Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chính sách
Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
aa

Tóm tắt: Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) là chỉ số cốt lõi phản ánh năng lực tài chính, khả năng chịu rủi ro và sự ổn định của tổ chức tín dụng, đồng thời là công cụ quản trị quan trọng cũng như căn cứ để cơ quan quản lý đánh giá sức khỏe hệ thống ngân hàng. Trước yêu cầu hội nhập sâu rộng và diễn biến thị trường phức tạp, ngày 30/6/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để thay thế cho Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016. Thông tư mới không chỉ điều chỉnh kỹ thuật tính CAR mà còn luật hóa các nguyên tắc của Basel III về vốn, minh bạch và kiểm soát rủi ro, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hiện đại hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam. Bài viết này phân tích những điểm mới nổi bật của Thông tư số 14/2025/TT-NHNN và đề xuất một số giải pháp triển khai hiệu quả, phù hợp thực tiễn.

Từ khóa: CAR, Basel III, ngân hàng thương mại.

STANDARDIZING CAPITAL ADEQUACY RATIO: A NEW STEP IN RISK MANAGEMENT AND ENHANCING THE RESILIENCE OF THE BANKING SYSTEM

Abstract: Capital adequacy ratio (CAR) is a key indicator that reflects the financial capacity, risk-bearing ability, and stability of credit institutions, simultaneously is a vital management tool and a basis for supervisory authorities to assess the health of the banking system. In the context of deeper international integration and increasing market volatility, on June 30, 2025, the State Bank of Vietnam issued Circular No. 14/2025/TT-NHNN regulating the capital adequacy ratio for commercial banks and foreign bank branches, replacing Circular No. 41/2016/TT-NHNN dated December 30, 2016. The new circular not only updates the methodology for calculating CAR but also codifies Basel III principles on capital, transparency, and risk control, marking a significant step forward in the modernization of Vietnam’s banking system. This article analyzes key highlights of Circular No. 14/2025/TT-NHNN and proposes some practical and effective implementation solutions.

Keywords: CAR, Basel III, commercial banks.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Quy định mới về điều kiện chia cổ tức, lợi nhuận bằng tiền mặt theo Thông tư số 14/2025/TT-NHNN

Một điểm đổi mới quan trọng trong Thông tư số 14/2025/TT-NHNN là việc bổ sung quy định về tỷ lệ bộ đệm bảo toàn vốn (Capital Conservation Buffer - CCB) và thiết lập cơ chế ràng buộc việc phân phối lợi nhuận bằng tiền mặt với mức độ tuân thủ đầy đủ các tỷ lệ an toàn vốn theo quy định. Cụ thể, khoản 5 Điều 5 Thông tư số 14/2025/TT-NHNN định nghĩa, CCB là phần tỷ lệ vốn lõi cấp 1 còn lại sau khi ngân hàng đáp ứng đầy đủ ba tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu1, bao gồm: Tỷ lệ vốn lõi cấp 1 ≥ 4,5%, tỷ lệ vốn cấp 1 ≥ 6% và tỷ lệ an toàn vốn (CAR) ≥ 8%2. Theo đó, các ngân hàng thương mại không có công ty con, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì các tỷ lệ an toàn vốn ở các mức riêng lẻ và hợp nhất theo quy định nêu trên. Ngân hàng chỉ được phép phân chia phần lợi nhuận bằng tiền mặt sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định nếu tiếp tục đáp ứng đồng thời các tỷ lệ vốn nói trên cộng thêm tỷ lệ CCB theo lộ trình tăng dần qua các năm như Bảng 1:

Bảng 1: Lộ trình áp dụng CCB và các tỷ lệ an toàn vốn tương ứng

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Thời điểm bắt đầu tính năm thứ nhất trong lộ trình này phụ thuộc vào việc ngân hàng được NHNN chấp thuận áp dụng phương pháp tiêu chuẩn hay phương pháp xếp hạng nội bộ. Trường hợp chưa được chấp thuận, thời điểm bắt đầu áp dụng quy định về CCB là năm 2030. Quy định mới tại Thông tư số 14/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến đáng kể trong quản trị an toàn vốn, khi lần đầu tiên thiết lập cơ chế bộ đệm bảo toàn vốn và gắn chặt việc phân phối lợi nhuận bằng tiền mặt với mức độ tuân thủ toàn diện các tỷ lệ an toàn vốn, bao gồm cả phần vốn tối thiểu và phần bộ đệm vốn. So với Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, đây là sự thay đổi có tính hệ thống.

Trước đó, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN chưa đề cập đến bộ đệm vốn và cũng không quy định mối liên hệ trực tiếp giữa việc chia cổ tức với trạng thái vốn tổng thể của ngân hàng, miễn là ngân hàng đáp ứng được mức vốn tối thiểu. Điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng có thể phân phối lợi nhuận ngay cả khi chưa duy trì được phần vốn dự phòng cần thiết. Việc điều chỉnh tại Thông tư số 14/2025/TT-NHNN thể hiện rõ sự chuyển đổi từ cơ chế giám sát mang tính phản ứng sang tư duy giám sát chủ động, phù hợp với định hướng của Basel III. Theo đó, ngân hàng không duy trì đủ bộ đệm vốn sẽ bị hạn chế khả năng phân phối lợi nhuận, nhằm khuyến khích tích lũy vốn, nâng cao khả năng chống chịu trước biến động của thị trường và các cú sốc kinh tế. Đây không chỉ là một thay đổi mang tính kỹ thuật, mà còn là sự nâng cấp tư duy giám sát vốn theo hướng phòng ngừa rủi ro, siết chặt kỷ luật tài chính và thúc đẩy quản trị nội tại bền vững.

Từ thực tiễn triển khai, yêu cầu nâng cao chất lượng vốn theo Thông tư số 14/2025/TT-NHNN buộc các ngân hàng phải ưu tiên giữ lại lợi nhuận để củng cố vốn tự có, thay vì phân phối khi chưa đáp ứng đủ yêu cầu an toàn vốn. Điều này tạo áp lực lớn cho các ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực tài chính hạn chế hoặc đang trong quá trình tái cơ cấu. Trong bối cảnh đó, việc triển khai hiệu quả quy định mới đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao năng lực quản trị tài chính, minh bạch hóa thông tin vốn và chủ động xây dựng lộ trình tăng vốn phù hợp. Đồng thời, cần có sự đồng hành và hỗ trợ về mặt chính sách từ cơ quan quản lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi tuân thủ quy định mới.

2. Quy định mới về cách tính tài sản có rủi ro (RWA) và vốn tự có theo Thông tư số 14/2025/TT-NHNN

Một trong những điểm quan trọng tại Thông tư số 14/2025/TT-NHNN là việc chuẩn hóa phương pháp xác định RWA - yếu tố cốt lõi trong tính toán tỷ lệ an toàn vốn. Trong đó, các quy định mới đặc biệt nhấn mạnh tới các khoản phải đòi có bảo đảm bằng bất động sản thuộc nhóm tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục tín dụng của ngân hàng. So với Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, Thông tư số 14/2025/TT-NHNN thể hiện bước tiến rõ rệt cả về mặt kỹ thuật định lượng lẫn logic phân loại rủi ro. Tại Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, phương pháp tính RWA chủ yếu dựa vào hệ số rủi ro tín dụng gắn với loại tài sản hoặc nhóm đối tượng đơn giản, chưa phân tách rõ ràng theo tính chất, nguồn trả nợ hay giá trị tài sản bảo đảm3. Trong khi đó, Thông tư số 14/2025/TT-NHNN đã thiết lập cơ chế phân loại chi tiết hơn, dựa trên tổ hợp nhiều yếu tố gồm loại hình bất động sản (nhà ở xã hội, nhà ở thương mại, bất động sản không đủ tiêu chuẩn); tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm (LTV); nguồn trả nợ chủ yếu từ dòng tiền độc lập hay từ thanh lý tài sản bảo đảm; mức độ đáp ứng điều kiện của tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, theo Thông tư số 14/2025/TT-NHNN, hệ số rủi ro tín dụng có thể chỉ là 20% đối với khoản vay mua nhà ở xã hội có tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm thấp, nhưng có thể lên tới 150% đối với khoản phải đòi không đủ điều kiện, được bảo đảm bằng tài sản rủi ro cao. Cách tiếp cận này cho phép lượng hóa rủi ro tín dụng sát thực tế hơn và tiệm cận với phương pháp đánh giá theo khuyến nghị của Basel III. Ngoải ra, khoản 3 Điều 9 Thông tư số 14/2025/TT-NHNN đã bổ sung nguyên tắc xử lý các trường hợp một khoản phải đòi có nhiều tài sản bảo đảm hoặc một tài sản bảo đảm được dùng cho nhiều khoản vay, một nội dung chưa được quy định cụ thể trong Thông tư số 41/2016/TT-NHNN.

Cùng với việc cập nhật cách tính tài sản có rủi ro, Thông tư số 14/2025/TT-NHNN có bước chuyển đổi căn bản trong cách tiếp cận xác định vốn tự có. So với Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, vốn tự có theo quy định tại Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ kế thừa cấu trúc gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2, mà còn có sự điều chỉnh đáng kể nhằm nâng cao chất lượng vốn và tăng cường khả năng chống chịu rủi ro của tổ chức tín dụng. Cụ thể, vốn cấp 1 được chia thành vốn cấp 1 cơ bản và vốn cấp 1 bổ sung, với các điều kiện chặt chẽ hơn liên quan đến tính vĩnh viễn, khả năng hấp thụ lỗ liên tục và khả năng chuyển đổi trong trường hợp tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán. Vốn cấp 2 cũng được quy định với tiêu chuẩn cao hơn, đặc biệt về kỳ hạn tối thiểu, cơ chế chịu lỗ khi thanh lý, hình thức trả lãi và nguyên tắc khấu trừ theo thời gian đáo hạn.

Những điều chỉnh này cho thấy xu hướng siết chặt chất lượng vốn theo hướng phù hợp với Basel III, đồng thời khắc phục những bất cập về vốn mang tính hình thức trước đây. Đáng chú ý, Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định giới hạn giá trị vốn cấp 2 được tính vào vốn tự có, theo đó giá trị vốn cấp 2 sau khi trừ các khoản phải trừ chỉ được tính tối đa bằng mức vốn cấp 1 sau khi trừ đi các khoản phải trừ tương ứng. Bên cạnh đó, Thông tư số 14/2025/TT-NHNN cũng thiết lập một số khoản giảm trừ bổ sung đối với vốn cấp 2, bao gồm phần chênh lệch vượt mức giữa các khoản mục vốn cấp 2 và ngưỡng giới hạn theo quy định. Cách tiếp cận này góp phần kiểm soát hợp lý tỷ trọng vốn bổ sung trong tổng vốn tự có, qua đó hạn chế tình trạng phụ thuộc vào công cụ nợ thứ cấp để nâng cao chỉ số CAR một cách hình thức. Điều này nhằm bảo đảm vốn tự có phản ánh đúng năng lực tài chính thực chất và khả năng hấp thụ rủi ro của tổ chức tín dụng theo chuẩn mực an toàn vốn hiện đại.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng trong định hướng quản trị vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng Việt Nam, phản ánh sự dịch chuyển rõ nét từ mô hình giám sát hình thức sang tiếp cận thực chất, dựa trên nguyên tắc thận trọng và khả năng hấp thụ rủi ro theo chuẩn mực Basel III. Việc siết chặt các tiêu chí công nhận vốn tự có, tái cấu trúc hệ số rủi ro tài sản và nâng cao yêu cầu đối với chất lượng tài sản bảo đảm, không chỉ nhằm tăng cường năng lực chống chịu của hệ thống tổ chức tín dụng, mà còn giúp định hình lại cấu trúc vốn theo hướng ổn định và bền vững hơn. Những điều chỉnh này góp phần bảo đảm an toàn hệ thống trong dài hạn cũng như phù hợp với kỳ vọng của thị trường tài chính quốc tế về tính minh bạch, hiệu quả và năng lực quản trị rủi ro nội tại. Vì vậy, các tổ chức tín dụng cần chủ động thích ứng thông qua tái cơ cấu danh mục tín dụng, tăng cường vốn tự có, đầu tư công nghệ và hoàn thiện hệ thống quản trị nhằm tuân thủ quy định và nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.

3. Lộ trình thực hiện Thông tư số 14/2025/TT-NHNN

Theo quy định tại Điều 82 Thông tư số 14/2025/TT-NHNN, Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/9/2025, nhưng việc áp dụng đầy đủ các phương pháp tính toán theo quy định mới không bắt buộc ngay lập tức đối với tất cả các ngân hàng. Cụ thể, trong giai đoạn từ ngày Thông tư có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2029, các ngân hàng chưa đăng ký thực hiện phương pháp tiêu chuẩn (Standardized Approach) hoặc chưa được NHNN chấp thuận áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ (Internal Ratings-Based Approach) sẽ tiếp tục tuân thủ theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, Thông tư số 26/2022/TT-NHNN ngày 31/12/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 và Thông tư số 22/2023/TT-NHNN ngày 29/12/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 41/2016/TT-NHNN. Đến ngày 01/01/2030, toàn bộ các văn bản nêu trên sẽ chính thức bị bãi bỏ, Thông tư số 14/2025/TT-NHNN sẽ trở thành căn cứ pháp lý duy nhất điều chỉnh việc tính toán tỷ lệ an toàn vốn. Cách tiếp cận này thể hiện tư duy chuyển đổi có kiểm soát của NHNN, bảo đảm không gây xáo trộn tức thời cho hệ thống tài chính, đặc biệt trong bối cảnh nhiều ngân hàng Việt Nam vẫn còn khoảng cách nhất định so với chuẩn mực Basel III.

Việc thiết lập lộ trình kéo dài 4 năm 3 tháng (từ ngày 15/9/2025 đến ngày 31/12/2029) cho phép các tổ chức tín dụng có thời gian nâng cao năng lực tài chính, cập nhật hệ thống công nghệ, tái cấu trúc danh mục tín dụng và điều chỉnh cơ chế quản trị rủi ro để thích ứng với yêu cầu kỹ thuật cao hơn của Thông tư số 14/2025/TT-NHNN. Đồng thời, các ngân hàng đủ điều kiện được khuyến khích đăng ký sớm phương pháp tiêu chuẩn hoặc phương pháp xếp hạng nội bộ, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh và vị thế trong hệ thống. Từ góc nhìn học thuật, lộ trình này phù hợp với thông lệ quốc tế, khi hầu hết các quốc gia áp dụng Basel III đều duy trì giai đoạn chuyển tiếp từ 4 - 5 năm nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống, hỗ trợ cơ quan giám sát hoàn thiện công cụ đánh giá và tăng cường năng lực nhân sự. Việc Việt Nam lựa chọn mốc năm 2030 để thay thế hoàn toàn Thông tư số 41/2016/TT-NHNN cho thấy sự tính toán cẩn trọng, bảo đảm nguyên tắc ổn định hệ thống đi kèm nâng chuẩn dần dần. Giai đoạn chuyển tiếp đến hết năm 2029 không chỉ giúp các ngân hàng có điều kiện thích ứng, mà còn tạo áp lực để chủ động chuyển đổi theo tiêu chuẩn mới. Điều này thể hiện năng lực hoạch định chính sách của NHNN trong việc cân bằng giữa tốc độ cải cách và khả năng hấp thụ của hệ thống tài chính ngân hàng.

4. Một số giải pháp triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN hiệu quả và phù hợp với thực tiễn

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN là bước tiến đáng ghi nhận trong việc chuẩn hóa và nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các tổ chức tín dụng Việt Nam. Việc từng bước thay thế Thông tư số 41/2016/TT-NHNN không chỉ thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế của NHNN mà còn góp phần tăng cường sức chống chịu cho hệ thống ngân hàng trước các biến động kinh tế trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, để áp dụng Thông tư số 14/2025/TT-NHNN có hiệu quả, cần sự chủ động và phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, ngân hàng và các bên liên quan.

4.1. Đối với NHNN

Vai trò của NHNN định hướng và hỗ trợ kỹ thuật trong giai đoạn đầu triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN là đặc biệt quan trọng để bảo đảm tính nhất quán và hiệu quả trong toàn hệ thống. Trước hết, cần ưu tiên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu và có tính hệ thống, tập trung vào các nội dung cốt lõi như phương pháp tính toán CAR, RWA, phân loại tài sản bảo đảm, cũng như cơ chế xác định và giám sát các cấu phần vốn cấp 1, vốn cấp 2 theo tiêu chuẩn mới. Điều này đặc biệt cần thiết đối với các tổ chức tín dụng chưa hoàn tất việc triển khai Basel II, Basel III hoặc có nền tảng quản trị rủi ro còn yếu, để thu hẹp khoảng cách thực thi giữa các nhóm ngân hàng.

Bên cạnh đó, để hỗ trợ triển khai một cách thống nhất và kịp thời trong toàn hệ thống, NHNN nên sớm ban hành bộ tài liệu hướng dẫn thực hành dưới dạng câu hỏi - đáp (FAQ), sổ tay áp dụng hoặc tài liệu kỹ thuật tham khảo, trong đó giải thích rõ các khái niệm kỹ thuật, ví dụ thực tiễn và cách xử lý các tình huống phổ biến. Bộ tài liệu đóng vai trò như công cụ tra cứu nhanh, giúp cán bộ nghiệp vụ tại các tổ chức tín dụng có thể chủ động xử lý các vấn đề kỹ thuật trong quá trình triển khai. Một yếu tố then chốt khác là thiết lập cơ chế phản hồi chính sách hai chiều, thông qua việc duy trì các diễn đàn đối thoại định kỳ với đại diện các tổ chức tín dụng, hiệp hội ngân hàng và các chuyên gia độc lập. Các phản ánh từ thực tiễn áp dụng tại các ngân hàng thương mại sẽ giúp NHNN kịp thời hiệu chỉnh những bất cập, không thống nhất hoặc thiếu khả thi trong quy định, bảo đảm rằng quá trình áp dụng Thông tư này không chỉ tuân thủ đúng chuẩn mực kỹ thuật, mà còn phù hợp với điều kiện thị trường và năng lực triển khai thực tế của các ngân hàng.

4.2. Đối với các tổ chức tín dụng

Yêu cầu cốt lõi trong bối cảnh triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN là chủ động nâng cao năng lực vốn và năng lực tuân thủ các chỉ số an toàn theo chuẩn mực mới. Trước hết, các tổ chức tín dụng cần tiến hành đánh giá lại toàn diện cấu trúc tài chính, từ đó xây dựng kế hoạch tăng vốn tự có phù hợp với mức độ rủi ro hiện hữu và định hướng tăng trưởng. Các giải pháp có thể bao gồm: Tăng vốn điều lệ thông qua phát hành cổ phiếu mới, giữ lại lợi nhuận chưa phân phối nhằm tăng vốn lõi, phát hành công cụ nợ đủ điều kiện tính vào vốn cấp 2 theo các tiêu chí chặt chẽ của Thông tư này. Việc cơ cấu lại vốn không chỉ nhằm tuân thủ các yêu cầu về định lượng, mà còn góp phần củng cố khả năng chống chịu trước biến động thị trường và gia tăng mức độ tín nhiệm trong mắt nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần tái cấu trúc danh mục tín dụng theo hướng giảm thiểu rủi ro, ưu tiên cấp tín dụng đối với các khoản vay có tài sản bảo đảm đủ điều kiện, có tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm hợp lý và dòng tiền trả nợ rõ ràng. Việc giảm dần tỷ trọng tín dụng đối với các khoản có hệ số rủi ro cao như bất động sản thương mại không đủ tiêu chuẩn, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo đảm hoặc không được xếp hạng tín nhiệm tốt là chiến lược cần thiết để duy trì CAR ở mức an toàn trong dài hạn.

Về mặt kỹ thuật, việc đầu tư nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin và dữ liệu quản trị rủi ro là điều kiện tiên quyết. Một hệ thống thông tin hiện đại sẽ cho phép ngân hàng tính toán chính xác chỉ số CAR theo thời gian thực, phân loại tài sản theo đúng tiêu chuẩn của Thông tư số 14/2025/TT-NHNN, tuân thủ các yêu cầu báo cáo định kỳ, giám sát nội bộ và giám sát hợp nhất. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cần thiết lập hệ thống cảnh báo sớm và kiểm soát nội bộ chuyên biệt đối với chỉ tiêu an toàn vốn, bao gồm cơ chế giám sát theo kịch bản, cảnh báo sụt giảm vốn và kế hoạch ứng phó sớm. Điều này không chỉ giúp duy trì CAR ở mức ổn định, mà còn giảm thiểu nguy cơ bị hạn chế phân phối lợi nhuận hoặc hoạt động kinh doanh, theo các quy định gắn với bộ đệm bảo toàn vốn trong Thông tư số 14/2025/TT-NHNN.

4.3. Đối với các cơ quan quản lý ngoài NHNN

Các cơ quan quản lý ngoài NHNN, đặc biệt là Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Quốc hội, cần có sự phối hợp chặt chẽ và chủ động nhằm bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất trong khung khổ pháp lý điều chỉnh lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ đặt ra các yêu cầu kỹ thuật mới về quản trị vốn và rủi ro, mà còn kéo theo nhu cầu rà soát, điều chỉnh các quy định pháp luật có liên quan. Việc duy trì tính nhất quán giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau là điều kiện cần thiết để Thông tư số 14/2025/TT-NHNN có thể triển khai hiệu quả trên thực tế, tránh hiện tượng xung đột pháp lý hoặc chồng chéo giữa các quy định, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong quá trình áp dụng. Đồng thời, sự điều chỉnh đồng bộ về luật pháp sẽ tăng cường năng lực giám sát hợp nhất, bảo đảm nguyên tắc minh bạch, thống nhất và liền mạch trong chuỗi quản trị rủi ro tài chính ngân hàng, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành chính sách và củng cố ổn định hệ thống tài chính quốc gia.

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.

1 Điểm a khoản 5 Điều 5 Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định: "a) Tỷ lệ bộ đệm bảo toàn vốn (CCB) là phần tỷ lệ vốn lõi cấp 1 còn lại sau khi ngân hàng đáp ứng đầy đủ các tỷ lệ an toàn vốn (bao gồm tỷ lệ vốn lõi cấp 1, tỷ lệ vốn cấp 1 và tỷ lệ an toàn vốn".

2 Quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 5 Thông tư số 14/2025/TT-NHNN.

3 Điều 6, Điều 8 Thông tư số 41/2016/TT-NHNN.

Tài liệu tham khảo:

1. NHNN (2016), Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

2. NHNN (2025), Thông tư số 14/2025/TT-NHNN ngày 13/6/2025 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

3. Basel Committee on Banking Supervision (2010, rev. 2017), Basel III: A global regulatory framework for more resilient banks and banking systems, Bank for International Settlements.

4. Thời báo Tài chính Việt Nam (2025), Ban hành Thông tư mới về tỷ lệ an toàn vốn CAR, thêm điều kiện chia cổ tức tiền mặt, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/ban-hanh-thong-tu-moi-ve-ty-le-an-toan-von-car-them-dieu-kien-chia-co-tuc-tien-mat-180140.html

5. VietnamDaily (2025), Thông tư 14 về tỷ lệ an toàn vốn: Ngân hàng nào có lợi thế? https://vietnamdaily.kienthuc.net.vn/thong-tu-14-ve-ty-le-an-toan-von-ngan-hang-nao-co-loi-the-post4296523400.html

6. Tạp chí Doanh nghiệp Hội nhập (2025), Ngân hàng Nhà nước siết chặt yêu cầu an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, https://doanhnghiephoinhap.vn/ngan-hang-nha-nuoc-siet-chat-yeu-cau-an-toan-von-doi-voi-ngan-hang-thuong-mai-110739.html

7. KienlongBank (2025), Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế - Tăng sức đề kháng hệ thống ngân hàng, https://kienlongbank.com/chuan-hoa-ty-le-an-toan-von-theo-thong-le-quoc-te-tang-suc-de-khang-he-thong-ngan-hang

8. Thời báo Ngân hàng (2025), Không đủ an toàn vốn, ngân hàng không được phép chia lợi nhuận tiền mặt, https://thesaigontimes.vn/khong-du-an-toan-von-ngan-hang-khong-duoc-phep-chia-loi-nhuan-tien-mat/

9. Thời báo Ngân hàng (2025), Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế: Tăng sức đề kháng hệ thống ngân hàng, https://thoibaonganhang.vn/chuan-hoa-ty-le-an-toan-von-theo-thong-le-quoc-te-tang-suc-de-khang-he-thong-ngan-hang-167440.html

Nguyễn Trung Kiên
Quyền Trưởng phòng Phòng Thanh tra ngân hàng cổ phần, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước

Tin bài khác

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Xem thêm
Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng