thách thức lớn đặt ra là bảo đảm quản trị minh bạch và kiểm soát rủi ro để phát triển bền vững.
Tín dụng tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất và hàm ý chính sách

Tín dụng tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất và hàm ý chính sách

Trong bối cảnh lãi suất cho vay tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất thị trường, các biện pháp tăng hoặc giảm lãi suất điều hành khó có thể kìm hãm “vòng xoáy” tín dụng tiêu dùng. Người vay tiêu dùng thường không quan tâm đến lãi suất danh nghĩa, mà chủ yếu nhìn vào khoản trả hằng tháng; đồng thời thị trường cho vay ngày càng phân mảnh với sự tham gia của ngân hàng, công ty tài chính, ví điện tử và các nền tảng "mua trước - trả sau". Điều này khiến kênh tín dụng tiêu dùng vừa trở nên khó can thiệp bằng công cụ lãi suất, vừa tiềm ẩn nguy cơ “đếm trùng” nghĩa vụ nợ và tích tụ rủi ro hệ thống.
FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam và con đường hội nhập tài chính toàn cầu

FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam và con đường hội nhập tài chính toàn cầu

Lợi ích kinh tế từ việc thị trường chứng khoán Việt Nam được FTSE Russell nâng hạng không chỉ thể hiện ở quy mô dòng vốn gia tăng mà còn ở sự chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam.
Pháp luật về giám sát thị trường tài chính tại một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật về giám sát thị trường tài chính tại một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật về giám sát thị trường tài chính trên thế giới đều hướng tới mục tiêu tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc hoàn thiện mô hình giám sát và nâng cao năng lực quản lý rủi ro.
Hiện tượng tẩy xanh trong lĩnh vực tài chính - Góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà nước

Hiện tượng tẩy xanh trong lĩnh vực tài chính - Góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà nước

Tẩy xanh được hiểu là hành vi doanh nghiệp hoặc tổ chức tạo dựng hình ảnh thân thiện với môi trường một cách giả tạo thông qua việc công bố hoặc quảng bá những thông tin sai lệch, mơ hồ và phóng đại về hoạt động phát triển bền vững của mình. Hành vi tẩy xanh không chỉ gây sai lệch thông tin thị trường, làm méo mó dòng vốn đầu tư, mà còn suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư, cản trở quá trình chuyển đổi sang tài chính bền vững.
Đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để phát triển bền vững

Đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để phát triển bền vững

Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính, việc tiết kiệm trong nước gắn liền với khả năng chống chịu trước rủi ro chu kỳ vốn quốc tế. Khi dòng vốn nước ngoài suy giảm do biến động địa chính trị hoặc thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế lớn, quốc gia có tỉ lệ tiết kiệm nội địa cao sẽ có khả năng duy trì đầu tư ổn định.
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô