Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Thị trường tài chính
Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin...
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích vai trò của kinh tế học hành vi trong việc nâng cao hiểu biết và hành vi tài chính cá nhân, đặc biệt trong bối cảnh người tiêu dùng thường đưa ra các quyết định tài chính thiếu tối ưu do ảnh hưởng của các thiên lệch nhận thức và giới hạn hiểu biết của cá nhân. Thông qua hai hướng tiếp cận: Tác động trực tiếp đến hành vi và thay đổi môi trường ra quyết định - bài viết trình bày các chiến lược can thiệp cụ thể như giáo dục tài chính, cải thiện văn hóa tài chính, thiết kế kiến trúc lựa chọn, quy định pháp lý và đơn giản hóa thông tin tài chính. Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra các rủi ro đạo đức, tính không đồng đều trong hiệu quả chính sách hành vi và nhấn mạnh sự cần thiết của việc kết hợp công cụ hành vi với các giải pháp thể chế và chính sách bền vững.

Từ khóa: Hiểu biết tài chính, kinh tế học hành vi, thiên lệch nhận thức.

THE ROLE OF BEHAVIORAL ECONOMICS IN ENHANCING FINANCIAL LITERACY

Abstract: This article analyzes the role of behavioral economics in enhancing individual financial literacy and behavior, particularly in the context where consumers often make suboptimal financial decisions due to cognitive biases and personal cognitive limitations. Through two main approaches: Directly influencing behavior and altering the decision-making environment - the article presents specific intervention strategies such as financial education, improving financial culture, designing choice architecture, legal regulations, and simplifying financial information. Simultaneously, the article highlights potential ethical risks, the uneven effectiveness of behavioral policies, and emphasizes the necessity of combining behavioral tools with institutional solutions and sustainable policies.

Keywords: Financial literay, behavioral economics, cognitive biases.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh hệ thống tài chính ngày càng phức tạp và số lượng sản phẩm tài chính ngày càng đa dạng, người tiêu dùng thường gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định hợp lý và tối ưu. Các nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực kinh tế học hành vi cho thấy, các thiên lệch nhận thức (cognitive bias) như thiên lệch hiện tại (present bias), chú ý hạn chế (limited attention), hay kế toán tinh thần (mental accounting) có thể làm suy giảm chất lượng ra quyết định tài chính, đặc biệt đối với các nhóm dân cư dễ tổn thương. Việc hiểu rõ và ứng dụng các nguyên lý của kinh tế học hành vi không chỉ giúp cải thiện hành vi tài chính cá nhân, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng trong môi trường kinh tế hiện đại.

Thiên lệch nhận thức là những sai lệch có hệ thống trong quá trình suy nghĩ, khiến con người ra quyết định không hoàn toàn hợp lý, ngay cả khi có đầy đủ thông tin. Những quyết định tài chính thiếu tối ưu hoặc sai lầm của con người thường được lý giải bởi các thiên lệch nhận thức. Tác động của những thiên lệch này có thể được giảm nhẹ thông qua hai hướng tiếp cận chính - tác động đến hành vi của con người và đến môi trường mà trong đó, họ đưa ra các quyết định.

Khi đưa ra các quyết định tài chính, con người thường lựa chọn không tối ưu do các đặc điểm hành vi và thiên lệch nhận thức. Ví dụ, sự chú ý hạn chế khiến họ khó có thể so sánh kỹ lưỡng các hàng hóa, dịch vụ và sản phẩm tài chính thay thế, dẫn đến chi phí vay nợ cao hơn (Bertrand & Morse, 2011). Xu hướng ưu tiên hiện tại: Phần thưởng nhỏ nhưng ngay lập tức sẽ được ưa chuộng hơn phần thưởng lớn hơn trong tương lai - có mối liên hệ tích cực với sự gia tăng nợ hộ gia đình và tình trạng chậm thanh toán các khoản vay (Meier & Sprenger, 2010). Kế toán tinh thần: Việc phân chia thu nhập theo nguồn gốc (lương, thưởng, hoàn tiền…) dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không tối ưu.

Những thiên lệch nhận thức như vậy và các quyết định tài chính không tối ưu liên quan có thể trở nên nghiêm trọng hơn tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân. Ví dụ, nghèo đói và căng thẳng tài chính làm tăng khả năng đưa ra các quyết định “thiển cận” (Haushofer & Fehn, 2014), gia tăng sự thiếu kiên nhẫn và làm giảm năng lực nhận thức (Mani và cộng sự, 1013). Năng lực nhận thức thấp thường liên quan đến sự thiếu kiên nhẫn, sợ rủi ro và dễ mắc lỗi trong việc ước lượng xác suất (Benjamin và cộng sự, 2013). Nói cách khác, trên thị trường tồn tại cả những người tiêu dùng dễ mắc sai lầm và những người ít bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng hành vi đó.

Sự tồn tại của các hành vi bất thường tạo cơ hội cho người bán khai thác để thu lợi - như qua các hình thức đăng ký tự động, thiết kế phí phức tạp, hay làm giảm khả năng nhận biết các dịch vụ mất phí. Càng thu thập được nhiều dữ liệu về người tiêu dùng, người bán càng dễ thực hiện phân biệt đối xử dựa trên đặc điểm hành vi.

Tất cả những điều này tạo ra hiệu ứng hai chiều. Thứ nhất, việc khai thác thiên lệch hành vi gây thiệt hại cho phúc lợi của các nhóm xã hội dễ tổn thương nhất. Thứ hai, suy giảm phúc lợi lại làm tăng căng thẳng, dẫn đến nhiều sai lầm và quyết định tài chính kém hiệu quả hơn nữa, từ đó, tiếp tục làm suy giảm phúc lợi.

Tuy nhiên, tác động tiêu cực của các thiên lệch nhận thức trong quyết định tài chính có thể được giảm nhẹ nhờ kinh tế học hành vi.

2. Tác động đến hành vi

Ảnh hưởng của các thiên lệch nhận thức có thể được giảm bớt thông qua thay đổi hành vi con người nhờ giáo dục tài chính, phát triển văn hóa tài chính, nâng cao sự chú ý và cung cấp công cụ đối phó với các thiên lệch nhận thức. Cụ thể:

Thứ nhất, nâng cao hiểu biết tài chính. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa hiểu biết tài chính và hành vi tài chính lành mạnh. Ví dụ, các thí nghiệm thực địa tại Chile cho thấy, người có mức hiểu biết tài chính cao lựa chọn các tài khoản hưu trí có lợi hơn và ít bị ảnh hưởng bởi hành vi của người xung quanh (Hastings và cộng sự, 2011). Tại Peru, chương trình giáo dục tài chính có ứng dụng nguyên lý của kinh tế học hành vi giúp học viên tăng kiến thức lên 30% và cải thiện khả năng quản lý tài chính lên 18% (OECD, 2018). Người có hiểu biết tài chính cao thường có tiết kiệm và ít bị tổn thương trước các cú sốc tài chính. Tại Nga, nghiên cứu cho thấy hiểu biết tài chính có liên hệ tích cực với việc tham gia thị trường tài chính và tiêu cực với việc sử dụng nguồn vay không chính thức (Klapper và cộng sự, 2013).

Thứ hai, giáo dục thái độ tài chính. Việc có kiến thức tài chính không đồng nghĩa với hành vi tài chính đúng đắn. Một nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy kỹ năng tính toán không cải thiện hành vi tài chính, nhưng lại làm thay đổi thái độ tài chính. Ví dụ như thái độ tích cực với các công cụ tài chính sẽ làm tăng khả năng mở tài khoản tiết kiệm (Carpena & Zia, 2020). Do đó, không chỉ cần cung cấp kiến thức, mà còn định hình thái độ tài chính. Ngoài ra, nên dạy các quy tắc thực hành đơn giản - gọi là nguyên tắc kinh nghiệm (rule of thumb) .

Thứ ba, đơn giản hóa cách truyền đạt thông tin. Do khả năng chú ý của con người có giới hạn, nên hình thức trình bày thông tin đóng vai trò quan trọng. Việc trình bày đơn giản, tăng tính trực quan và hấp dẫn của tài liệu, cũng như tạo ra phản ứng cảm xúc từ người học có thể nâng cao hiệu quả của các chương trình giáo dục tài chính. Tính đơn giản và trực quan có thể đạt được thông qua ngôn ngữ dễ hiểu hơn, sử dụng đồ họa thông tin (infographic), cấu trúc trình bày rõ ràng và thiết kế hợp lý; còn sự hấp dẫn có thể được tăng cường nhờ vào việc sử dụng trình mô phỏng, công cụ thực hành, và các nguyên tắc trò chơi hóa. Các định dạng video thường hấp dẫn người học hơn văn bản và dễ tạo ra phản ứng cảm xúc, từ đó tăng mức độ tham gia và tương tác của người học..

Thứ tư, đúng thời điểm và đúng bối cảnh. Tác động của các chương trình giáo dục tài chính lên hành vi tài chính có xu hướng giảm dần theo thời gian. Một nghiên cứu (Fernandes và cộng sự, 2014) cho thấy sau 10 tháng, hiệu quả của một chương trình đào tạo kéo dài 18 giờ tương đương với hiệu quả của một chương trình 6 giờ được thực hiện gần đây, còn hiệu quả của một chương trình mới chỉ kéo dài 1 giờ tương đương với một chương trình 12 giờ đã được tổ chức cách đó 10 tháng. Do đó, có thể các chương trình đào tạo ngắn nhưng đúng thời điểm, khi người học thực sự cần kiến thức và có thể áp dụng ngay, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn như những chương trình: Đào tạo người vay đang gặp khó khăn trong việc trả nợ, hay đào tạo cho người di cư khi họ cần lựa chọn kênh chuyển tiền về nước (Kaiser và Menkhoff, 2017). Tính kịp thời trong việc cung cấp chương trình giáo dục đặc biệt quan trọng đối với các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.

Thứ năm, phát triển văn hóa tài chính. Do kiến thức tài chính không phải lúc nào cũng dẫn đến hành vi tài chính có trách nhiệm, nên điều quan trọng không chỉ là nâng cao hiểu biết tài chính, mà còn phải hình thành văn hóa tài chính, tức là, các giá trị và niềm tin hỗ trợ hành vi tài chính đúng đắn, đặc biệt là tư duy dài hạn trong lập kế hoạch và tinh thần trách nhiệm.

Nghiên cứu của Falk và cộng sự (2018) chỉ ra rằng các sở thích kinh tế khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Ví dụ, người dân ở các quốc gia có di sản châu Âu thường kiên nhẫn hơn mức trung bình toàn cầu. Trong số các quốc gia dẫn đầu về mức độ sẵn sàng từ bỏ phần thưởng hiện tại để nhận được phần thưởng lớn hơn trong tương lai có Mỹ, Canada, Úc và các nước Tây Âu. Các quốc gia hậu Xô Viết ở Đông Âu nhìn chung khá thiếu kiên nhẫn. Tuy nhiên, người dân cả ở Tây Âu và Đông Âu đều không mấy sẵn lòng chấp nhận rủi ro.

Các quốc gia Đông Á và Nam Á nhìn chung cũng không quá kiên nhẫn, ngoại trừ các quốc gia theo truyền thống Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Người dân ở Trung Đông và Bắc Phi cũng không nổi bật về tính kiên nhẫn, nhưng lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Các quốc gia Nam Mỹ thiếu kiên nhẫn, trong khi mức độ chịu rủi ro, vị tha và tin tưởng ở mức trung bình.

Phân tích mối liên hệ giữa sở thích và các đặc điểm ở cấp độ vi mô cho thấy rằng, đúng như dự đoán của lý thuyết, tính kiên nhẫn góp phần vào việc tích lũy vốn tài chính và vốn con người. Cá nhân càng kiên nhẫn thì càng có xu hướng tiết kiệm và nâng cao trình độ học vấn của mình.

Thứ sáu, cung cấp công cụ đối phó với thiên lệch nhận thức. Để nâng cao kiến thức tài chính cho người dân, việc cung cấp thông tin về sự tồn tại của các thiên lệch nhận thức và đào tạo cách đối phó với chúng đóng vai trò rất quan trọng. Chỉ riêng việc nhận thức được rằng có tồn tại các thiên lệch nhận thức đã có thể giúp hạn chế tác động của chúng khi đưa ra quyết định tài chính. Trong lĩnh vực tiết kiệm, một số công cụ đầy triển vọng giúp hạn chế tác động của thiên lệch nhận thức bao gồm:

Tài khoản tiết kiệm theo mục tiêu: Giúp kích hoạt hiệu ứng "tránh mất mát", khiến cá nhân có xu hướng theo đuổi mục tiêu đã hình dung sẵn trong đầu. Hạn chế tự nguyện: Là những ràng buộc mà người tiết kiệm tự đặt ra trước, cho phép họ kiềm chế chi tiêu tại thời điểm bị cám dỗ, qua đó, giảm thiểu thiên lệch hiện tại và thiếu tự kiểm soát. Trích lập tự động: Giúp đối phó với xu hướng trì hoãn và thiên lệch hiện tại khi cần chuyển tiền vào tài khoản tiết kiệm. “Thuế” tiêu dùng tự nguyện: Theo đó, người dùng tự áp dụng một khoản trích % từ mỗi lần mua sắm vào một tài khoản tiết kiệm riêng biệt. Hệ thống nhắc nhở: Qua đó người dùng có thể đăng ký nhận thông báo qua tin nhắn hoặc email để khắc phục tình trạng thiếu chú ý hoặc quên lãng.

Trong lĩnh vực tiêu dùng, các công cụ hữu ích bao gồm: Quản lý thu chi, thiết lập hạn mức chi tiêu, đặt mục tiêu tài chính và cam kết công khai việc thực hiện mục tiêu. Trong lĩnh vực tín dụng, nên cung cấp công cụ thiết lập thanh toán khoản vay tự động và trích lập tự động vào tài khoản trả nợ. Mỗi công cụ đều có thể được cải tiến dựa trên kinh tế học hành vi và thực nghiệm. Ví dụ, một nghiên cứu tại Kenya cho thấy nhắc nhở trả nợ vào buổi tối hiệu quả hơn 8% so với buổi sáng (OECD, 2017).

3. Thay đổi môi trường ra quyết định

Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin.

“Cú hích” và cấu trúc lựa chọn

Nếu như các chính sách quản lý truyền thống dựa trên cấm đoán, thuế và trợ cấp được coi là biểu hiện điển hình của chủ nghĩa gia trưởng cứng rắn, thì khái niệm “Cú hích” do Richard Thaler - người đặt nền móng cho kinh tế học hành vi và luật gia Cass Sunstein phát triển, lại gắn liền với chủ nghĩa gia trưởng mềm. Theo đó, con người vẫn giữ quyền tự do lựa chọn, nhưng môi trường lựa chọn được thiết kế để hướng họ đến các hành vi tài chính khôn ngoan hơn.

Các lựa chọn mặc định như vậy được đánh giá là có tác động mạnh nhất trong số các công cụ “thúc đẩy” hành vi - theo kết luận của các nhà tâm lý học tại Đại học Geneva sau khi tiến hành phân tích tổng hợp hơn 200 nghiên cứu về 9 loại công cụ thúc đẩy khác nhau. Và theo một thí nghiệm thực địa tại Afghanistan do các nhà kinh tế đến từ Đại học California và Đại học Washington thực hiện (Blumenstock và cộng sự, 2018), hiệu quả của lựa chọn mặc định trong việc khuyến khích hành vi tiết kiệm tương đương với việc nhà tuyển dụng thưởng thêm 50% vào khoản tiết kiệm. Trong thí nghiệm, 949 nhân viên của nhà mạng lớn nhất tại Afghanistan được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: Một nhóm được tự động trích 5% lương vào tài khoản tiết kiệm, nhóm còn lại không có khoản trích tự động nào; đồng thời, mỗi nhân viên cũng được lựa chọn ngẫu nhiên để nhận hoặc không nhận tiền thưởng từ công ty, tương đương 25% hoặc 50% trên số tiền được trích để tiết kiệm (nếu có). Việc thiết lập “tùy chọn mặc định” - tự động trích lương để tiết kiệm không chỉ có tác động trong thời gian thí nghiệm, mà còn tạo ra ảnh hưởng lâu dài đến hành vi tiết kiệm của người lao động. Sau khi kết thúc thí nghiệm kéo dài nửa năm, các nhà nghiên cứu đã hỏi những người tham gia rằng họ có muốn tiếp tục trích một phần lương vào tài khoản tiết kiệm hay không. Kết quả có 45% nhân viên đã đồng ý tiếp tục tiết kiệm; đồng thời, tỉ lệ tham gia vào chương trình tiết kiệm tiếp theo cao hơn 25% ở nhóm nhân viên ban đầu được tự động trích một phần lương để tiết kiệm theo mặc định.

Biện pháp quản lý

Nhiều quốc gia như Úc, Canada, Mỹ, Anh và các nước EU đang thực hiện các biện pháp quản lý nhằm hạn chế doanh nghiệp lợi dụng các thiên lệch hành vi của người tiêu dùng. Có thể chia các biện pháp này thành ba nhóm chính: (i) Quy định về cung cấp thông tin cho người tiêu dùng; (ii) Quy định về quy trình mua hàng trực tuyến; (iii) Quy định về thực tiễn định giá sản phẩm.

Khả năng ra quyết định kinh tế tối ưu của người tiêu dùng suy giảm rõ rệt khi họ phải đối mặt với thông tin phức tạp, không đồng nhất và thiếu minh bạch. Vì vậy, các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng cần tập trung vào đơn giản hóa việc tiếp cận dữ liệu quan trọng, tăng khả năng so sánh giữa các sản phẩm và dịch vụ tương tự, cũng như nâng cao tính minh bạch của thông tin.

Ví dụ, tại New Zealand, một nhóm các nhà kinh tế học hành vi đã đề xuất sáu nguyên tắc công bố thông tin đối với các sản phẩm tài chính (Johnston và cộng sự, 2015): (i) Ngắn gọn và đơn giản; (ii) Chuẩn hóa nội dung thông tin được cung cấp; (iii) Diễn giải rõ ràng rủi ro và lợi ích của sản phẩm; (iv) Thông tin phải thực sự có ý nghĩa với người tiêu dùng; (v) Trình bày trực quan bằng đồ thị và hình ảnh minh họa; (vi) Thử nghiệm trước các hình thức công bố thông tin trước khi áp dụng đại trà. Việc thực hiện những nguyên tắc này giúp giảm tác động của các thiên lệch nhận thức, đồng thời, giúp đánh giá hiệu quả các phương án thay đổi trước khi được triển khai trên diện rộng.

Các thí nghiệm thực địa xác nhận tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin minh bạch cho người tiêu dùng dịch vụ tài chính. Sự dễ dàng và nhanh chóng của việc mua sắm trực tuyến khiến người tiêu dùng đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi các thiên lệch nhận thức trong môi trường số (Faraz & Anjum, 2025). Để bảo vệ người tiêu dùng, có thể áp dụng “thời gian suy nghĩ lại” đối với các giao dịch mua bán từ xa, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Tại Liên minh châu Âu, người tiêu dùng có quyền hủy bỏ hợp đồng trong vòng 14 ngày mà không bị phạt và không cần đưa ra lý do (European Union, 2002). Ngoài ra, EU cũng đã ban hành một chỉ thị cấm việc đánh dấu sẵn các ô chọn thêm dịch vụ mất phí trong quá trình mua hàng trực tuyến, đồng thời, đảm bảo quyền hoàn lại các khoản thanh toán không tự nguyện cho người tiêu dùng (European Union, 2011).

Một lĩnh vực quan trọng khác trong điều tiết hành vi là giới hạn các hình thức định giá lợi dụng thiên lệch nhận thức của người tiêu dùng. Một ví dụ điển hình là “định giá nhỏ giọt”, trong đó, người tiêu dùng chỉ thấy một phần giá ban đầu, còn các khoản phụ phí được thêm vào ở các bước sau, khiến giá cuối cùng cao hơn nhiều so với giá được hiển thị lúc đầu. Hình thức này làm cho việc so sánh giữa các sản phẩm/dịch vụ tương đương trở nên khó khăn, vì đòi hỏi nhiều thời gian và công sức nhận thức. Ngoài ra, khi quá trình mua đã bắt đầu, hiệu ứng sở hữu có thể xuất hiện - khiến người tiêu dùng có cảm giác “mình đã sở hữu” sản phẩm, từ đó, khó từ bỏ lựa chọn ban đầu dù còn có phương án tốt hơn, nhưng cần thêm nỗ lực tìm kiếm (Kahneman và cộng sự, 1990).

Một nghiên cứu tại Vương quốc Anh đã chỉ ra rằng, hình thức "định giá nhỏ giọt" gây tổn hại lớn nhất đối với phúc lợi tài chính của người tiêu dùng (OECD, 2017).

4. Hạn chế và rủi ro

Mặc dù các khái niệm của kinh tế học hành vi có tiềm năng lớn trong việc thúc đẩy hành vi tài chính đúng đắn, cách tiếp cận này vẫn tồn tại một số hạn chế và rủi ro kèm theo.

Rủi ro đạo đức: Trong những năm gần đây, các vấn đề đạo đức liên quan đến việc “cú hích” ngày càng được thảo luận nhiều hơn. Thứ nhất, luôn tồn tại nguy cơ việc “thúc đẩy” đến hành vi “đúng đắn” thực chất là hành vi thao túng, phục vụ lợi ích của một bên thứ ba. Thứ hai, quá trình thúc đẩy có thể làm gia tăng chủ nghĩa gia trưởng khi người tiêu dùng mất dần cảm giác trách nhiệm cá nhân đối với quyết định của mình, từ đó, kích hoạt chuỗi hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế. Thứ ba, chính các nhà hoạch định chính sách cũng có thể mắc thiên lệch nhận thức, khiến những can thiệp hành vi mang lại hệ quả không mong muốn.

Tác động không đồng đều: Các thiên lệch hành vi thường gắn liền với đặc điểm cá nhân, như năng lực nhận thức hoặc trải nghiệm sống. Do đó, khó có thể thiết kế một giải pháp hành vi phổ quát hiệu quả với tất cả các nhóm dân cư. Điều này đòi hỏi phải xây dựng các công cụ hành vi phù hợp riêng cho từng nhóm đối tượng; đồng thời phải tính đến tác động tiêu cực có thể phát sinh đối với những nhóm không phải là đối tượng chính của can thiệp.

Cần thiết phải thử nghiệm trước khi triển khai: Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm hành vi ở các lĩnh vực khác nhau được thực hiện trên toàn cầu, cần lưu ý rằng, một can thiệp hành vi hiệu quả ở nước này không bảo đảm sẽ hiệu quả ở nước khác. Việc dựa vào kết quả các thí nghiệm được mô tả trong các nghiên cứu cũng cần thận trọng do hiện tượng thiên lệch công bố. Các tạp chí học thuật thường có xu hướng ưu tiên công bố những nghiên cứu cho thấy hiệu ứng lớn và có ý nghĩa thống kê - điều này có thể dẫn đến việc kỳ vọng quá mức vào hiệu quả của các can thiệp hành vi.

Nguy cơ xem nhẹ các vấn đề cơ bản: Cuối cùng, tập trung vào các công cụ kinh tế hành vi không nên làm lu mờ vai trò của việc giải quyết các vấn đề căn bản hơn như: Mức thu nhập thấp; môi trường thể chế yếu kém; những bất cập trong hệ thống pháp lý và giám sát; việc sử dụng các công cụ hành vi nên đóng vai trò bổ trợ, chứ không thể thay thế cho các biện pháp giải quyết các vấn đề cấu trúc của nền kinh tế và xã hội.

5. Kết luận

Kinh tế học hành vi mang đến những công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy hành vi tài chính đúng đắn thông qua việc điều chỉnh hành vi cá nhân và tái thiết kế môi trường ra quyết định. Tuy nhiên, để các can thiệp hành vi phát huy hiệu quả thực sự, cần có sự thiết kế chính sách cẩn trọng, phù hợp với từng nhóm đối tượng và bối cảnh cụ thể. Đồng thời, các biện pháp hành vi không thể thay thế cho các giải pháp căn bản như nâng cao thu nhập, cải thiện thể chế và hoàn thiện hệ thống pháp lý. Do đó, việc kết hợp giữa công cụ hành vi và chính sách kinh tế - xã hội toàn diện là hướng đi cần thiết nhằm thúc đẩy hiểu biết tài chính và nâng cao phúc lợi bền vững cho người dân.

Tài liệu tham khảo:

1. Bertrand, M., & Morse, A. (2011), Information disclosure, cognitive biases and payday borrowing. The Journal of Finance, 66(6), pages 1865 - 1893. https://doi.org/10.1111/j.1540-6261.2011.01698.x

2. Benjamin, D. J., Brown, S. A., & Shapiro, J. M. (2013), Who is “behavioral”? Cognitive ability and anomalous preferences. Journal of the European Economic Association, 11(6), pages 1231 - 1255. https://www.jstor.org/stable/24538782

3. Blumenstock, J., Callen, M., & Ghani, T. (2018), Why do defaults affect behavior? Experimental evidence from Afghanistan. American Economic Review, 108(10), pages 2868 - 2901. https://doi.org/10.1257/aer.20171676

4. Carpena, F., & Zia, B. (2020), The causal mechanism of financial education: Evidence from mediation analysis. Journal of Economic Behavior & Organization, 177, pages 818 - 839. https://doi.org/10.1016/j.jebo.2020.05.001

5. European Union (2002), Directive 2002/65/EC of the European Parliament and of the Council of 23 September 2002 concerning the distance marketing of consumer financial services. https://eur-lex.europa.eu/eli/dir/2002/65/oj/eng

6. European Union (2011), Directive 2011/83/EU of the European Parliament and of the Council of 25 October 2011 on consumer rights. https://eur-lex.europa.eu/eli/dir/2011/83/oj/eng

7. Falk, A., Becker, A., Dohmen, T., Enke, B., Huffman, D., & Sunde, U. (2018), Global evidence on economic preferences. The Quarterly Journal of Economics, 133(4), pages 1645 - 1692. https://doi.org/10.1093/qje/qjy013

8. Fernandes, D., Lynch, J. G., Jr., & Netemeyer, R. G. (2014), Financial literacy, financial education, and downstream financial behaviors. Management Science, 60(8), pages 1861 - 1883. https://doi.org/10.1287/mnsc.2013.1849

9. Hastings, J., Mitchell, O. S., & Chyn, E. (2011), Fees, framing, and financial literacy in the choice of pension manager. In O. S. Mitchell & A. Lusardi (Eds.), Financial literacy: Implications for retirement security and the financial marketplace, pages 10 - 115. Oxford University Press.

10. Haushofer, J., & Fehr, E. (2014), On the psychology of poverty. Science, 344(6186), pages 862 - 867. https://doi.org/10.1126/science.1232491

11. Johnston, K., Tether, C., & Tomlinson, A. (2015), Financial product disclosure: Insights from behavioural economics (Occasional Paper 15/01). Ministry of Business, Innovation & Employment.

12. Kahneman, D., Knetsch, J. L., & Thaler, R. H. (1990), Experimental tests of the endowment effect and the Coase theorem. Journal of Political Economy, 98(6), pages 1325 - 1348. https://web.mit.edu/curhan/www/docs/Articles/15341_Readings/Behavioral_Decision_Theory/Kahneman_et_al_1990_Experimental_tests.pdf

13. Kaiser, T., & Menkhoff, L. (2017), Does financial education impact financial literacy and financial behavior, and if so, when? The World Bank Economic Review, 31(3), pages 611 - 630. https://doi.org/10.1093/wber/lhx018

14. Klapper, L., Lusardi, A., & Panos, G. A. (2013), Financial literacy and its consequences: Evidence from Russia during the financial crisis. Journal of Banking & Finance, 37(10), pages 3904 - 3923. https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.07.014

15. Mani, A., Mullainathan, S., Shafir, E., & Zhao, J. (2013), Poverty impedes cognitive function. Science, 341(6149), pages 976 - 980. https://doi.org/10.1126/science.1238041

16. Meier, S., & Sprenger, C. (2010), Present-biased preferences and credit card borrowing. American Economic Journal: Applied Economics, 2(1), pages 193 - 210. https://doi.org/10.1257/app.2.1.193

17. Naeem, F., & Amna, A. (2025), Spendception: The psychological impact of digital payments on consumer purchase behavior and impulse buying. Behavioral Sciences, 15(3). https://doi.org/10.3390/bs15030387

18. OECD (2017), Behavioural insights and public policy: Lessons from around the world. OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/9789264270480-en

19. OECD (2018), The application of behavioural insights to financial literacy and investor education programmes and initiatives. OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/0b5f985d-en

20. Thaler, R., & Benartzi, S. (2004), Save more tomorrow™: Using behavioral economics to increase employee saving. Journal of Political Economy, 112(S1), S164 - S187. https://doi.org/10.1086/380085

21. Thaler, R., & Sunstein, C. R. (2021), Nudge: The final edition. Penguin Books.

TS. Nguyễn Đình Trung và TS. Lê Thị Phương
Trường Đại học Hòa Bình

Tin bài khác

Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Các tổ chức tài chính vi mô thường thiết kế sản phẩm tín dụng vi mô phù hợp với đặc thù từng địa phương, từ đó giảm bớt rào cản về thủ tục, tài sản thế chấp, và tạo điều kiện cho những người chưa từng tham gia hệ thống tài chính chính thức tiếp cận dịch vụ. Việc triển khai tín dụng vi mô còn gắn liền với mạng lưới hỗ trợ cộng đồng, tư vấn sử dụng vốn và đồng hành cùng người vay trong suốt quá trình kinh doanh, giúp giảm thiểu rủi ro vỡ nợ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Thị trường bất động sản Việt Nam năm 2025 mang đến nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt trong các phân khúc bất động sản xanh, nhà ở giá rẻ và bất động sản nghỉ dưỡng. Các khu vực hưởng lợi từ hạ tầng như tỉnh Đồng Nai và tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh) cũng là điểm đến tiềm năng cho các nhà đầu tư. Để thành công trong lĩnh vực này, các nhà đầu tư cần phải có kiến thức sâu rộng và chiến lược đầu tư thông minh. Việc nắm rõ các yếu tố pháp lý, tài chính, cạnh tranh, thị trường, cơ sở hạ tầng, công nghệ, và quản lý rủi ro sẽ giúp nhà đầu tư đạt được thành công và tối ưu hóa lợi nhuận trong lĩnh vực bất động sản. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản Việt Nam.
Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Mô hình D-SMART là giải pháp toàn diện và phù hợp cho ngành logistics tại Việt Nam, tích hợp các bài học từ những quốc gia thành công. Mô hình không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả vận hành mà còn đóng góp vào sự phát triển logistics bền vững và hiện đại hóa ngành logistics tại Việt Nam. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Một số giải pháp tài chính như khoản vay ưu đãi, tín dụng xanh và tài trợ dựa trên hiệu suất giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, giảm thiểu chi phí đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác công - tư và sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, qua đó, tạo động lực mạnh mẽ cho ngành logistics Việt Nam hướng tới mục tiêu giảm chi phí logistics xuống còn 15 - 18% GDP vào năm 2030.
Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Bài viết này tập trung phân tích cách thức một số công ty logistics tiên phong trên thế giới triển khai ESG, đánh giá những tác động cụ thể đến thu hút đầu tư. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra, bài viết đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh ngành logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy áp dụng ESG hiệu quả, hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành logistics trong thời gian tới.
Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Ngân hàng trung ương mua vàng: Xu hướng và dự báo

Trong hơn một thập kỷ qua, vàng đã trở lại mạnh mẽ như một tài sản dự trữ chiến lược toàn cầu. Trước năm 2010, các ngân hàng trung ương thường bán vàng để chuyển sang giữ USD hoặc EUR. Thế nhưng, xu hướng này đã hoàn toàn đảo ngược.
Xem thêm
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng