Một số vấn đề pháp lý về công bố thông tin của ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Trong các cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu của các ngân hàng niêm yết thuộc nhóm cổ phiếu khá đặc biệt xuất phát từ đặc thù kinh doanh và tính chất nhạy cảm của ngành Ngân hàng...
aa

Tóm tắt: Công bố thông tin là một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), đồng thời, có ý nghĩa rất quan trọng đối với khách hàng và nhà đầu tư. Trong những năm gần đây, các NHTM cổ phần niêm yết (ngân hàng niêm yết) tại Việt Nam đã có những bước tiến trong việc cải thiện chất lượng công bố thông tin, song vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Bài viết luận bàn về việc thực hiện công bố thông tin của các NHTM tại Việt Nam trong những năm qua và một số thông lệ công bố thông tin từ ngành Ngân hàng trên thế giới. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng công bố thông tin cho các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam.

Từ khóa: Minh bạch thông tin, NHTM, chuẩn mực báo cáo tài chính, quản trị công ty.

LEGAL PROVISIONS ON INFORMATION DISCLOSURE AT LISTED JOINT-STICK COMMERCIAL BANKS IN VIETNAM

Abstract: Disclosure of information is one of the key factors in enhancing transparency in the operations of commercial banks. It is also highly significant for customers and investors. In recent years, listed joint-stock commercial banks in Vietnam have made progress in improving the quality of information disclosure, yet several limitations remain to address. This article discusses the implementation of information disclosure by commercial banks in Vietnam over recent years, along with some disclosure practices from the banking sector globally. Based on this analysis, the author proposes several recommendations and solutions to improve the quality of information disclosure for listed joint-stock commercial banks in Vietnam.

Keywords: Information transparency, commercial banks, financial reporting standards, corporate governance.

1. Đặt vấn đề

Công bố thông tin là một trong những yếu tố quan trọng đối với hoạt động của các NHTM. Công bố thông tin không chỉ là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc mà còn được coi là quyền lợi của NHTM trong việc nâng cao uy tín và hình ảnh trên thị trường, là cơ sở để NHTM gia tăng giá trị của mình. Các quy định pháp luật tại Việt Nam hiện nay yêu cầu ngân hàng phải công bố thông tin một cách kịp thời và chính xác. Việc tuân thủ các quy định này không chỉ giúp ngân hàng tránh được những chế tài do vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn cả là hướng đến tăng cường tính minh bạch và uy tín của mỗi ngân hàng nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung.

Khi so sánh với các tổ chức phi ngân hàng khác, có thể thấy rằng, quy mô tài sản hữu hình của ngân hàng là nhỏ so với tổng tài sản. Do đó, khách hàng và nhà đầu tư chủ yếu đánh giá hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản của NHTM thông qua số liệu và thông tin được NHTM công bố1. Một ngân hàng minh bạch, đầy đủ thông tin sẽ tạo dựng uy tín, thu hút khách hàng và nhà đầu tư, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc công bố chi tiết các khoản nợ xấu, tỉ lệ an toàn vốn và biện pháp quản trị rủi ro giúp ngân hàng quản lý rủi ro tốt hơn, đồng thời tạo điều kiện để các bên liên quan giám sát và đưa ra giải pháp cải thiện. Thông tin đầy đủ về tài chính, kinh doanh và quản trị rủi ro còn xây dựng niềm tin từ khách hàng và nhà đầu tư, hỗ trợ họ đánh giá chính xác rủi ro và cơ hội, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn.

Như vậy, tuân thủ quy định công bố thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao minh bạch, hỗ trợ quyết định đầu tư, quản lý rủi ro và tăng uy tín cho ngân hàng. Để đạt được điều này, ngân hàng cần cải thiện chất lượng công bố thông tin, bảo đảm kịp thời, đầy đủ và chính xác.

2. Cơ sở pháp lý đối với việc công bố thông tin của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Việc công bố thông tin của các NHTM tại Việt Nam được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật quan trọng.

Thứ nhất, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) năm 2010 quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm cả việc công bố thông tin tài chính và phi tài chính.

Thứ hai, Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xác định rõ ràng trách nhiệm của các ngân hàng trong việc công bố thông tin nhằm bảo đảm tính minh bạch và chính xác. Ngày 18/01/2024, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Các TCTD năm 2024 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2024. Theo đánh giá của nhiều tổ chức, chuyên gia tài chính, việc thông qua Luật Các TCTD năm 2024 giúp gia tăng mức độ an toàn của hệ thống TCTD với những quy định phòng ngừa rủi ro được tăng cường hơn, đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ nhân sự quản lý, điều hành của TCTD, ngăn ngừa tình trạng sở hữu chéo, chi phối TCTD. Luật Các TCTD năm 2024 đã hoàn thiện quy định về hoạt động ngân hàng và hoạt động khác của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo hướng rõ ràng, minh bạch, xử lý các khó khăn, vướng mắc; đồng thời, tạo cơ sở để TCTD đổi mới hoạt động, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Một trong những điểm mới, nổi bật của Luật Các TCTD năm 2024 liên quan đến việc công bố thông tin quy định cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ của TCTD phải công khai thông tin2. Cụ thể, cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của TCTD phải cung cấp cho TCTD các thông tin gồm: Họ và tên; số định danh cá nhân; quốc tịch, số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp của cổ đông là người nước ngoài; số Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ pháp lý tương đương của cổ đông là tổ chức; ngày cấp, nơi cấp của giấy tờ này; thông tin về người có liên quan; số lượng, tỉ lệ sở hữu cổ phần của mình tại TCTD đó; số lượng, tỉ lệ sở hữu cổ phần của người có liên quan của mình tại TCTD đó. TCTD phải niêm yết, lưu giữ thông tin của các cổ đông này tại trụ sở chính của TCTD và gửi báo cáo cho NHNN. Định kỳ hằng năm, TCTD công bố thông tin này với Đại hội đồng cổ đông, Đại hội thành viên, Hội đồng thành viên của TCTD. TCTD phải công bố công khai thông tin về họ và tên cá nhân, tên tổ chức là cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của TCTD và thông tin số lượng, tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông và người có liên quan trên trang thông tin điện tử của TCTD trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày TCTD nhận được thông tin cung cấp. Đối tượng cung cấp, công bố công khai thông tin phải bảo đảm thông tin cung cấp, công bố công khai, trung thực, chính xác, đầy đủ, kịp thời và phải chịu trách nhiệm về việc cung cấp, công bố công khai thông tin đó. Việc bổ sung quy định mới này là rất cần thiết bởi điều này sẽ góp phần bảo đảm tính minh bạch hoạt động của NHTM.

Thứ ba, Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, quy định chi tiết về những yêu cầu công bố thông tin đối với các TCTD niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán. Các quy định về quản trị công ty tại Chương VIII của Nghị định được xây dựng dựa trên cơ sở Luật Chứng khoán năm 2019, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ngày 06/6/2017 của Chính phủ hướng dẫn về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng, Bộ nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng như thực tế phát sinh khi áp dụng quy định về quản trị công ty, trong đó dựa trên 6 nguyên tắc quản trị công ty áp dụng cho công ty đại chúng, bao gồm: (1) Cơ cấu quản trị hợp lý, hiệu quả; (2) Bảo đảm hiệu quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị đối với công ty và cổ đông; (3) Bảo đảm quyền của cổ đông, đối xử bình đẳng giữa các cổ đông; (4) Bảo đảm vai trò của nhà đầu tư, thị trường chứng khoán và các tổ chức trung gian trong việc hỗ trợ hoạt động quản trị công ty; (5) Tôn trọng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị công ty; (6) Công bố thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác và minh bạch hoạt động của công ty; bảo đảm cổ đông được tiếp cận thông tin công bằng.

Thứ năm, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định tỉ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Thông tư số 22/2023/TT-NHNN ngày 29/12/2023 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 41/2016/TT-NHNN yêu cầu các ngân hàng phải công bố các thông tin liên quan đến tỉ lệ an toàn vốn, một trong những chỉ số quan trọng đánh giá sức khỏe tài chính của ngân hàng.

Ngoài các quy định trong nước, các NHTM Việt Nam còn phải tuân thủ những tiêu chuẩn quốc tế về công bố thông tin, tiêu biểu phải kể đến Chuẩn mực quản trị rủi ro theo Basel III và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Basel III đưa ra các yêu cầu cụ thể về vốn tự có và quản lý rủi ro nhằm tăng cường tính ổn định của hệ thống ngân hàng toàn cầu. Việc áp dụng các tiêu chuẩn này đòi hỏi ngân hàng phải công bố chi tiết thông tin về cấu trúc vốn, tỉ lệ an toàn vốn và các biện pháp quản lý rủi ro. Trong khi đó, việc áp dụng IFRS giúp nâng cao tính minh bạch và khả năng so sánh thông tin tài chính giữa các ngân hàng trên toàn cầu. Tại Việt Nam, nhiều ngân hàng lớn đã bắt đầu áp dụng IFRS để cải thiện chất lượng báo cáo tài chính của mình3.

Một là, chuẩn mực quản trị rủi ro Basel III là tập hợp các cải cách toàn diện nhằm nâng cao quy định, giám sát và quản lý rủi ro trong ngành Ngân hàng. Được xây dựng trên nền tảng của Basel I và Basel II, Basel III tập trung cải thiện năng lực đối phó với căng thẳng tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro và tăng cường sự minh bạch trong hoạt động ngân hàng. Mục tiêu chính của Basel III là tăng cường khả năng chống chịu của từng ngân hàng, từ đó giảm thiểu nguy cơ gây ra những “cú sốc” toàn hệ thống và ngăn chặn khủng hoảng kinh tế trong tương lai. Đáng chú ý, Basel III đặt ra các yêu cầu mới về vốn pháp định, bảo đảm rằng các ngân hàng lớn có đủ khả năng chịu đựng những biến động theo chu kỳ trên bảng cân đối kế toán. Bên cạnh đó, Basel III cũng đưa ra các yêu cầu về đòn bẩy và thanh khoản nhằm bảo vệ, chống lại việc vay quá hạn mức, đồng thời bảo đảm các ngân hàng có đủ thanh khoản trong thời kỳ căng thẳng tài chính4. Cũng chính vì thế, Basel III là chuẩn mực quản trị rủi ro uy tín được áp dụng rộng rãi trên quốc tế và đang được hệ thống ngân hàng Việt Nam hướng đến, thông qua việc nâng cao chất lượng về vốn và năng lực thanh khoản theo yêu cầu của chuẩn mực, giúp các NHTM trang bị khả năng chống đỡ tốt hơn trước những căng thẳng thanh khoản; đồng thời, tạo nền tảng cho một hệ thống ngân hàng bền vững có sức chống chịu biến cố, khả năng phục hồi sau biến cố và góp phần ngăn ngừa những tổn thất hệ thống có thể xảy ra…

Hai là, IFRS là chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế do Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) ban hành nhằm bảo đảm cho báo cáo tài chính doanh nghiệp được minh bạch, nhất quán và có thể so sánh được trên toàn cầu. IFRS rất quan trọng đối với những công ty có cơ sở kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau. Trong đó, Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế Số 9 (IFRS 9) - công cụ tài chính được ban hành vào ngày 24/7/2014 bao gồm các yêu cầu về ghi nhận và đo lường, suy giảm giá trị, dừng ghi nhận và kế toán phòng ngừa rủi ro chung. IASB đã hoàn thành dự án của mình để thay thế Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39 theo các giai đoạn, thêm vào chuẩn mực khi hoàn thành từng giai đoạn. Việc áp dụng IFRS sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên thị trường quốc tế hoặc nhận được các khoản vay ưu đãi từ các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á… Những doanh nghiệp FDI là công ty con của các tập đoàn xuyên quốc gia sẽ không phải mất thêm chi phí để chuyển đổi báo cáo tài chính sang IFRS cho mục đích hợp nhất báo cáo tài chính với công ty mẹ ở nước ngoài. Bên cạnh đó, áp dụng IFRS sẽ tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho việc kế toán nhiều loại công cụ tài chính, tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý. Từ đó sẽ nâng cao tính minh bạch và trung thực của báo cáo tài chính, giúp bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư do IFRS yêu cầu các khoản mục của báo cáo tài chính phải được ghi nhận và trình bày theo bản chất hơn là hình thức hay tên gọi của giao dịch, vì vậy sẽ giảm thiểu tác động của hình thức giao dịch đến phương pháp kế toán, từ đó làm tăng khả năng so sánh giữa báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại Việt Nam với các doanh nghiệp khác trong khu vực và thế giới.

Xuất phát từ lợi ích mang lại khi áp dụng IFRS, ngày 16/3/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã chính thức ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam với lộ trình áp dụng IFRS dự kiến gồm 3 giai đoạn. (Hình 1)

Hình 1: Lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam

Một số vấn đề pháp lý về công bố thông tin của ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ5

Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC, sau năm 2025, tối thiểu tất cả các doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn và một số loại hình doanh nghiệp khác theo quy định phải áp dụng chuẩn mực IFRS.

3. Thực trạng công bố thông tin của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

Trong các cổ phiếu niêm yết, cổ phiếu của các ngân hàng niêm yết thuộc nhóm cổ phiếu khá đặc biệt xuất phát từ đặc thù kinh doanh và tính chất nhạy cảm của ngành Ngân hàng. Đây là những tổ chức có quy mô vốn hóa lớn so với rất nhiều tổ chức niêm yết khác. Ở Việt Nam, các ngân hàng niêm yết ngoài việc bảo đảm đúng quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước còn phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của NHNN. Tính đến tháng 10/2024, Việt Nam có 47 NHTM cổ phần, trong đó có 20 ngân hàng niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE), 3 ngân hàng niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), 9 ngân hàng đăng ký giao dịch trên thị trường UpCom và 15 cổ phiếu ngân hàng đang được giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC)6. Kết quả xếp hạng các tổ chức vốn hóa lớn nhất thị trường cho thấy, có tới 13 cổ phiếu ngân hàng nằm trong danh sách VN30. Được ví như nhóm cổ phiếu “vua” nhờ quy mô vốn hóa lớn, diễn biến cổ phiếu nhóm ngành Ngân hàng trên thực tế luôn có ảnh hưởng rất lớn đến chỉ số chung VN-Index và cả rổ chỉ số VN30-Index.

Tầm quan trọng của cổ phiếu các NHTM được thể hiện tại Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”. Đề án nhấn mạnh một trong những giải pháp cơ cấu lại cơ sở hàng hóa cho thị trường chứng khoán Việt Nam là: “Tất cả các ngân hàng sẽ phải thực hiện việc niêm yết chính thức hoặc đăng ký giao dịch cổ phiếu”. Điều đó một lần nữa cho thấy, việc các NHTM tiến hành niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán được xem là tất yếu khách quan và cũng xuất phát từ mong muốn của Chính phủ muốn thúc đẩy ngành Ngân hàng phát triển lên một tầm cao mới. Có thể nói, so với nhiều tổ chức niêm yết khác, các NHTM cổ phần chính thức lên sàn muộn hơn. Quá trình đó diễn ra rải rác trong suốt 15 năm kể từ năm 2006. Tính đến cuối năm 2021, số lượng ngân hàng niêm yết đạt 19 trong tổng số 33 NHTM cổ phần trên toàn hệ thống, chiếm tỉ lệ 57,58%. Để hoàn thành mục tiêu niêm yết tính đến năm 2025 theo Quyết định số 242/QĐ-TTg, các ngân hàng chưa đăng ký giao dịch hoặc chưa niêm yết sẽ phải gấp rút hoàn thành lộ trình theo chủ trương của Chính phủ.

Ở Việt Nam, cổ phiếu của các ngân hàng niêm yết được coi là nhóm cổ phiếu “trụ” của thị trường. Chính vì lẽ đó, hoạt động công bố thông tin của các ngân hàng niêm yết không chỉ có tác động mạnh mẽ đến nhà đầu tư và khách hàng của ngành Ngân hàng mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán trong nước. Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin, các NHTM Việt Nam thường sử dụng báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, website và các thông cáo báo chí để công bố thông tin. Phần lớn các NHTM tại Việt Nam công bố các báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và một số ngân hàng lớn đã bắt đầu áp dụng chuẩn mực IFRS. Báo cáo tài chính thường bao gồm các báo cáo về kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và báo cáo tình hình tài chính. Tuy nhiên, nội dung chi tiết và độ sâu của các báo cáo này có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng. Thông tin thường được các NHTM công bố qua các kênh như trang thông tin điện tử của ngân hàng, Cổng thông tin điện tử của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các phương tiện truyền thông đại chúng. Một số NHTM cũng tổ chức các buổi gặp gỡ nhà đầu tư để giải thích và làm rõ các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, việc sử dụng các kênh truyền thông hiện đại như mạng xã hội và các ứng dụng di động còn hạn chế.

3.1. Những điểm sáng trong việc thực hiện công bố thông tin của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Kể từ thời điểm Luật Chứng khoán năm 2019 và Thông tư số 96/2020/TT-BTC được ban hành và có hiệu lực, nhìn chung, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng nói chung, trong đó có nhóm các ngân hàng niêm yết nói riêng, được đánh giá là đã tương đối đầy đủ và toàn diện. Theo quy định của Luật Chứng khoán năm 2019, công bố thông tin của công ty đại chúng phải đáp ứng tính đầy đủ, chính xác, kịp thời; đối tượng công bố thông tin phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin công bố; khi công bố thông tin, công ty niêm yết công bố phải đồng thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và tổ chức nơi chứng khoán của công ty niêm yết, đăng ký giao dịch.

Nhằm tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, Thông tư số 96/2020/TT-BTC đã quy định về phương tiện báo cáo, trong đó khoản 10 Điều 7 của Thông tư quy định rõ về việc công ty đại chúng không phải gửi bản giấy để báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán trong trường hợp đã công bố thông tin đầy đủ trên các phương tiện công bố thông tin của công ty, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán. Từ thời điểm áp dụng quy định này, hệ thống công bố thông tin điện tử đã giúp các công ty đại chúng, mà đặc biệt là các ngân hàng niêm yết thực hiện nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin kịp thời, đầy đủ và thuận tiện hơn; các nhà đầu tư và khách hàng cũng tiếp cận thông tin được công bố nhanh chóng và dễ dàng hơn. Điều này đóng góp đáng kể cho việc tăng tính công khai, minh bạch của ngân hàng niêm yết cũng như hỗ trợ hiệu quả cho công tác giám sát tuân thủ của NHNN và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với các ngân hàng.

Theo Báo cáo khảo sát toàn diện về hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán năm 2024 do Chương trình IR Awards 2024 phát hành7, ngân hàng là ngành có tỉ lệ doanh nghiệp đạt chuẩn công bố thông tin cao nhất thị trường. Điều này cho thấy sự chú trọng, nghiêm túc và chuẩn mực của các ngân hàng trong việc thực hiện đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ công bố thông tin trong kỳ khảo sát năm 2024. Cụ thể, ngành Ngân hàng có 18/20 doanh nghiệp đạt chuẩn công bố thông tin, tương đương tỉ lệ 90%, tăng trưởng mạnh so với kỳ khảo sát năm 2023.

Trong số những ngân hàng được đánh giá có hoạt động công bố thông tin hiệu quả, một số ngân hàng lớn như NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank)… đã thực hiện công bố thông tin khá đầy đủ, kịp thời, với chất lượng thông tin công bố tốt, được đánh giá cao tại các cuộc bình chọn, xếp hạng. Cuộc bình chọn Doanh nghiệp niêm yết (Vietnam Listed Company Awards - VLCA) là sự kiện thường niên lớn nhất đánh giá hoạt động của các công ty niêm yết, do HoSE, HNX và Báo Đầu tư phối hợp tổ chức. Trong số 10 doanh nghiệp niêm yết có Báo cáo thường niên tốt nhất nhóm tài chính năm 2023 có BIDV, HDBank, Vietcombank8. Riêng đối với HDBank đây là năm thứ 5 liên tiếp HDBank nhận được giải thưởng Báo cáo thường niên tốt nhất. Trong bối cảnh hội nhập và hướng đến các chuẩn mực quốc tế, Báo cáo thường niên của HDBank luôn được trình bày tiếng Anh và tiếng Việt, giúp cung cấp cho đại chúng và các nhà đầu tư trong, ngoài nước đầy đủ thông tin về hoạt động ngân hàng cũng như định hướng phát triển trọng tâm trung và dài hạn. Cùng với đó, báo cáo thường niên các năm gần đây của HDBank đã có nhiều cải tiến trong mục công bố thông tin thực hành quản trị công ty, trách nhiệm và quản trị rủi ro đối với môi trường9

Trong những năm qua, các NHTM Việt Nam cũng đã đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống công nghệ thông tin, bảo đảm việc thu thập, xử lý và công bố thông tin được thực hiện nhanh chóng và chính xác. Điển hình có thể kể đến NHTM cổ phần Quân đội (MB) đã triển khai một loạt dự án nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin với sự hỗ trợ của các đối tác quốc tế, giúp cải thiện đáng kể khả năng xử lý dữ liệu và công bố thông tin kịp thời. Với đội ngũ 2.000 nhân sự công nghệ thông tin, số lượng dự án tự động hóa của MB năm 2023 gấp 1,5 lần so với năm 2022. Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), học máy, học sâu được tích hợp trong hoạt động chăm sóc khách hàng và vận hành nội bộ có thể hỗ trợ các ngân hàng trong việc thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu, từ đó giúp ngân hàng công bố thông tin một cách nhanh chóng và chính xác hơn. AI có thể giúp phát hiện các mẫu bất thường trong dữ liệu và đưa ra các cảnh báo sớm về rủi ro, từ đó nâng cao chất lượng thông tin công bố. Nền tảng công nghệ thông tin vững chắc của MB cùng việc áp dụng mô hình và phân tích dữ liệu mạnh mẽ giúp định hình chính sách, thúc đẩy kinh doanh và phát hiện rủi ro sớm. Ứng dụng mô hình tăng nhận diện sớm và cảnh báo rủi ro giúp kiểm soát tỉ lệ nợ xấu ở mức thấp, chỉ khoảng 1,6%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình ngành Ngân hàng10.

Bên cạnh nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của pháp luật trong nước, việc thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế về công bố thông tin, bao gồm Chuẩn mực quản trị rủi ro theo Basel III và IFRS của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam cũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực:

Đối với Basel III, hiện chưa có bất kỳ quy định nào bắt buộc phải áp dụng toàn bộ tiêu chuẩn này cho các ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, một số ngân hàng đã tiên phong trong việc triển khai Basel III. Chẳng hạn như NHTM cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) đã triển khai áp dụng các chỉ số quản trị rủi ro theo chuẩn mực Basel III từ năm 2020. Giữa tháng 6/2021, HDBank cũng thông báo đã tiên phong triển khai việc nâng cấp áp dụng tiêu chuẩn Basel II lên Basel III. Vào cuối năm 2021, NHTM cổ phần Tiên Phong (TPBank) và NHTM cổ phần Hàng Hải Việt Nam (MSB) đã tuyên bố hoàn thành toàn bộ các yêu cầu của Basel III. Ngày 24/02/2022, NHTM cổ phần Nam Á (Nam A Bank) cũng công bố triển khai và áp dụng các yêu cầu quản trị rủi ro theo Basel III, sau khi được công nhận tuân thủ cả 3 trụ cột theo chuẩn mực Basel II vào cuối năm 2021. Tiếp đó, ngày 19/5/2022, NHTM cổ phần Đông Nam Á (SeABank) đã tổ chức tọa đàm công bố kết quả triển khai và áp dụng các chuẩn mực Basel III vào hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động quản trị rủi ro của ngân hàng. Việc trở thành một trong số ít ngân hàng tại Việt Nam triển khai và áp dụng Basel III giúp SeABank nâng cao năng lực quản trị, lành mạnh tài chính và minh bạch trong quản lý rủi ro. Ngày 07/12/2022, NHTM cổ phần Á Châu (ACB) đã công bố chính thức hoàn thành triển khai các nội dung trọng yếu ILAAP và chuẩn mực Basel III - một trong những chuẩn mực yêu cầu cao về vốn và quản trị rủi ro thanh khoản. Với thành công này, ACB tiếp tục nâng cao mức độ của bộ tiêu chuẩn về quản lý rủi ro11.

Đối với IFRS, theo đánh giá sơ bộ của các chuyên gia tài chính, khối các NHTM thời gian qua đã khá chủ động xây dựng năng lực nội bộ hay hợp tác với các nhà tư vấn chuyên nghiệp để thực hiện công tác phân tích đánh giá hiện trạng, xây dựng lộ trình triển khai IFRS.

Tuy nhiên, việc triển khai IFRS tại các NHTM cũng có những đặc thù riêng và việc chuyển đổi sang áp dụng IFRS của các ngân hàng có thể mất nhiều thời gian hơn so với các doanh nghiệp thông thường khác. Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC, sau năm 2025, tối thiểu tất cả các doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn và một số loại hình doanh nghiệp khác theo quy định phải áp dụng chuẩn mực IFRS. Từ đầu năm 2022, các doanh nghiệp và ngân hàng bước vào giai đoạn thực hiện tự nguyện việc chuyển đổi áp dụng IFRS. Đây là cơ hội cho các ngân hàng thay đổi diện mạo tài chính, tuy nhiên, khó khăn đặc thù của các ngân hàng trong việc này cũng không ít.

VIB và NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) là hai ngân hàng đã tiên phong chuyển đổi báo cáo tài chính theo IFRS 9 từ năm 2018 và đã hoàn thành báo cáo tài chính năm 2020 theo chuẩn mực này. Ngày 11/6/2020, NHTM cổ phần Bản Việt chính thức triển khai IFRS 9 với sự tư vấn toàn diện của Công ty TNHH Thuế và Tư vấn KPMG (KPMG). Đối với IFRS 9, TPBank đã thực hiện rà soát toàn bộ yêu cầu của IFRS (gồm 41 chuẩn mực kế toán quốc tế - IAS và 16 chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS) với VAS, từ đó xác định ra các khác biệt và các bút toán chuyển đổi để lập báo cáo tài chính tuân thủ hoàn toàn IFRS. Ngày 01/10/2021, TPBank công bố hoàn thành toàn bộ các yêu cầu của Basel III và IFRS 9 và sẽ triển khai toàn diện cả hai chuẩn mực quốc tế quan trọng này ngay từ quý IV/2021. Một số ngân hàng khác cũng đang trong quá trình chuẩn bị hoặc triển khai dự án.

Nhờ vào chú trọng quản trị rủi ro mà những ngân hàng đi đầu về Basel II, Basel III, IFRS đang là những ngân hàng thuộc top đầu khả năng sinh lời, top đầu chất lượng tài sản tốt và được xếp hạng cao không chỉ trong nước mà quốc tế. Từ đó, các ngân hàng có cơ hội thu hút dòng vốn từ nước ngoài, nâng cao uy tín đối với khách hàng và các nhà đầu tư. Chẳng hạn, VIB đã huy động được 260 triệu USD khoản vay hợp vốn quốc tế. Trong đợt công bố tháng 8/2022, VIB là một trong số các NHTM được xếp hạng top đầu năm 2021, dựa trên kết quả đánh giá với điểm số cao về an toàn vốn, chất lượng tài sản, quản trị điều hành, kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng thanh khoản.

3.2. Những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện công bố thông tin của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thực trạng chất lượng thông tin được công bố của các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có thể được đánh giá qua một số khía cạnh chính sau:

Về chất lượng thông tin công bố: Nhiều báo cáo tài chính còn thiếu chi tiết và phân tích sâu sắc. Các thông tin quan trọng về nguyên nhân và hệ quả của các biến động tài chính thường không được giải thích rõ ràng. Các dự báo tài chính và kế hoạch chiến lược dài hạn thường không được công bố hoặc công bố thiếu cụ thể, làm giảm khả năng của nhà đầu tư trong việc đánh giá triển vọng của ngân hàng. Một số ngân hàng vẫn chưa thực hiện đầy đủ việc công bố báo cáo tài chính theo IFRS, thay vào đó vẫn sử dụng VAS, gây khó khăn trong việc so sánh với các ngân hàng quốc tế. Thông tin về rủi ro tài chính, quản lý rủi ro và các biện pháp kiểm soát nội bộ thường thiếu hoặc chưa rõ ràng. Mặc dù có quy định về thời hạn công bố thông tin nhưng một số ngân hàng vẫn chậm trễ trong việc phát hành báo cáo tài chính. Thực trạng này làm giảm độ tin cậy của thông tin và ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư. Sự thiếu kịp thời trong cập nhật thông tin quan trọng như thay đổi trong quản trị, các sự kiện bất thường, hoặc tình hình tài chính khẩn cấp cũng là một vấn đề phổ biến12.

Về khả năng tiếp cận thông tin: Thông tin tài chính của các NHTM thường phức tạp và khó hiểu đối với nhà đầu tư và những người không có kiến thức chuyên sâu về tài chính và kế toán. Các báo cáo thường chứa nhiều thuật ngữ chuyên ngành mà không có giải thích rõ ràng, gây khó khăn cho việc tiếp cận và hiểu thông tin. Các ngân hàng chủ yếu sử dụng kênh truyền thống như web và báo chí để công bố thông tin, trong khi việc sử dụng những phương tiện truyền thông hiện đại như mạng xã hội và ứng dụng di động còn hạn chế. Việc tổ chức các buổi gặp gỡ nhà đầu tư để giải thích và làm rõ các báo cáo tài chính chưa được phổ biến rộng rãi.

Về việc tuân thủ quy định: Một số ngân hàng chưa tuân thủ đầy đủ các quy định về công bố thông tin của NHNN và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, bao gồm việc không công bố đầy đủ báo cáo định kỳ và thông tin cần thiết khác. Các báo cáo kiểm toán độc lập đôi khi không được công bố hoặc thiếu sự minh bạch trong việc giải thích các phát hiện của kiểm toán. Công bố thông tin về quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ còn thiếu chi tiết, làm giảm khả năng đánh giá của nhà đầu tư về mức độ an toàn và ổn định của ngân hàng.

Tóm lại, mặc dù có những tiến bộ nhất định trong việc nâng cao chất lượng thông tin công bố nhưng vẫn còn nhiều thách thức và vấn đề cần giải quyết để đạt được mức độ minh bạch và tin cậy cao hơn. Điều này không chỉ đòi hỏi nỗ lực từ phía các ngân hàng mà còn cần sự giám sát chặt chẽ và hỗ trợ từ các cơ quan quản lý.

4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công bố thông tin của ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Để nâng cao chất lượng công bố thông tin, các NHTM tại Việt Nam cần áp dụng các giải pháp cụ thể nhằm cải thiện tính minh bạch, độ tin cậy và khả năng tiếp cận của thông tin tài chính.

Thứ nhất, cải thiện chất lượng báo cáo tài chính: Áp dụng IFRS giúp các ngân hàng nâng cao tính minh bạch và khả năng so sánh quốc tế của các báo cáo tài chính. IFRS yêu cầu các thông tin tài chính được trình bày rõ ràng, chi tiết và đầy đủ, giúp nhà đầu tư và các bên liên quan dễ dàng hiểu và đánh giá. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò của các công ty kiểm toán độc lập trong việc kiểm tra và xác minh tính chính xác của báo cáo tài chính. Các công ty kiểm toán uy tín có thể giúp bảo đảm rằng báo cáo tài chính của ngân hàng được trình bày một cách trung thực và khách quan.

Thứ hai, nâng cao tính kịp thời của thông tin: Sử dụng các phần mềm và hệ thống quản lý thông tin hiện đại để tự động hóa quy trình thu thập, xử lý và công bố thông tin tài chính. Các hệ thống này có thể giúp giảm thiểu sai sót, tăng tốc độ xử lý và bảo đảm rằng thông tin được công bố kịp thời. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần thiết lập các quy trình nội bộ rõ ràng và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thời hạn công bố thông tin. Các quy trình này cần được đánh giá và cải tiến định kỳ để bảo đảm tính hiệu quả và kịp thời của việc công bố thông tin.

Thứ ba, tăng cường khả năng tiếp cận thông tin: Đơn giản hóa ngôn ngữ và cung cấp giải thích rõ ràng về các thuật ngữ chuyên ngành trong báo cáo tài chính. Điều này giúp nhà đầu tư và khách hàng dễ dàng hiểu và đánh giá thông tin tài chính của ngân hàng. Sử dụng nhiều kênh truyền thông khác nhau để công bố thông tin tài chính, bao gồm trang web chính thức của ngân hàng, cổng thông tin tài chính, mạng xã hội và ứng dụng di động. Điều này giúp tăng cường khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư và khách hàng.

Thứ tư, tăng cường quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ: Thiết lập và duy trì một hệ thống quản lý rủi ro mạnh mẽ, bao gồm việc đánh giá, kiểm soát và báo cáo các rủi ro tài chính. Hệ thống này cần được cập nhật định kỳ và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Nâng cao hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ để tất cả các thông tin tài chính được thu thập và xử lý một cách chính xác và đầy đủ. Hệ thống kiểm soát nội bộ cần được kiểm tra và đánh giá thường xuyên để phát hiện và khắc phục kịp thời các sai sót.

Thứ năm, đào tạo và nâng cao nhận thức: Các chương trình đào tạo định kỳ và liên tục về các chuẩn mực kế toán quốc tế và quy định pháp lý mới nhất sẽ giúp nâng cao năng lực của nhân viên phụ trách công bố thông tin. Điều này không chỉ giúp cải thiện chất lượng công bố thông tin mà còn giúp ngân hàng tuân thủ tốt hơn các yêu cầu pháp lý. Ban lãnh đạo ngân hàng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của minh bạch thông tin và cam kết thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng công bố thông tin. Sự cam kết từ ban lãnh đạo là yếu tố then chốt giúp gia tăng tính minh bạch và độ tin cậy của thông tin tài chính.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế: NHNN đã hợp tác với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế để tổ chức hội thảo và khóa đào tạo cho các NHTM về chuẩn mực và thông lệ tốt nhất trong công bố thông tin. Các ngân hàng cần tích cực tham gia nhiều hội thảo và diễn đàn quốc tế về tài chính - ngân hàng để cập nhật xu hướng và quy định mới nhất về công bố thông tin. Các hoạt động này giúp ngân hàng nắm bắt kịp thời thay đổi và cải tiến quy trình công bố thông tin.

Thứ bảy, ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao tính minh bạch và độ tin cậy trong công bố thông tin tài chính. Ứng dụng công nghệ Blockchain bảo đảm thông tin không thể bị sửa đổi, dễ truy xuất, củng cố lòng tin và tăng cường giám sát; AI hỗ trợ xử lý, phân tích dữ liệu nhanh chóng, phát hiện bất thường và cảnh báo sớm rủi ro, giúp thông tin chính xác hơn. Việc tích hợp các công nghệ này tối ưu hóa quy trình, đáp ứng yêu cầu minh bạch và góp phần phát triển bền vững hệ thống ngân hàng.

Công bố thông tin đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng niềm tin và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính tại Việt Nam. Dù đã có những bước tiến nhất định, quá trình này vẫn tồn tại không ít hạn chế và thách thức cần khắc phục. Để nâng cao chất lượng công bố thông tin, cần hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân viên, đầu tư vào công nghệ hiện đại, thúc đẩy văn hóa minh bạch và mở rộng hợp tác quốc tế. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp này sẽ giúp các NHTM Việt Nam cải thiện chất lượng thông tin, củng cố niềm tin từ khách hàng và các bên liên quan, đồng thời góp phần phát triển bền vững hệ thống tài chính quốc gia.

1 Phạm Mạnh Hùng (2021), “Xây dựng bộ chỉ số minh bạch và công bố thông tin của các NHTM Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Số 2 năm 2021.

2 Điều 49 Luật Các TCTD năm 2024.

3 Trần Thị Thanh Thảo (2024), “Giải pháp thúc đẩy việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) tại Việt Nam”, Tạp chí Công thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 3 tháng 2 năm 2024, https://tapchicongthuong.vn/giai-phap-thuc-day-viec-ap-dung-chuan-muc-bao-cao-tai-chinh-quoc-te--ifrs--tai-viet-nam-119910.htm

4 Nguyễn Thị Ánh Ngọc, Nguyễn Thị Diễm (2023), “Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, https://tapchinganhang.gov.vn/basel-iii-qua-trinh-thuc-hien-tai-viet-nam-va-mot-so-khuyen-nghi.htm

5 Tô Thị Thư Nhàn (2023), “Lộ trình áp dụng IFRS 9 đối với các NHTM tại Việt Nam”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, https://thitruongtaichinhtiente.vn/lo-trinh-ap-dung-ifrs-9-doi-voi-cac-ngan-hang-thuong-mai-tai-viet-nam-44405.html

6 Dữ liệu doanh nghiệp được thống kê tại: https://s.cafef.vn/danh-sach-cac-ngan-hang.chn

7 Khảo sát công bố thông tin năm 2024 được thực hiện đối với 708 doanh nghiệp niêm yết trên HOSE và HNX, kỳ khảo sát kéo dài 12 tháng từ ngày 01/5/2023 đến ngày 30/4/2024.

8 Vietstock (2023), “Top 10 Báo cáo thường niên tốt nhất khối Tài chính có gì khác biệt?”, https://vietstock.vn/2023/12/top-10-bao-cao-thuong-nien-tot-nhat-khoi-tai-chinh-co-gi-khac-biet-757-1135312.htm

9 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2021), “Báo cáo nghiên cứu: Thực trạng và giải pháp công bố thông tin của các NHTM Việt Nam”, Hà Nội.

10 Hoàng Thị Phương Thảo (2021), “Công bố thông tin tài chính: Thực trạng và đề xuất cho ngành ngân hàng Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 60(2), trang 50-62.

11 Nguyễn Thị Ánh Ngọc, Nguyễn Thị Diễm (2023), “Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, https://tapchinganhang.gov.vn/basel-iii-qua-trinh-thuc-hien-tai-viet-nam-va-mot-so-khuyen-nghi.htm

12 Phạm Thị Hương (2021), “Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 35, tháng 12/2021, https://kinhtevadubao.vn/ap-dung-chuan-muc-bao-cao-tai-chinh-quoc-te-ifrs-o-cac-doanh-nghiep-viet-nam-hien-nay-23320.html

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Fitch Ratings (2021), “Vietnam Banking Sector: Transparency and Performance Review”, London, https://www.fitchratings.com/search/query=Vietnam%20Banking%20Sector%3A%20Transparency%20and%20Performance%20Review

2. Nguyễn Thị Thanh Hương (2021), “Nâng cao chất lượng công bố thông tin tài chính tại các NHTM Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

3. International Monetary Fund (IMF) (2021), “Vietnam Financial Sector Assessment”, Washington, DC: IMF, https://www.imf.org/en/Home

4. Lê Minh (2016), “Các ngân hàng lớn của Mỹ đối phó với các đối thủ công nghệ cao bằng dịch vụ thanh toán tức thời”, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOF152926

5. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2020), “Financial Sector Assessment Program: Vietnam”, https://www.adb.org/search0?keywords=Financial%20Sector%20 Assessment%20Program:%20Vietnam%202020

6. Nguyễn Thị Ánh Ngọc, Nguyễn Thị Diễm (2023), “Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, https://tapchinganhang.gov.vn/basel-iii-qua-trinh-thuc-hien-tai-viet-nam-va-mot-so-khuyen-nghi.htm

7. Tô Thị Thư Nhàn (2023), “Lộ trình áp dụng IFRS 9 đối với các NHTM tại Việt Nam”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, https://thitruongtaichinhtiente.vn/lo-trinh-ap-dung-ifrs-9-doi-voi-cac-ngan-hang-thuong-mai-tai-viet-nam-44405.html

8. Yến Nhi (2023), “Châu Âu: Tăng cường giám sát để đảm bảo hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng”, Báo Kiểm toán điện tử, http://baokiemtoan.vn/chau-au-tang-cuong-giam-sat-de-dam-bao-hieu-qua-quan-ly-rui-ro-tin-dung-26277.html

9. Hoàng Thị Phương Thảo (2021), “Công bố thông tin tài chính: Thực trạng và đề xuất cho ngành ngân hàng Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 60(2), trang 50-62.

10. Trần Thị Thanh Thảo (2024), “Giải pháp thúc đẩy việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) tại Việt Nam”, Tạp chí Công thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 3 tháng 2 năm 2024, https://tapchicongthuong.vn/giai-phap-thuc-day-viec-ap-dung-chuan-muc-bao-cao-tai-chinh-quoc-te--ifrs--tai-viet-nam-119910.htm

11. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2021), “Báo cáo nghiên cứu: Thực trạng và giải pháp công bố thông tin của các NHTM Việt Nam”, Hà Nội.

12. Vietstock (2023), “Top 10 Báo cáo thường niên tốt nhất khối Tài chính có gì khác biệt?”, https://vietstock.vn/2023/12/top-10-bao-cao-thuong-nien-tot-nhat-khoi-tai-chinh-co-gi-khac-biet-757-1135312.htm

13. World Economic Forum (2020), “Vietnam Banking Sector: Transparency and Governance”, Geneva: World Economic Forum.

ThS. Nguyễn Phương Thảo
Khoa Luật - Học viện Ngân hàng

Tin bài khác

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Tài chính xanh là công cụ giúp các quốc gia không chỉ đạt được mục tiêu kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội hướng đến phát triển bền vững.
Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng là yêu cầu cần thiết để bảo vệ tài sản, duy trì lòng tin của khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh đầy thách thức hiện nay.
Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025

Năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Mặc dù bối cảnh quốc tế và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Lạm phát tăng cao, xung đột địa chính trị kéo dài, sự tăng trưởng chậm lại của các nền kinh tế lớn, nhưng kinh tế Việt Nam đã vượt qua khó khăn để đạt được những thành tựu nổi bật.
Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam

Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam

Thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể trong những năm gần đây, tuy nhiên vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức.
Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật  toán C4.5

Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật toán C4.5

Khai phá dữ liệu (Data Mining - DM) là khái niệm rộng và có thể gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu không chuyên sâu về công nghệ thông tin. Điều quan trọng là phải nắm được nguyên lý, khái niệm liên quan đến DM, từ đó, định hướng mục tiêu và ứng dụng DM trong từng lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Phát triển bền vững được xem là một trong những vấn đề cấp bách nhất của thời đại. Hiện nay, ngày càng nhiều tổ chức tài chính áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội, quản trị (ESG) vào hoạt động thực tiễn của mình để hướng tới thông điệp chung tay vì sự phát triển bền vững.
Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị

Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị

Quy định thanh khoản Basel III được Ủy ban Basel Giám sát ngân hàng (BCBS) đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 nhằm giám sát, quản lý rủi ro thanh khoản hợp lý; thúc đẩy khả năng phục hồi để ngân hàng tồn tại trong tình huống căng thẳng cấp tính kéo dài một tháng và tình huống phục hồi kéo dài hơn một năm.
Hạch toán quyền rút vốn đặc biệt: Khuôn khổ, các yếu tố chính và một số biện pháp giải quyết vướng mắc hiện nay

Hạch toán quyền rút vốn đặc biệt: Khuôn khổ, các yếu tố chính và một số biện pháp giải quyết vướng mắc hiện nay

Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) là tài sản dự trữ quốc tế được Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) tạo ra nhằm bổ sung dự trữ chính thức của các quốc gia thành viên...
Xem thêm
Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Vai trò của chính sách tín dụng xanh đối với chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tín dụng xanh là một công cụ tài chính được thiết kế để hỗ trợ các dự án và hoạt động có lợi cho môi trường. Chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp là quá trình mà các công ty áp dụng những phương pháp và chiến lược bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

"Dòng chảy" tín dụng hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bứt tốc cuối năm

Những tháng cuối năm, doanh nghiệp tập trung tăng cường sản xuất, kinh doanh để đạt mục tiêu tăng trưởng nên nhu cầu tín dụng cũng sẽ tăng theo.
Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát

Trong những tháng đầu năm 2024, dù kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều biến động khó lường như xung đột địa chính trị kéo dài, lạm phát duy trì ở mức cao, cùng những thách thức nội tại của nền kinh tế trong nước và ảnh hưởng nặng nề của thiên tai...
Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tăng cường hiểu biết tài chính cho cộng đồng nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Tầm quan trọng của hệ thống tiền gửi tại Việt Nam ngày càng được khẳng định thông qua sự an toàn và ổn định; từ đó, mang lại niềm tin đối với người gửi tiền.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm tiền gửi nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát huy vai trò đối với hệ thống ngân hàng

Để góp phần ổn định hệ thống tài chính, ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, trong bài viết này, tác giả làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và định hướng sửa đổi, bổ sung Luật BHTG.
Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Tại sao khu vực châu Á tránh được lạm phát cao?

Lạm phát gia tăng toàn cầu sau đại dịch Covid-19, vốn đã ảnh hưởng đến cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, nhưng dường như đã “bỏ qua” châu Á. Một trong những lý do chính là sự phục hồi chậm của các nền kinh tế châu Á do các đợt “đóng cửa”, “phong tỏa”, “cách ly”, “giãn cách” kéo dài và lặp đi lặp lại.
Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương Bahamas và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, giảm chi phí giao dịch, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững tại vùng đảo xa xôi, năm 2020, Bahamas trở thành quốc gia tiên phong trên toàn thế giới trong việc phát hành, lưu thông tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (NHTW) - CBDC với hệ thống Sand Dollar - tiền kỹ thuật số do NHTW Bahamas phát hành.
Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Sáng kiến về Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và lợi ích tham gia của Việt Nam

Chiếm tới 60% dân số thế giới và đóng góp khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, IPEF do Mỹ khởi xướng từ tháng 5/2022, bao gồm một số nền kinh tế phát triển nhanh, năng động trên thế giới và có thể đóng góp lớn vào tăng trưởng toàn cầu trong 3 thập kỷ tới (2020 - 2050)...
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu đang có sự phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đáng kể của thị trường trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (Green, Social, Sustainable, and Sustainability-Linked Bonds - GSSSB).
Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Kinh tế tư nhân: Động lực phát triển của Asean và bài học đối với Việt Nam

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tại Việt Nam, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Thông tư sô 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Thông tư số 54/2024/TT-NHNN ngày 17/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 26/2021/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn giao dịch ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối

Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 Quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3

Thông tư số 52/2024/TT-NHNN ngày 29/11/2024 Quy định việc ngân hàng thương mại có cổ đông, cổ đồng và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định tại Điều 55 của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 17/2017/QH14 xây dựng và thực hiện lộ trình để bảo đảm tuân thủ các quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15

Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 06/11/2024 Về tăng cường quản lý rủi ro rửa tiền trong lĩnh vực ngân hàng giai đoạn 2024 - 2028

Thông tư số 50/2024/TT-NHNN ngày 31/10/2024 Quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 49/2024/TT-NHNN ngày 25/10/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 46/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 48/2024/TT-NHNN ngày 30/9/2024 Quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đông Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài