Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Quốc tế
Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
aa

Sự ổn định này song hành cùng với xu hướng gia tăng mức độ bất cân xứng giữa hệ thống tiền tệ và kinh tế toàn cầu, khi các nền kinh tế phát triển theo hướng chuyên môn hóa sâu rộng về thương mại hay tài chính, trong khi USD được sử dụng rộng rãi và là đồng tiền chủ chốt trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, sự ổn định này được nhận định là không bền vững trước những diễn biến kinh tế và địa chính trị trong thời gian gần đây, đòi hỏi phải theo dõi định kỳ những tiến triển của hệ thống này.

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tiến trình đi lên của USD

Vị thế áp đảo của USD trong IMS được hình thành từng bước và một khi đã được thiết lập, vị thế này bền vững rõ rệt, nhờ kinh tế Mỹ tăng vững và độ sâu của các thị trường tài chính Mỹ.

Con đường đi lên để trở thành đồng tiền dự trữ chủ đạo toàn cầu hình thành từng bước và theo quy trình đa chiều, được định hình bởi các động lực kinh tế, tài chính, và địa chính trị trong suốt thế kỷ 20. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, bảng Anh (GBP) là đồng tiền dự trữ toàn cầu, mặc dù những đồng tiền khác như Franc Pháp cũng đóng vai trò quan trọng tại một số khu vực nhất định. Tuy nhiên, vị thế áp đảo của GBP phai nhạt dần sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, khi Vương quốc Anh đối mặt với các áp lực tài khóa chồng chất, năng lực cạnh tranh yếu dần, gánh nặng nợ nần liên quan đến chiến tranh tăng đáng kể. Trong thời gian này, vai trò của Mỹ tăng dần và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, giúp USD vượt qua GBP và dẫn dắt các hình thái tín dụng thương mại, đặt nền móng cho USD trở thành đồng tiền dự trữ toàn cầu. Ngoài ra, sự kiện hình thành Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vào năm 1913 và xu hướng phát triển sâu rộng của các thị trường tài chính thanh khoản cao đã giúp USD ngày càng hấp dẫn hơn trong các giao dịch và dự trữ quốc tế. Mặc dù USD chiếm vị thế áp đảo, nhưng GBP vẫn đóng vai trò đáng kể, cụ thể là tại các quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung (Liên hiệp Anh).

Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, vị thế áp đảo của USD tiếp tục tăng cao. Ban đầu, sự hình thành hệ thống Bretton Woods và cơ chế tỉ giá cố định đã thể chế hóa USD với vai trò là đồng tiền tham chiếu trong cơ chế tỉ giá cố định này. Theo đó, những đồng tiền khác sẽ neo tỉ giá với USD. Trong những năm cuối thập niên 1960 và đầu những năm 1970, sự phát triển của thị trường Eurodollar (USD được giữ trong các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng bên ngoài nước Mỹ) với sự hỗ trợ của các kênh hoán đổi tiền tệ giữa Fed và Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) tiếp tục củng cố vị thế USD trên thị trường quốc tế. Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ (năm 1973), USD vẫn đóng vai trò tiên phong và áp đảo, là thước đo để tính toán giá trị của hầu hết các đồng tiền trên thế giới. Trong những năm cuối thập niên 1980, sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và các nước thuộc khối SEV (Hội đồng Tương trợ kinh tế) tiếp tục củng cố vị thế của USD. Bất chấp những biến động về mặt địa chính trị, USD vẫn chiếm vị thế áp đảo và cung cấp “hàng hóa công cộng” toàn cầu trong IMS (USD là đồng tiền có đặc điểm không cạnh tranh và không thể loại trừ, một người sử dụng không giảm khả năng sử dụng của người khác và không ngăn cản được người khác sử dụng), góp phần tiến tới một kỷ nguyên mới về liên kết địa kinh tế thông qua thương mại và tài chính.

Hiện trạng: USD là trung tâm IMS

Hiện nay, USD vẫn được sử dụng rộng rãi giữa các khu vực và vai trò của nó tiếp tục ổn định theo thời gian. Kể từ năm 2023, USD vẫn chiếm ưu thế trong các lĩnh vực khác nhau: Thương mại, dự trữ và doanh thu ngoại hối, tín dụng và nợ quốc tế, thanh toán toàn cầu. Tỉ trọng USD trong những lĩnh vực này vượt quá quy mô GDP, thương mại, tài chính của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu. EUR cũng là đồng tiền áp đảo khu vực với tỉ trọng vượt quá quy mô kinh tế khu vực đồng Euro trong GDP toàn cầu, vượt qua JPY và GBP. Tỉ trọng CNY trên các thị trường quốc tế vẫn thấp hơn quy mô GDP, thương mại, tài chính của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu.

Trên thị trường quốc tế, USD vẫn chiếm vị thế áp đảo, tiếp đến là EUR, JPY, GBP, CNY. Trong những năm đầu thế kỷ 21, tỉ trọng USD tương đối ổn định, mặc dù giảm nhẹ sau năm 2015, phản ánh xu hướng giảm dần tỉ trọng USD trong dự trữ ngoại hối toàn cầu. Tỉ trọng EUR tăng trong thời gian trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng sau đó đã giảm trở lại.

Vị thế ổn định của USD được hỗ trợ bởi các mối quan hệ bổ sung mang tính chiến lược giữa các chức năng khác nhau của đồng tiền này: USD được sử dụng rộng rãi để lập hóa đơn và thanh toán thương mại qua biên giới, phản ánh ưu thế của nền kinh tế Mỹ, giá USD ổn định, đóng vai trò bổ sung trong việc sắp đặt giá cả một cách vững chắc. Đến lượt nó, việc sử dụng USD rộng rãi trong thương mại có thể khuyến khích người dân và doanh nghiệp nắm giữ tài sản dưới dạng USD để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong tương lai hay tích trữ giá trị để phát hành nợ dưới dạng USD, lãi suất tiền gửi USD tương đối thấp tạo thuận lợi cho khách hàng lựa chọn vay USD thay vì những đồng tiền khác. USD được sử dụng rộng rãi trong thương mại và tài chính đã thúc đẩy các ngân hàng trung ương (NHTW) tăng cường theo dõi tỉ giá, can thiệp trên thị trường tiền tệ, và củng cố dự trữ USD. Trái lại, tỉ giá USD ổn định và nguồn dự trữ lớn có thể giúp đồng tiền này trở nên hấp dẫn hơn đối với các ngân hàng và phi ngân hàng về hoạt động thanh toán hay vay USD. Tác động qua lại giữa thương mại và tài chính được tăng cường và hỗ trợ bởi độ sâu và tính thanh khoản của các thị trường tài chính Mỹ cũng như trái phiếu kho bạc Mỹ. Tất cả những yếu tố này tạo ra quán tính vững chắc có lợi cho USD và rất khó thay thế.

Chuyển hóa trong thế kỷ 21: Tự do hóa thương mại, tài chính và toàn cầu hóa

Vị thế áp đảo bền vững của USD trong những thập niên vừa qua đã giảm bớt tính tương phản với xu hướng thay đổi về thương mại và tài chính toàn cầu, gia tăng tình trạng đối nghịch nhất định.

Sự ổn định của IMS với USD là trung tâm đã củng cố tiến trình hội nhập quốc tế về thương mại và tài chính trong thế kỷ 21. Việc sử dụng rộng rãi USD đã góp phần giảm chi phí giao dịch và rủi ro tỉ giá, qua đó thúc đẩy thương mại qua biên giới và hội nhập tài chính, trong khi các nền kinh tế ngày càng thay đổi theo hướng chuyên môn hóa về thương mại hay tài chính. Đến lượt nó, xu hướng toàn cầu hóa tài chính và thương mại đã củng cố thêm vai trò và duy trì vị thế áp đảo của USD thông qua ngoại ứng mạng. Tuy nhiên, kết quả thay đổi các dòng thương mại và tài chính qua biên giới đã gieo mầm cho quá trình tự tiến hóa tiềm tàng trong IMS mà USD là trung tâm.

Trong giai đoạn 2001 - 2008, hội nhập thương mại đã tập hợp động lượng với hoạt động thương mại và dịch vụ qua biên giới tăng khoảng 15% GDP cho đến khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2008, nhưng sau đó bắt đầu đi ngang. Trong giai đoạn này, cùng với Mỹ và khu vực đồng Euro, Trung Quốc đã trở thành thành viên chủ chốt trong thương mại toàn cầu. Một số nước mới nổi khác tại châu Á cũng xuất hiện, nổi bật là Ấn Độ.

Trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nhà đầu tư cũng mở rộng hoạt động qua biên giới, đưa lượng tài sản tài chính nắm giữ lên gần hai lần GDP toàn cầu, trước khi “xẹp” trở lại sau khủng hoảng. Trong số này, các nước phát triển, nhất là Mỹ, khu vực đồng Euro và Vương quốc Anh, tiếp tục dẫn đầu danh mục đầu tư qua biên giới và tài sản ngân hàng. Về tiền gửi và trái quyền của các ngân hàng, Vương quốc Anh chiếm tỉ trọng lớn nhất với 1/5 tổng lượng tài sản đang nắm giữ, tiếp đến là Mỹ và khu vực đồng Euro. Ba nền kinh tế này cũng nắm giữ trên 50% tổng vốn FDI toàn cầu. Trong cùng thời gian, Trung Quốc cũng từng bước trở thành nguồn cung cấp vốn FDI quan trọng, chủ yếu thông qua Hồng Kông làm trung gian.

Hai diễn biến tài chính đáng chú ý khác là, vai trò trung gian của các trung tâm tài chính hải ngoại (OFCs) và các định chế tài chính phi ngân hàng trong việc truyền tải các dòng vốn qua biên giới. Lượng tài sản tài chính qua biên giới do OFCs nắm giữ đã tăng 2 lần trong vòng 30 năm, gây phức tạp cho việc xác định cấu trúc phối hợp của các công ty đa quốc gia cũng như việc thu thập các dữ liệu tài chính song phương.

Mặc dù các mạng lưới thương mại và tài chính vẫn được tổ chức xung quanh một vài trung tâm chính, một số trung tâm mới xuất hiện và mức độ kết nối tổng thể toàn cầu vẫn ổn định trong 25 năm qua. Năm 2001, mạng lưới thương mại toàn cầu được tổ chức xung quanh ba trung tâm chính: Mỹ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Trung Quốc bắt đầu nổi lên thành trung tâm thương mại châu Á, dẫn tới sự hình thành một cơ cấu tập trung xung quanh một vài khu vực lớn. Trái lại, mạng lưới tài chính toàn cầu vẫn được tổ chức xung quanh AEs, nổi bật là Mỹ, khu vực đồng Euro, Vương quốc Anh, và Hồng Kông.

Báo cáo đã thiết lập chỉ số đối nghịch để xác định sự khác biệt về hình thái đối xứng giữa vai trò của các nền kinh tế chủ chốt với vị thế tiền tệ của những nhóm nền kinh tế này trong nền kinh tế toàn cầu. Trong giai đoạn 2001 - 2023, mức độ tập trung của các nền kinh tế chủ chốt đã tiến triển theo hướng chuyên môn hóa từng bước về tài chính hoặc thương mại, nhưng tỉ trọng tiền tệ vẫn tương đối ổn định. Mức độ tập trung thương mại của Mỹ và khu vực đồng Euro giảm, trong khi tỉ trọng USD và EUR vẫn ổn định. Mức độ tập trung thương mại và tài chính của Trung Quốc tăng đáng kể và đã vượt xa mức độ sử dụng CNY.

Diễn biến hiện nay tại IMS

Mặc dù IMS với USD là trung tâm vẫn thắng thế trước những biến đổi sâu sắc trong quá khứ, một số thay đổi về kinh tế, công nghệ và địa chính trị đang hình thành có thể gây tác động tiềm tàng đến hình thái IMS hiện nay.

Chia cắt địa chính trị tăng cao. Brexit, căng thẳng thương mại leo thang, và cuộc chiến tại Ukraina đang trầm trọng thêm tình hình địa chính trị thế giới. Mâu thuẫn địa chính trị đang thay đổi hoạt động thương mại toàn cầu theo hướng thu hẹp trong nội bộ từng nhóm quốc gia hơn là giữa các quốc gia. Tương tự, xu hướng gia tăng các rào cản thương mại cũng dẫn đến những thay đổi về việc phân bổ dòng vốn đầu tư giữa các quốc gia, nhất là dòng vốn FDI. Phân đoạn địa chính trị ngày càng chèn ép nỗ lực hội nhập kinh tế qua biên giới, vốn đã bị thu hẹp từ hơn 10 năm qua sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ngoài ra, một số tín hiệu cho thấy, các yếu tố địa chính trị đang tác động đến các lựa chọn về tiền tệ trong trao đổi thương mại, thanh toán qua biên giới và nhu cầu tích trữ vàng tại các NHTW.

Trung Quốc tăng cường sử dụng CNY trong thương mại và tài chính

Từ năm 2012 đến nay, việc sử dụng CNY trong giao dịch thương mại quốc tế đã tăng trên 2 lần, mặc dù vẫn chiếm tỉ trọng nhỏ trong giao dịch thương mại toàn cầu, tập trung giữa Trung Quốc và các quốc gia đối tác. Theo dữ liệu thống kê chính thức, CNY chiếm trên ¼ tổng giá trị trao đổi hàng hóa với các quốc gia đối tác trong năm 2023.

CNY cũng ngày càng được chấp nhận rộng rãi trong hoạt động tín dụng - ngân hàng quốc tế và các ngân hàng Trung Quốc ngày càng đóng vai trò nổi bật trong hoạt động tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, khác với USD, việc sử dụng CNY giữa các bên thứ ba bên ngoài Trung Quốc vẫn hạn chế, một phần là do các quy định của Trung Quốc vẫn hạn chế tài khoản vốn, thị trường trái phiếu trong nước còn hẹp và tính thanh khoản thấp.

USD là tài sản an toàn trên thế giới

Khả năng cung cấp tài sản an toàn của USD là yếu tố chủ chốt, hình thành IMS hiện nay. Tuy nhiên, đặc quyền và trách nhiệm quá cao của Mỹ có phần giảm nhẹ trong thời gian gần đây, phát tín hiệu về những thay đổi tiềm tàng về vai trò bảo hiểm của Mỹ. Thứ nhất, vị thế đầu tư quốc tế ròng (NIIP) giảm sâu trong thập niên vừa qua, nguyên nhân là do thiệt hại về định giá lũy kế, khi giá cổ phiếu của Mỹ tăng cao và các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tỉ trọng rất lớn. Thứ hai, chênh lệch doanh thu giữa tổng tài sản có và tài sản nợ nước ngoài giảm rõ rệt trong những năm gần đây. Trong đó, doanh thu ngoại bảng chuyển sang quỹ đạo giảm từ vài thập niên vừa qua, trước khi thị trường chứng khoán bùng nổ. Thứ ba, lợi thế của lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ (so với trái phiếu kho bạc cùng loại của những chính phủ khác) giảm rõ rệt trong những năm gần đây, có thể thấy rõ xu hướng này qua chênh lệch lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ với trái phiếu chính phủ AEs khác. Nguyên nhân là do lượng trái phiếu phát hành tăng cao và tác động của những yếu tố mang tính cơ cấu bắt nguồn từ những thay đổi về quản lý sau GFC. Kết quả là, nợ chính phủ Mỹ đã lập kỷ lục lịch sử và được dự báo tiếp tục tăng cao.

Trong năm 2025, vai trò trú ẩn an toàn của các tài sản Mỹ cũng có dấu hiệu vận động bất thường. Điển hình là, trong thời gian thị trường toàn cầu căng thẳng, nhu cầu về tài sản an toàn tăng cao, làm tăng giá USD và trái phiếu kho bạc Mỹ. Hiện tượng này cũng tăng cao khi cuộc chiến tại Ukraina đã gây bất ổn địa chính trị và đẩy giá vàng tăng cao, khi các nhà đầu tư đổ xô vào vàng để bảo toàn tài sản. Các NHTW cũng tiếp tục tăng cường thu gom vàng, đưa vàng lên vị thế thứ hai trong cơ cấu dự trữ ngoại hối, sau USD. Đầu tháng 4/2025, bất ổn về chính sách thương mại đã tăng thêm mức độ chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ với trái phiếu một số chính phủ AEs khác, và USD mất giá. Điều này cho thấy, nhu cầu về trái phiếu kho bạc Mỹ đang giảm dần. Nhu cầu yếu ớt có thể phản ánh những lo ngại về quỹ đạo tài khóa tại Mỹ, làm tăng lợi suất bù rủi ro do bất ổn chính sách tại Mỹ có thể tăng cao, và các nhà đầu tư tìm cách đa dạng hóa danh mục tài sản. Tuy nhiên, diễn biến này có vẻ chỉ mang tính ngắn hạn. USD chỉ mất giá nhẹ và vẫn cao hơn so với mức giá năm 2021, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ vẫn tương đối thấp so với tiêu chuẩn lịch sử.

Thanh toán qua biên giới và làn sóng số hóa

Thanh toán qua biên giới là một trụ cột quan trọng của IMS, nó cung cấp hạ tầng và cơ chế cần thiết, đảm bảo các dòng vốn cho hoạt động tài chính và thương mại quốc tế. Hệ thống này bao gồm các mối liên kết giữa các ngân hàng đại lý, hệ thống nhắn tin, chuyển tiền và mạng lưới thẻ tín dụng, thị trường ngoại hối và các sắp đặt giữa các NHTW. Trong số này, các hệ thống nhắn tin (trong đó có mạng Swift liên ngân hàng quốc tế) là công tắc kích hoạt thông tin liên quan đến thanh toán quốc tế. Hiện nay, phần lớn thanh toán qua biên giới được dàn xếp thông qua mạng lưới các ngân hàng đại lý, làm tăng chi phí giao dịch, nhất là đối với những quốc gia chưa kết nối với hệ thống tài chính quốc tế.

Tiến bộ công nghệ đã gây tác động lâu dài đến xu hướng phát triển thanh toán qua biên giới, từ hệ thống liên lạc qua máy điện báo vào cuối thế kỷ 19 đến máy tính sau đó đã góp phần nâng cao tốc độ truyền tải thông tin và các dòng vốn qua biên giới. Gần đây, tiến bộ về công nghệ số, như công nghệ bảo mật tokenisation, tiền ảo, khả năng lập trình đang thúc đẩy khả năng thay thế các phương tiện xử lý thanh toán qua biên giới. Các lựa chọn bao gồm CBDC (tiền điện tử của NHTW) và stablecoins của khu vực tư nhân, cả hai loại tiền này đều có khả năng thúc đẩy thanh toán qua biên giới bên ngoài các hệ thống thanh toán truyền thống, nhưng chưa được ứng dụng trong thực tế. Cho tới nay, mới chỉ có một vài dự án thử nghiệm sử dụng CBDC trong thanh toán qua biên giới.

Trái lại, các tài sản ảo do tư nhân phát hành có thể được sử dụng trong thanh toán qua biên giới mà không cần cải tiến thiết kế riêng rẽ. Những tài sản ảo này được đảm bảo bởi giải pháp bảo mật dữ liệu và thông tin người dùng và khai thác sử dụng công nghệ sổ cái phân tán mà không cần sự hỗ trợ của NHTW. Mặc dù giá cả biến động bất thường và chủng loại tiền ảo nghèo nàn, loại tài sản ảo này đang được sử dụng rộng rãi trong giao dịch thanh toán qua biên giới tại khoảng 90 quốc gia trên thế giới, phần lớn là chuyển tiền không vì mục đích kinh tế và được cho là không an toàn.

Trái với các tài sản ảo không an toàn, stablecoins (tài sản ảo có bảo đảm) đã được ưa chuộng và trở nên nổi tiếng, kể cả đối với các giao dịch qua biên giới. Nguyên nhân là do stablecoins neo giá trị của nó với đồng tiền pháp định nào đó bằng cách duy trì mức dự trữ giá trị tài sản tài chính tương đương với lượng stablecoins phát hành. Từ năm 2021 đến nay, mức vốn hóa của stablecoins chủ chốt đã tăng 10 lần, phần lớn là stablecoins có bảo lãnh bằng USD. Nhờ bảo đảm bằng USD, stablecoins có thể thực hiện nhiều chức năng của đồng tiền quốc tế như USD (là phương tiện thanh toán, tích trữ giá trị, đơn vị kế toán). Vì lý do này, stablecoins ngày càng được sử dụng rộng rãi trong giao dịch qua biên giới, chủ yếu là các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân.

Stablecoins bảo lãnh bằng USD có một số đặc điểm giống tiền gửi Eurodollar, cả hai đều đưa ra tiền gửi USD - cam kết thanh toán một lượng USD nhất định cho khách hàng bên ngoài nước Mỹ mà không cần tiếp cận USD tại Mỹ. Xu hướng mở rộng việc sử dụng stablecoins bảo lãnh bằng USD có thể củng cố vị thế áp đảo của USD trong IMS và thúc đẩy nhu cầu về trái phiếu kho bạc Mỹ, trừ khi stablecoins dựa vào những đồng tiền quốc tế khác mở rộng nhanh hơn. Thực tế hiện nay, hai đồng stablecoin (Circle and Tether) xếp thứ 17 trong nhóm các nhà đầu tư toàn cầu nắm giữ trái phiếu kho bạc Mỹ. Tuy nhiên, mức vốn hóa của stablecoins vẫn thấp đáng kể so với những tài sản dưới dạng USD khác, kể cả tiền gửi Eurodollar. Khác với tiền gửi Eurodollar, giao dịch stablecoins không thông qua trung gian ngân hàng, các bên phát hành stablecoins không tiếp cận thanh khoản hay chịu sự giám sát của NHTW, mặc dù các quy định điều chỉnh đang hình thành. Nếu nhu cầu về stablecoins tăng nhanh và thiếu điều chỉnh phù hợp, stablecoins có thể sẽ thúc đẩy đô la hóa và thay thế tiền tệ đối với những quốc gia dễ bị tổn thương, gây rủi ro vẹn toàn tài chính.

Tóm lại, trong những thập niên gần đây, ưu thế của USD trong thương mại, tài chính, đồng tiền dự trữ, và thanh toán toàn cầu đã biểu thị các đặc điểm của IMS. Tỉ trọng USD trong những lĩnh vực này đã vượt quá quy mô GDP, thương mại, tài chính của Mỹ. Vị thế áp đảo của USD đã vượt qua những thay đổi sâu sắc trong nền kinh tế toàn cầu, kể cả sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ. Nguyên nhân là do vị thế của USD tiếp tục được hỗ trợ bởi các hiệu ứng ngoại mạng, sự bổ sung giữa các cách thức sử dụng USD, trạng thái tài sản an toàn, đây là thực tế rất khó thay thế.

Cùng thời gian này, một số chiều hướng hình thành đang tác động đến IMS. Nổi bật là những lo ngại về chia cắt địa chính trị, CNY được sử dụng ngày càng rộng rãi trong thương mại và tài chính quốc tế, vị thế của Mỹ với vai trò chủ ngân hàng và bảo hiểm quốc tế giảm nhẹ, sự nổi lên của những hệ thống thanh toán mới và các tài sản số của khu vực tư nhân. Mặc dù khó có thể thay thế được vai trò trung tâm của USD, những xu hướng này đang đóng vai trò là chất xúc tác, từng bước định hình lại việc sử dụng các đồng tiền quốc tế.

Vũ Xuân Thanh
Nguồn: IMF tháng 7/2025

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô