Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Thị trường tài chính
Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin...
aa

Tóm tắt: Bài viết phân tích vai trò của kinh tế học hành vi trong việc nâng cao hiểu biết và hành vi tài chính cá nhân, đặc biệt trong bối cảnh người tiêu dùng thường đưa ra các quyết định tài chính thiếu tối ưu do ảnh hưởng của các thiên lệch nhận thức và giới hạn hiểu biết của cá nhân. Thông qua hai hướng tiếp cận: Tác động trực tiếp đến hành vi và thay đổi môi trường ra quyết định - bài viết trình bày các chiến lược can thiệp cụ thể như giáo dục tài chính, cải thiện văn hóa tài chính, thiết kế kiến trúc lựa chọn, quy định pháp lý và đơn giản hóa thông tin tài chính. Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra các rủi ro đạo đức, tính không đồng đều trong hiệu quả chính sách hành vi và nhấn mạnh sự cần thiết của việc kết hợp công cụ hành vi với các giải pháp thể chế và chính sách bền vững.

Từ khóa: Hiểu biết tài chính, kinh tế học hành vi, thiên lệch nhận thức.

THE ROLE OF BEHAVIORAL ECONOMICS IN ENHANCING FINANCIAL LITERACY

Abstract: This article analyzes the role of behavioral economics in enhancing individual financial literacy and behavior, particularly in the context where consumers often make suboptimal financial decisions due to cognitive biases and personal cognitive limitations. Through two main approaches: Directly influencing behavior and altering the decision-making environment - the article presents specific intervention strategies such as financial education, improving financial culture, designing choice architecture, legal regulations, and simplifying financial information. Simultaneously, the article highlights potential ethical risks, the uneven effectiveness of behavioral policies, and emphasizes the necessity of combining behavioral tools with institutional solutions and sustainable policies.

Keywords: Financial literay, behavioral economics, cognitive biases.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh hệ thống tài chính ngày càng phức tạp và số lượng sản phẩm tài chính ngày càng đa dạng, người tiêu dùng thường gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định hợp lý và tối ưu. Các nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực kinh tế học hành vi cho thấy, các thiên lệch nhận thức (cognitive bias) như thiên lệch hiện tại (present bias), chú ý hạn chế (limited attention), hay kế toán tinh thần (mental accounting) có thể làm suy giảm chất lượng ra quyết định tài chính, đặc biệt đối với các nhóm dân cư dễ tổn thương. Việc hiểu rõ và ứng dụng các nguyên lý của kinh tế học hành vi không chỉ giúp cải thiện hành vi tài chính cá nhân, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng trong môi trường kinh tế hiện đại.

Thiên lệch nhận thức là những sai lệch có hệ thống trong quá trình suy nghĩ, khiến con người ra quyết định không hoàn toàn hợp lý, ngay cả khi có đầy đủ thông tin. Những quyết định tài chính thiếu tối ưu hoặc sai lầm của con người thường được lý giải bởi các thiên lệch nhận thức. Tác động của những thiên lệch này có thể được giảm nhẹ thông qua hai hướng tiếp cận chính - tác động đến hành vi của con người và đến môi trường mà trong đó, họ đưa ra các quyết định.

Khi đưa ra các quyết định tài chính, con người thường lựa chọn không tối ưu do các đặc điểm hành vi và thiên lệch nhận thức. Ví dụ, sự chú ý hạn chế khiến họ khó có thể so sánh kỹ lưỡng các hàng hóa, dịch vụ và sản phẩm tài chính thay thế, dẫn đến chi phí vay nợ cao hơn (Bertrand & Morse, 2011). Xu hướng ưu tiên hiện tại: Phần thưởng nhỏ nhưng ngay lập tức sẽ được ưa chuộng hơn phần thưởng lớn hơn trong tương lai - có mối liên hệ tích cực với sự gia tăng nợ hộ gia đình và tình trạng chậm thanh toán các khoản vay (Meier & Sprenger, 2010). Kế toán tinh thần: Việc phân chia thu nhập theo nguồn gốc (lương, thưởng, hoàn tiền…) dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không tối ưu.

Những thiên lệch nhận thức như vậy và các quyết định tài chính không tối ưu liên quan có thể trở nên nghiêm trọng hơn tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân. Ví dụ, nghèo đói và căng thẳng tài chính làm tăng khả năng đưa ra các quyết định “thiển cận” (Haushofer & Fehn, 2014), gia tăng sự thiếu kiên nhẫn và làm giảm năng lực nhận thức (Mani và cộng sự, 1013). Năng lực nhận thức thấp thường liên quan đến sự thiếu kiên nhẫn, sợ rủi ro và dễ mắc lỗi trong việc ước lượng xác suất (Benjamin và cộng sự, 2013). Nói cách khác, trên thị trường tồn tại cả những người tiêu dùng dễ mắc sai lầm và những người ít bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng hành vi đó.

Sự tồn tại của các hành vi bất thường tạo cơ hội cho người bán khai thác để thu lợi - như qua các hình thức đăng ký tự động, thiết kế phí phức tạp, hay làm giảm khả năng nhận biết các dịch vụ mất phí. Càng thu thập được nhiều dữ liệu về người tiêu dùng, người bán càng dễ thực hiện phân biệt đối xử dựa trên đặc điểm hành vi.

Tất cả những điều này tạo ra hiệu ứng hai chiều. Thứ nhất, việc khai thác thiên lệch hành vi gây thiệt hại cho phúc lợi của các nhóm xã hội dễ tổn thương nhất. Thứ hai, suy giảm phúc lợi lại làm tăng căng thẳng, dẫn đến nhiều sai lầm và quyết định tài chính kém hiệu quả hơn nữa, từ đó, tiếp tục làm suy giảm phúc lợi.

Tuy nhiên, tác động tiêu cực của các thiên lệch nhận thức trong quyết định tài chính có thể được giảm nhẹ nhờ kinh tế học hành vi.

2. Tác động đến hành vi

Ảnh hưởng của các thiên lệch nhận thức có thể được giảm bớt thông qua thay đổi hành vi con người nhờ giáo dục tài chính, phát triển văn hóa tài chính, nâng cao sự chú ý và cung cấp công cụ đối phó với các thiên lệch nhận thức. Cụ thể:

Thứ nhất, nâng cao hiểu biết tài chính. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa hiểu biết tài chính và hành vi tài chính lành mạnh. Ví dụ, các thí nghiệm thực địa tại Chile cho thấy, người có mức hiểu biết tài chính cao lựa chọn các tài khoản hưu trí có lợi hơn và ít bị ảnh hưởng bởi hành vi của người xung quanh (Hastings và cộng sự, 2011). Tại Peru, chương trình giáo dục tài chính có ứng dụng nguyên lý của kinh tế học hành vi giúp học viên tăng kiến thức lên 30% và cải thiện khả năng quản lý tài chính lên 18% (OECD, 2018). Người có hiểu biết tài chính cao thường có tiết kiệm và ít bị tổn thương trước các cú sốc tài chính. Tại Nga, nghiên cứu cho thấy hiểu biết tài chính có liên hệ tích cực với việc tham gia thị trường tài chính và tiêu cực với việc sử dụng nguồn vay không chính thức (Klapper và cộng sự, 2013).

Thứ hai, giáo dục thái độ tài chính. Việc có kiến thức tài chính không đồng nghĩa với hành vi tài chính đúng đắn. Một nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy kỹ năng tính toán không cải thiện hành vi tài chính, nhưng lại làm thay đổi thái độ tài chính. Ví dụ như thái độ tích cực với các công cụ tài chính sẽ làm tăng khả năng mở tài khoản tiết kiệm (Carpena & Zia, 2020). Do đó, không chỉ cần cung cấp kiến thức, mà còn định hình thái độ tài chính. Ngoài ra, nên dạy các quy tắc thực hành đơn giản - gọi là nguyên tắc kinh nghiệm (rule of thumb) .

Thứ ba, đơn giản hóa cách truyền đạt thông tin. Do khả năng chú ý của con người có giới hạn, nên hình thức trình bày thông tin đóng vai trò quan trọng. Việc trình bày đơn giản, tăng tính trực quan và hấp dẫn của tài liệu, cũng như tạo ra phản ứng cảm xúc từ người học có thể nâng cao hiệu quả của các chương trình giáo dục tài chính. Tính đơn giản và trực quan có thể đạt được thông qua ngôn ngữ dễ hiểu hơn, sử dụng đồ họa thông tin (infographic), cấu trúc trình bày rõ ràng và thiết kế hợp lý; còn sự hấp dẫn có thể được tăng cường nhờ vào việc sử dụng trình mô phỏng, công cụ thực hành, và các nguyên tắc trò chơi hóa. Các định dạng video thường hấp dẫn người học hơn văn bản và dễ tạo ra phản ứng cảm xúc, từ đó tăng mức độ tham gia và tương tác của người học..

Thứ tư, đúng thời điểm và đúng bối cảnh. Tác động của các chương trình giáo dục tài chính lên hành vi tài chính có xu hướng giảm dần theo thời gian. Một nghiên cứu (Fernandes và cộng sự, 2014) cho thấy sau 10 tháng, hiệu quả của một chương trình đào tạo kéo dài 18 giờ tương đương với hiệu quả của một chương trình 6 giờ được thực hiện gần đây, còn hiệu quả của một chương trình mới chỉ kéo dài 1 giờ tương đương với một chương trình 12 giờ đã được tổ chức cách đó 10 tháng. Do đó, có thể các chương trình đào tạo ngắn nhưng đúng thời điểm, khi người học thực sự cần kiến thức và có thể áp dụng ngay, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn như những chương trình: Đào tạo người vay đang gặp khó khăn trong việc trả nợ, hay đào tạo cho người di cư khi họ cần lựa chọn kênh chuyển tiền về nước (Kaiser và Menkhoff, 2017). Tính kịp thời trong việc cung cấp chương trình giáo dục đặc biệt quan trọng đối với các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.

Thứ năm, phát triển văn hóa tài chính. Do kiến thức tài chính không phải lúc nào cũng dẫn đến hành vi tài chính có trách nhiệm, nên điều quan trọng không chỉ là nâng cao hiểu biết tài chính, mà còn phải hình thành văn hóa tài chính, tức là, các giá trị và niềm tin hỗ trợ hành vi tài chính đúng đắn, đặc biệt là tư duy dài hạn trong lập kế hoạch và tinh thần trách nhiệm.

Nghiên cứu của Falk và cộng sự (2018) chỉ ra rằng các sở thích kinh tế khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Ví dụ, người dân ở các quốc gia có di sản châu Âu thường kiên nhẫn hơn mức trung bình toàn cầu. Trong số các quốc gia dẫn đầu về mức độ sẵn sàng từ bỏ phần thưởng hiện tại để nhận được phần thưởng lớn hơn trong tương lai có Mỹ, Canada, Úc và các nước Tây Âu. Các quốc gia hậu Xô Viết ở Đông Âu nhìn chung khá thiếu kiên nhẫn. Tuy nhiên, người dân cả ở Tây Âu và Đông Âu đều không mấy sẵn lòng chấp nhận rủi ro.

Các quốc gia Đông Á và Nam Á nhìn chung cũng không quá kiên nhẫn, ngoại trừ các quốc gia theo truyền thống Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Người dân ở Trung Đông và Bắc Phi cũng không nổi bật về tính kiên nhẫn, nhưng lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Các quốc gia Nam Mỹ thiếu kiên nhẫn, trong khi mức độ chịu rủi ro, vị tha và tin tưởng ở mức trung bình.

Phân tích mối liên hệ giữa sở thích và các đặc điểm ở cấp độ vi mô cho thấy rằng, đúng như dự đoán của lý thuyết, tính kiên nhẫn góp phần vào việc tích lũy vốn tài chính và vốn con người. Cá nhân càng kiên nhẫn thì càng có xu hướng tiết kiệm và nâng cao trình độ học vấn của mình.

Thứ sáu, cung cấp công cụ đối phó với thiên lệch nhận thức. Để nâng cao kiến thức tài chính cho người dân, việc cung cấp thông tin về sự tồn tại của các thiên lệch nhận thức và đào tạo cách đối phó với chúng đóng vai trò rất quan trọng. Chỉ riêng việc nhận thức được rằng có tồn tại các thiên lệch nhận thức đã có thể giúp hạn chế tác động của chúng khi đưa ra quyết định tài chính. Trong lĩnh vực tiết kiệm, một số công cụ đầy triển vọng giúp hạn chế tác động của thiên lệch nhận thức bao gồm:

Tài khoản tiết kiệm theo mục tiêu: Giúp kích hoạt hiệu ứng "tránh mất mát", khiến cá nhân có xu hướng theo đuổi mục tiêu đã hình dung sẵn trong đầu. Hạn chế tự nguyện: Là những ràng buộc mà người tiết kiệm tự đặt ra trước, cho phép họ kiềm chế chi tiêu tại thời điểm bị cám dỗ, qua đó, giảm thiểu thiên lệch hiện tại và thiếu tự kiểm soát. Trích lập tự động: Giúp đối phó với xu hướng trì hoãn và thiên lệch hiện tại khi cần chuyển tiền vào tài khoản tiết kiệm. “Thuế” tiêu dùng tự nguyện: Theo đó, người dùng tự áp dụng một khoản trích % từ mỗi lần mua sắm vào một tài khoản tiết kiệm riêng biệt. Hệ thống nhắc nhở: Qua đó người dùng có thể đăng ký nhận thông báo qua tin nhắn hoặc email để khắc phục tình trạng thiếu chú ý hoặc quên lãng.

Trong lĩnh vực tiêu dùng, các công cụ hữu ích bao gồm: Quản lý thu chi, thiết lập hạn mức chi tiêu, đặt mục tiêu tài chính và cam kết công khai việc thực hiện mục tiêu. Trong lĩnh vực tín dụng, nên cung cấp công cụ thiết lập thanh toán khoản vay tự động và trích lập tự động vào tài khoản trả nợ. Mỗi công cụ đều có thể được cải tiến dựa trên kinh tế học hành vi và thực nghiệm. Ví dụ, một nghiên cứu tại Kenya cho thấy nhắc nhở trả nợ vào buổi tối hiệu quả hơn 8% so với buổi sáng (OECD, 2017).

3. Thay đổi môi trường ra quyết định

Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin.

“Cú hích” và cấu trúc lựa chọn

Nếu như các chính sách quản lý truyền thống dựa trên cấm đoán, thuế và trợ cấp được coi là biểu hiện điển hình của chủ nghĩa gia trưởng cứng rắn, thì khái niệm “Cú hích” do Richard Thaler - người đặt nền móng cho kinh tế học hành vi và luật gia Cass Sunstein phát triển, lại gắn liền với chủ nghĩa gia trưởng mềm. Theo đó, con người vẫn giữ quyền tự do lựa chọn, nhưng môi trường lựa chọn được thiết kế để hướng họ đến các hành vi tài chính khôn ngoan hơn.

Các lựa chọn mặc định như vậy được đánh giá là có tác động mạnh nhất trong số các công cụ “thúc đẩy” hành vi - theo kết luận của các nhà tâm lý học tại Đại học Geneva sau khi tiến hành phân tích tổng hợp hơn 200 nghiên cứu về 9 loại công cụ thúc đẩy khác nhau. Và theo một thí nghiệm thực địa tại Afghanistan do các nhà kinh tế đến từ Đại học California và Đại học Washington thực hiện (Blumenstock và cộng sự, 2018), hiệu quả của lựa chọn mặc định trong việc khuyến khích hành vi tiết kiệm tương đương với việc nhà tuyển dụng thưởng thêm 50% vào khoản tiết kiệm. Trong thí nghiệm, 949 nhân viên của nhà mạng lớn nhất tại Afghanistan được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: Một nhóm được tự động trích 5% lương vào tài khoản tiết kiệm, nhóm còn lại không có khoản trích tự động nào; đồng thời, mỗi nhân viên cũng được lựa chọn ngẫu nhiên để nhận hoặc không nhận tiền thưởng từ công ty, tương đương 25% hoặc 50% trên số tiền được trích để tiết kiệm (nếu có). Việc thiết lập “tùy chọn mặc định” - tự động trích lương để tiết kiệm không chỉ có tác động trong thời gian thí nghiệm, mà còn tạo ra ảnh hưởng lâu dài đến hành vi tiết kiệm của người lao động. Sau khi kết thúc thí nghiệm kéo dài nửa năm, các nhà nghiên cứu đã hỏi những người tham gia rằng họ có muốn tiếp tục trích một phần lương vào tài khoản tiết kiệm hay không. Kết quả có 45% nhân viên đã đồng ý tiếp tục tiết kiệm; đồng thời, tỉ lệ tham gia vào chương trình tiết kiệm tiếp theo cao hơn 25% ở nhóm nhân viên ban đầu được tự động trích một phần lương để tiết kiệm theo mặc định.

Biện pháp quản lý

Nhiều quốc gia như Úc, Canada, Mỹ, Anh và các nước EU đang thực hiện các biện pháp quản lý nhằm hạn chế doanh nghiệp lợi dụng các thiên lệch hành vi của người tiêu dùng. Có thể chia các biện pháp này thành ba nhóm chính: (i) Quy định về cung cấp thông tin cho người tiêu dùng; (ii) Quy định về quy trình mua hàng trực tuyến; (iii) Quy định về thực tiễn định giá sản phẩm.

Khả năng ra quyết định kinh tế tối ưu của người tiêu dùng suy giảm rõ rệt khi họ phải đối mặt với thông tin phức tạp, không đồng nhất và thiếu minh bạch. Vì vậy, các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng cần tập trung vào đơn giản hóa việc tiếp cận dữ liệu quan trọng, tăng khả năng so sánh giữa các sản phẩm và dịch vụ tương tự, cũng như nâng cao tính minh bạch của thông tin.

Ví dụ, tại New Zealand, một nhóm các nhà kinh tế học hành vi đã đề xuất sáu nguyên tắc công bố thông tin đối với các sản phẩm tài chính (Johnston và cộng sự, 2015): (i) Ngắn gọn và đơn giản; (ii) Chuẩn hóa nội dung thông tin được cung cấp; (iii) Diễn giải rõ ràng rủi ro và lợi ích của sản phẩm; (iv) Thông tin phải thực sự có ý nghĩa với người tiêu dùng; (v) Trình bày trực quan bằng đồ thị và hình ảnh minh họa; (vi) Thử nghiệm trước các hình thức công bố thông tin trước khi áp dụng đại trà. Việc thực hiện những nguyên tắc này giúp giảm tác động của các thiên lệch nhận thức, đồng thời, giúp đánh giá hiệu quả các phương án thay đổi trước khi được triển khai trên diện rộng.

Các thí nghiệm thực địa xác nhận tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin minh bạch cho người tiêu dùng dịch vụ tài chính. Sự dễ dàng và nhanh chóng của việc mua sắm trực tuyến khiến người tiêu dùng đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi các thiên lệch nhận thức trong môi trường số (Faraz & Anjum, 2025). Để bảo vệ người tiêu dùng, có thể áp dụng “thời gian suy nghĩ lại” đối với các giao dịch mua bán từ xa, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Tại Liên minh châu Âu, người tiêu dùng có quyền hủy bỏ hợp đồng trong vòng 14 ngày mà không bị phạt và không cần đưa ra lý do (European Union, 2002). Ngoài ra, EU cũng đã ban hành một chỉ thị cấm việc đánh dấu sẵn các ô chọn thêm dịch vụ mất phí trong quá trình mua hàng trực tuyến, đồng thời, đảm bảo quyền hoàn lại các khoản thanh toán không tự nguyện cho người tiêu dùng (European Union, 2011).

Một lĩnh vực quan trọng khác trong điều tiết hành vi là giới hạn các hình thức định giá lợi dụng thiên lệch nhận thức của người tiêu dùng. Một ví dụ điển hình là “định giá nhỏ giọt”, trong đó, người tiêu dùng chỉ thấy một phần giá ban đầu, còn các khoản phụ phí được thêm vào ở các bước sau, khiến giá cuối cùng cao hơn nhiều so với giá được hiển thị lúc đầu. Hình thức này làm cho việc so sánh giữa các sản phẩm/dịch vụ tương đương trở nên khó khăn, vì đòi hỏi nhiều thời gian và công sức nhận thức. Ngoài ra, khi quá trình mua đã bắt đầu, hiệu ứng sở hữu có thể xuất hiện - khiến người tiêu dùng có cảm giác “mình đã sở hữu” sản phẩm, từ đó, khó từ bỏ lựa chọn ban đầu dù còn có phương án tốt hơn, nhưng cần thêm nỗ lực tìm kiếm (Kahneman và cộng sự, 1990).

Một nghiên cứu tại Vương quốc Anh đã chỉ ra rằng, hình thức "định giá nhỏ giọt" gây tổn hại lớn nhất đối với phúc lợi tài chính của người tiêu dùng (OECD, 2017).

4. Hạn chế và rủi ro

Mặc dù các khái niệm của kinh tế học hành vi có tiềm năng lớn trong việc thúc đẩy hành vi tài chính đúng đắn, cách tiếp cận này vẫn tồn tại một số hạn chế và rủi ro kèm theo.

Rủi ro đạo đức: Trong những năm gần đây, các vấn đề đạo đức liên quan đến việc “cú hích” ngày càng được thảo luận nhiều hơn. Thứ nhất, luôn tồn tại nguy cơ việc “thúc đẩy” đến hành vi “đúng đắn” thực chất là hành vi thao túng, phục vụ lợi ích của một bên thứ ba. Thứ hai, quá trình thúc đẩy có thể làm gia tăng chủ nghĩa gia trưởng khi người tiêu dùng mất dần cảm giác trách nhiệm cá nhân đối với quyết định của mình, từ đó, kích hoạt chuỗi hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế. Thứ ba, chính các nhà hoạch định chính sách cũng có thể mắc thiên lệch nhận thức, khiến những can thiệp hành vi mang lại hệ quả không mong muốn.

Tác động không đồng đều: Các thiên lệch hành vi thường gắn liền với đặc điểm cá nhân, như năng lực nhận thức hoặc trải nghiệm sống. Do đó, khó có thể thiết kế một giải pháp hành vi phổ quát hiệu quả với tất cả các nhóm dân cư. Điều này đòi hỏi phải xây dựng các công cụ hành vi phù hợp riêng cho từng nhóm đối tượng; đồng thời phải tính đến tác động tiêu cực có thể phát sinh đối với những nhóm không phải là đối tượng chính của can thiệp.

Cần thiết phải thử nghiệm trước khi triển khai: Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm hành vi ở các lĩnh vực khác nhau được thực hiện trên toàn cầu, cần lưu ý rằng, một can thiệp hành vi hiệu quả ở nước này không bảo đảm sẽ hiệu quả ở nước khác. Việc dựa vào kết quả các thí nghiệm được mô tả trong các nghiên cứu cũng cần thận trọng do hiện tượng thiên lệch công bố. Các tạp chí học thuật thường có xu hướng ưu tiên công bố những nghiên cứu cho thấy hiệu ứng lớn và có ý nghĩa thống kê - điều này có thể dẫn đến việc kỳ vọng quá mức vào hiệu quả của các can thiệp hành vi.

Nguy cơ xem nhẹ các vấn đề cơ bản: Cuối cùng, tập trung vào các công cụ kinh tế hành vi không nên làm lu mờ vai trò của việc giải quyết các vấn đề căn bản hơn như: Mức thu nhập thấp; môi trường thể chế yếu kém; những bất cập trong hệ thống pháp lý và giám sát; việc sử dụng các công cụ hành vi nên đóng vai trò bổ trợ, chứ không thể thay thế cho các biện pháp giải quyết các vấn đề cấu trúc của nền kinh tế và xã hội.

5. Kết luận

Kinh tế học hành vi mang đến những công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy hành vi tài chính đúng đắn thông qua việc điều chỉnh hành vi cá nhân và tái thiết kế môi trường ra quyết định. Tuy nhiên, để các can thiệp hành vi phát huy hiệu quả thực sự, cần có sự thiết kế chính sách cẩn trọng, phù hợp với từng nhóm đối tượng và bối cảnh cụ thể. Đồng thời, các biện pháp hành vi không thể thay thế cho các giải pháp căn bản như nâng cao thu nhập, cải thiện thể chế và hoàn thiện hệ thống pháp lý. Do đó, việc kết hợp giữa công cụ hành vi và chính sách kinh tế - xã hội toàn diện là hướng đi cần thiết nhằm thúc đẩy hiểu biết tài chính và nâng cao phúc lợi bền vững cho người dân.

Tài liệu tham khảo:

1. Bertrand, M., & Morse, A. (2011), Information disclosure, cognitive biases and payday borrowing. The Journal of Finance, 66(6), pages 1865 - 1893. https://doi.org/10.1111/j.1540-6261.2011.01698.x

2. Benjamin, D. J., Brown, S. A., & Shapiro, J. M. (2013), Who is “behavioral”? Cognitive ability and anomalous preferences. Journal of the European Economic Association, 11(6), pages 1231 - 1255. https://www.jstor.org/stable/24538782

3. Blumenstock, J., Callen, M., & Ghani, T. (2018), Why do defaults affect behavior? Experimental evidence from Afghanistan. American Economic Review, 108(10), pages 2868 - 2901. https://doi.org/10.1257/aer.20171676

4. Carpena, F., & Zia, B. (2020), The causal mechanism of financial education: Evidence from mediation analysis. Journal of Economic Behavior & Organization, 177, pages 818 - 839. https://doi.org/10.1016/j.jebo.2020.05.001

5. European Union (2002), Directive 2002/65/EC of the European Parliament and of the Council of 23 September 2002 concerning the distance marketing of consumer financial services. https://eur-lex.europa.eu/eli/dir/2002/65/oj/eng

6. European Union (2011), Directive 2011/83/EU of the European Parliament and of the Council of 25 October 2011 on consumer rights. https://eur-lex.europa.eu/eli/dir/2011/83/oj/eng

7. Falk, A., Becker, A., Dohmen, T., Enke, B., Huffman, D., & Sunde, U. (2018), Global evidence on economic preferences. The Quarterly Journal of Economics, 133(4), pages 1645 - 1692. https://doi.org/10.1093/qje/qjy013

8. Fernandes, D., Lynch, J. G., Jr., & Netemeyer, R. G. (2014), Financial literacy, financial education, and downstream financial behaviors. Management Science, 60(8), pages 1861 - 1883. https://doi.org/10.1287/mnsc.2013.1849

9. Hastings, J., Mitchell, O. S., & Chyn, E. (2011), Fees, framing, and financial literacy in the choice of pension manager. In O. S. Mitchell & A. Lusardi (Eds.), Financial literacy: Implications for retirement security and the financial marketplace, pages 10 - 115. Oxford University Press.

10. Haushofer, J., & Fehr, E. (2014), On the psychology of poverty. Science, 344(6186), pages 862 - 867. https://doi.org/10.1126/science.1232491

11. Johnston, K., Tether, C., & Tomlinson, A. (2015), Financial product disclosure: Insights from behavioural economics (Occasional Paper 15/01). Ministry of Business, Innovation & Employment.

12. Kahneman, D., Knetsch, J. L., & Thaler, R. H. (1990), Experimental tests of the endowment effect and the Coase theorem. Journal of Political Economy, 98(6), pages 1325 - 1348. https://web.mit.edu/curhan/www/docs/Articles/15341_Readings/Behavioral_Decision_Theory/Kahneman_et_al_1990_Experimental_tests.pdf

13. Kaiser, T., & Menkhoff, L. (2017), Does financial education impact financial literacy and financial behavior, and if so, when? The World Bank Economic Review, 31(3), pages 611 - 630. https://doi.org/10.1093/wber/lhx018

14. Klapper, L., Lusardi, A., & Panos, G. A. (2013), Financial literacy and its consequences: Evidence from Russia during the financial crisis. Journal of Banking & Finance, 37(10), pages 3904 - 3923. https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.07.014

15. Mani, A., Mullainathan, S., Shafir, E., & Zhao, J. (2013), Poverty impedes cognitive function. Science, 341(6149), pages 976 - 980. https://doi.org/10.1126/science.1238041

16. Meier, S., & Sprenger, C. (2010), Present-biased preferences and credit card borrowing. American Economic Journal: Applied Economics, 2(1), pages 193 - 210. https://doi.org/10.1257/app.2.1.193

17. Naeem, F., & Amna, A. (2025), Spendception: The psychological impact of digital payments on consumer purchase behavior and impulse buying. Behavioral Sciences, 15(3). https://doi.org/10.3390/bs15030387

18. OECD (2017), Behavioural insights and public policy: Lessons from around the world. OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/9789264270480-en

19. OECD (2018), The application of behavioural insights to financial literacy and investor education programmes and initiatives. OECD Publishing. https://doi.org/10.1787/0b5f985d-en

20. Thaler, R., & Benartzi, S. (2004), Save more tomorrow™: Using behavioral economics to increase employee saving. Journal of Political Economy, 112(S1), S164 - S187. https://doi.org/10.1086/380085

21. Thaler, R., & Sunstein, C. R. (2021), Nudge: The final edition. Penguin Books.

TS. Nguyễn Đình Trung và TS. Lê Thị Phương
Trường Đại học Hòa Bình

Tin bài khác

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Đề án nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ là một dấu mốc kỹ thuật trong phân loại quốc tế, mà còn góp phần tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản ổn định, nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết, củng cố năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng, đồng thời cải thiện vị thế và hình ảnh quốc gia trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục tài chính là rất cần thiết nhằm nâng cao dân trí tài chính, giúp người dân hiểu rõ hơn về các kiến thức liên quan, tiếp cận công cụ tài chính an toàn, quản lý tài chính cá nhân hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ tín dụng đen và các hình thức lừa đảo, đặc biệt là lừa đảo trực tuyến.
Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một mô hình quản trị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Giang, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính minh bạch, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Kinh nghiệm quản trị dòng tiền của một số tập đoàn lớn trên thế giới và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam

Tại Việt Nam, hầu hết doanh nghiệp vẫn đối mặt với thách thức về dự báo dòng tiền và quản lý vốn lưu động, dẫn đến áp lực về thanh toán và chi phí vốn cao. Do đó, việc học tập kinh nghiệm quản trị dòng tiền của các doanh nghiệp lớn trên thế giới là điều cần thiết giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao hiệu quả sử dụng dòng tiền, góp phần cải thiện năng lực tài chính và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Ảnh hưởng của hiểu biết tài chính số đến hành vi tiết kiệm của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển không ngừng của công nghệ, tài chính số đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tài chính toàn diện - với mục tiêu bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chất lượng và chi phí phải chăng, đang ngày càng được quan tâm trên toàn thế giới. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được tài chính toàn diện là hiểu biết tài chính số, giúp người dân có thể tận dụng các công cụ và dịch vụ tài chính hiện đại một cách hiệu quả.
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô