Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới

Hoạt động ngân hàng
Quỹ tín dụng nhân dân là mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Bài viết phân tích bối cảnh ảnh hưởng và nêu bật yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân. Trên cơ sở đánh giá những bất cập hiện nay, bài viết đề xuất thu hẹp số lượng quỹ, tăng quy mô hoạt động và xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2045.
aa

Tóm tắt: Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là một mô hình kinh tế hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của một số bộ phận chủ chốt và chức năng, nhiệm vụ của QTDND đã được quy định rất rõ tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và các thông tư hướng dẫn Luật. Bài viết phân tích bối cảnh chung tác động đến hoạt động của các QTDND, yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống QTDND với cách tiếp cận là phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong hoạt động của hệ thống QTDND hiện nay, trên cơ sở đó, đề xuất định hướng tái cấu trúc hệ thống QTDND bằng sự thu hẹp số lượng quỹ tín dụng và tăng quy mô hoạt động của một số QTDND, đồng thời, gợi ý xây dựng chiến lược tầm nhìn đến năm 2045 để thực hiện quá trình tái cấu trúc này.

Từ khóa: QTDND, mô hình kinh tế hợp tác, tái cấu trúc.

ORIENTATION FOR RESTRUCTURING THE PEOPLE’S CREDIT FUND SYSTEM IN THE NEW CONTEXT

Abtracts: According to the provisions of the Law on Credit Institutions 2024, People’s Credit Fund is a cooperative economic model operating in the monetary and banking sector. The organizational structure, operations of a number of key departments and the functions, tasks of People’s Credit Fund have been clearly stipulated in the Law on Credit Institutions 2024 and the guiding the Law. The article analyzes the general context affecting the operations of People’s Credit Funds, the urgent need to restructure People’s Credit Fund system with the approach of analyzing and evaluating the limitations and shortcomings in the operations of the current People’s Credit Fund system. On that basis the author, proposes the orientation of restructuring People’s Credit Fund system by reducing the number of credit funds and increasing the scale of operations of a number of People’s Credit Funds, simultaneously, suggesting the development of a vision strategy to 2045 to implement this restructuring process.

Keywords: The People's Credit Fund, cooperative economic model, restructuring.

1. Bối cảnh chung tác động đến hoạt động của các QTDND

Hiện nay, cả nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh và thịnh vượng của dân tộc, từ bộ máy hành chính Nhà nước đến sự vận hành của nền kinh tế đã có sự cải cách mạnh mẽ, nhanh chóng: Cơ cấu tổ chức, nhân sự của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan quản lý nhà nước đã thay đổi theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, lựa chọn những người tài, người tâm huyết cho bộ máy công quyền. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư đã có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống, kinh tế - xã hội. Các ngân hàng thương mại (NHTM) đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào đổi mới quản trị, điều hành và sản phẩm, dịch vụ, làm thay đổi cơ bản các hình thức cung ứng dịch vụ ngân hàng truyền thống. Nhiều công nghệ tiên tiến được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng như: Trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML), điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT) để đánh giá, phân loại khách hàng; quyết định giải ngân hay giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian giao dịch. Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ số, các NHTM còn hợp tác với các công ty công nghệ tài chính (Fintech) để nâng cấp các quy trình, nghiệp vụ, cung ứng sản phẩm, dịch vụ tiên tiến, giúp ngân hàng chuyển đổi sang mô hình kinh doanh mới, tích hợp công nghệ theo hướng tự động, thông minh, có thể tiến hành kinh doanh, cung ứng sản phẩm, dịch vụ dễ dàng trên nền tảng số, khai thác dữ liệu hiệu quả. Công nghệ số đã hỗ trợ ngân hàng có độ bao phủ rộng hơn, tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp khách hàng tiếp cận dịch vụ dễ dàng hơn, không cần phải đến điểm giao dịch ngân hàng mà có thể truy cập dữ liệu, chuyển tiền thông qua các thiết bị di động. Để ứng dụng công nghệ số đòi hỏi các NHTM và công ty Fintech phải đầu tư lớn nguồn lực, đồng thời, môi trường pháp lý phải có nhiều thay đổi để hỗ trợ cho việc ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Những thay đổi nêu trên đã tác động không nhỏ đến hoạt động của hệ thống QTDND, đòi hỏi các QTDND phải có bước chuyển mình mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Từ đòi hỏi thực tế khách quan đó, việc tái cơ cấu hệ thống QTDND để thích ứng và phát triển trong môi trường mới là rất cần thiết. Vấn đề đặt ra là tái cấu trúc hệ thống QTDND theo hướng nào là phù hợp và đạt được mục tiêu thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng hợp tác phát triển an toàn, hiệu quả, đúng tôn chỉ mục đích.

2. Yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống QTDND

Tính đến ngày 31/12/2024, hệ thống QTDND có 1.178 quỹ, được phân bố trên 58 tỉnh, thành phố của cả nước, với tổng tài sản là 194.421 tỉ đồng; tổng dư nợ là 138.723 tỉ đồng, chiếm 0,88% dư nợ toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy chiếm thị phần nhỏ, nhưng hoạt động của QTDND góp phần bao phủ thị trường, tăng khả năng tiếp cận thị trường cho các đối tượng ở nông thôn và góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương, xóa đói, giảm nghèo.

Điểm giống nhau của các QTDND đó là hoạt động phục vụ lợi ích thành viên, các khoản tín dụng cung cấp chủ yếu là cho vay thành viên, chiếm khoảng 95 - 99% tổng dư nợ. Kết hợp giữa đặc điểm giới hạn về địa bàn hoạt động và tính chất các khoản vay chủ yếu là cho vay ngắn hạn với giá trị nhỏ, nên thủ tục cho vay tại các QTDND thường đơn giản hơn, giải quyết nhanh, tỉ lệ nợ xấu thấp. Về cơ cấu huy động vốn, khoảng 50 - 75% vốn huy động từ thành viên, còn lại là huy động ngoài thành viên. Về hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu Đề tài: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các QTDND Việt Nam” (mã số: ĐTNH.006/20), thì phần lớn hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ của các QTDND còn nhiều hạn chế, bất cập xuất phát từ sự ít quan tâm của lãnh đạo đến hệ thống kiểm soát nội bộ, tiếp đến là thiếu nguồn nhân lực, không ít quỹ cán bộ tín dụng và thẩm định là một người làm. Những quỹ tín dụng có quy mô nhỏ với tổng tài sản dưới 100 tỉ đồng thì nguồn nhân lực càng khó khăn để sắp xếp đủ bộ máy trong hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ, đảm bảo sự phân công, phân nhiệm theo nguyên tắc “bảo đảm một quy trình nghiệp vụ phải có ít nhất 02 cán bộ tham gia, một người thực hiện giao dịch và một người kiểm soát giao dịch, không có cá nhân nào có thể một mình thực hiện và quyết định một quy trình nghiệp vụ”, “tránh xung đột lợi ích”, “bảo đảm một cán bộ không đảm nhiệm cùng một lúc những cương vị, nhiệm vụ có mục đích, quyền lợi mâu thuẫn hoặc chồng chéo với nhau”.

Trong hệ thống QTDND, điểm khác biệt giữa các quỹ là địa bàn hoạt động, quy mô, chất lượng nguồn nhân lực và sự hiểu biết pháp luật không đồng đều. Cụ thể:

- Về quy mô hoạt động: Đa số QTDND có quy mô hoạt động nhỏ và vừa (Hình 1). Trong tổng số 1.178 QTDND, tính đến ngày 31/12/2024, có 32% QTDND có quy mô tài sản dưới 100 tỉ đồng; 42% QTDND có quy mô tài sản từ 100 đến dưới 200 tỉ đồng; 24% QTDND có quy mô tài sản từ 200 đến dưới 500 tỉ đồng; chỉ có 2% QTDND có quy mô tài sản trên 500 tỉ đồng, trong đó có 3 QTDND tổng tài sản trên 1.000 tỉ đồng.

- Về địa bàn hoạt động: Theo quy định, QTDND hoạt động chủ yếu trên địa bàn một phường, một xã, hoặc có thể mở rộng phạm vi hoạt động ở các phường, xã liền kề với trụ sở làm việc của QTDND khi đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về QTDND. Với đặc điểm về địa giới hoạt động, các QTDND thường huy động và cho vay tại chỗ, qua đó, tạo thế mạnh cho QTDND do có điều kiện nắm bắt rõ thông tin và am hiểu về khách hàng của mình hơn.

- Về chất lượng nguồn nhân lực: Nhìn chung, cán bộ chủ chốt hoặc cán bộ nghiệp vụ của QTDND nắm vững cơ chế chính sách, nghiệp vụ, đáp ứng đúng quy định về bằng cấp của nhà nước; tuy nhiên, hiểu biết về pháp luật của cán bộ các QTDND nhìn chung không đồng đều, không ít nhân sự không chủ động rà soát cơ chế, chính sách, một số cán bộ tín dụng, kế toán chưa nắm chắc quy trình nghiệp vụ của mình... Nhận định này cũng được minh chứng tại Đề tài “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các QTDND Việt Nam”.

Về mặt lý luận, đối với doanh nghiệp hoạt động ở bất cứ lĩnh vực nào, muốn hoạt động có hiệu quả phải tối ưu hóa được quy trình quản lý và nghiệp vụ; quản lý tài chính hiệu quả, như dự báo nhu cầu tài chính trong tương lai, quản lý sát sao dòng tiền...; người lãnh đạo phải có tầm nhìn chiến lược, khả năng ra quyết định nhanh chóng, tạo môi trường làm việc tích cực, khuyến khích hợp tác giao tiếp và đổi mới sáng tạo của cấp dưới; có khả năng phân tích thị trường, đối thủ cạnh tranh và có chính sách chăm sóc khách hàng tốt; quản lý nhân sự tốt từ khâu tuyển dụng đến phân công vị trí công việc; khuyến khích, động viên cán bộ làm việc tích cực; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quy trình quản lý và sản xuất, kinh doanh; quản trị rủi ro tốt, như xây dựng được chiến lược dự phòng (kế hoạch đối phó với các tình huống khẩn cấp, khủng hoảng để giảm thiểu tổn thất, duy trì hoạt động của doanh nghiệp), bảo đảm bảo mật thông tin doanh nghiệp và khách hàng, tránh các sự cố bảo mật có thể ảnh hưởng đến uy tín và tài chính.

3. Đề xuất định hướng tái cấu trúc hệ thống QTDND

Từ lý luận và thực tiễn hoạt động của hệ thống QTDND như đề cập trên, để đạt được mục tiêu đặt ra thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng hợp tác phát triển an toàn, hiệu quả, đúng tôn chỉ mục đích, tác giả bài viết đề xuất định hướng tái cấu trúc hệ thống QTDND như sau:

Tái cấu trúc hệ thống QTDND là hướng tới việc sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của các QTDND để góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và hình thành hệ thống các QTDND có sức mạnh tài chính thực sự, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, quản trị tốt; theo đó, đến năm 2035 và những năm tiếp theo, bên cạnh việc tiếp tục củng cố bộ máy hoạt động của QTDND theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành của lãnh đạo quỹ, năng lực nghiệp vụ của cán bộ và nâng cao đạo đức nghề nghiệp, thì vấn đề quan trọng có tính quyết định bảo đảm sự thành công cho định hướng tái cấu trúc nêu trên, đó là cần thu hẹp số lượng quỹ tín dụng và tăng quy mô hoạt động của mỗi quỹ tín dụng.

Cơ sở của việc đưa ra định hướng này xuất phát từ bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội đang trong giai đoạn tái cơ cấu quốc gia, thay đổi địa giới hành chính cấp xã, phường; chuyển đổi số mạnh mẽ tạo sức cạnh tranh quyết liệt trên thị trường tài chính, tiền tệ và những tồn tại, hạn chế trong hoạt động của các QTDND như đã đề cập ở trên. Với số lượng QTDND lớn như hiện nay, quy mô hoạt động, năng lực quản trị, chất lượng cán bộ... không đồng đều giữa các quỹ là thách thức rất lớn đối với Ngân hàng Hợp tác xã khi thực hiện vai trò là “Ngân hàng của các QTDND”. Thực tế trong thời gian qua, các QTDND rơi vào kiểm soát đặc biệt phần lớn là những quỹ có quy mô nhỏ, theo đó số lượng nhân sự ít, không đủ sắp xếp bộ máy hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.

Kinh nghiệm tái cơ cấu Tập đoàn Desjardins là một bài học để chúng ta suy nghĩ và hành động theo định hướng nêu trên (xem hộp 11: Tái cơ cấu Tập đoàn Desjardins).

Hộp 1: Tái cơ cấu Tập đoàn Desjardins (viết tắt là Tập đoàn)

Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới

Để thực hiện định hướng trên không phải là đơn giản mà rất khó khăn, phức tạp. Vấn đề khó nhất khi thực hiện định hướng này, đó là nguồn lực tài chính để hỗ trợ cho QTDND được sáp nhập, nguồn lực tài chính để Ngân hàng Hợp tác xã có thể tham gia và hỗ trợ các QTDND thực hiện quá trình sáp nhập, tạo ra những lợi ích vượt trội cho các quỹ khi thực hiện sáp nhập; tiếp đến là sự đồng thuận và tự nguyện sáp nhập của các QTDND, vì các quỹ là những chủ thể độc lập về tài chính.

Bên cạnh đó, để bảo đảm cho hệ thống QTDND hoạt động ổn định, an toàn và phát triển bền vững, cần tiếp tục triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước liên quan tới hoạt động của QTDND; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm tra theo chuyên đề, kịp thời cảnh báo, chấn chỉnh, xử lý nghiêm đối với các QTDND có vi phạm thể lệ, chế độ, kiểm tra việc khắc phục tồn tại, sai phạm theo các kết luận thanh tra, kiểm tra.

Đồng thời, các QTDND xây dựng tốt phương án củng cố và phát triển QTDND; trong đó, tập trung nâng cao năng lực quản trị điều hành của QTDND đặc biệt là hệ thống kiểm soát nội bộ; nâng cao năng lực tài chính và chất lượng tín dụng; tăng trưởng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng hoạt động nhất là chất lượng tín dụng; tiếp tục củng cố và nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả của QTDND hiện có, bảo đảm các QTDND hoạt động trên nguyên tắc tự chủ, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên.

Về lâu dài, NHNN cần xây dựng Chiến lược tái cấu trúc hệ thống QTDND tầm nhìn đến năm 2045 nhằm củng cố vững chắc mô hình các tổ chức tín dụng hợp tác theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.

1 Bài thu hoạch từ đợt học tập khảo sát tại Tập đoàn Desjardins Canada, tháng 10/2024.

Tài liệu tham khảo:

1. Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ: “Quản trị QTDND - Thực trạng và đề xuất chính sách nhằm đảm bảo hệ thống QTDND hoạt động an toàn, ổn định, phù hợp với thông lệ quốc tế”. Mã số: ĐTN.003/22.

2. Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các QTDND Việt Nam”. Mã số: ĐTNH.006/20.

3. Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

4. Hạ Thị Thiều Dao (2012), Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Năm năm 2012, xu hướng năm 2013, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 186.

5. TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia (12/11/2023), Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Cơ hội, thực trạng và giải pháp - Tạp chí điện tử Thị trường Tài chính Tiền tệ.

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh
Phó Tổng Thư ký Hiệp hội QTDND

Tin bài khác

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Nghiên cứu này đã phân tích mối quan hệ giữa áp dụng ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2024. Kết quả cho thấy hiệu quả ESG tổng thể có mối liên hệ tích cực mạnh mẽ và ngày càng tăng cường với hiệu quả tài chính. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa ESG và hiệu quả tài chính gia tăng đáng kể theo thời gian, với bước ngoặt rõ rệt trong giai đoạn 2022 - 2024. Những phát hiện này đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu về ngân hàng bền vững tại các thị trường mới nổi Đông Nam Á và đưa ra những hàm ý thực tiễn có giá trị cho các bên liên quan trong ngành Ngân hàng Việt Nam. Khi Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu và cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, tầm quan trọng của các thực hành tài chính bền vững dự kiến sẽ ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Chuyển đổi số và thực hành ESG: “Tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp và ngân hàng phát triển bền vững trên thị trường quốc tế

Chuyển đổi số và thực hành ESG: “Tấm hộ chiếu” giúp doanh nghiệp và ngân hàng phát triển bền vững trên thị trường quốc tế

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, với sự bùng nổ mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp cũng đang chuyển mình mạnh mẽ dựa trên nhiều giải pháp số và thực hành ESG (môi trường, xã hội, quản trị) để đáp ứng biến động không ngừng của xã hội. Đây cũng là nội dung trao đổi xuyên suốt tại Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi số và thực hành ESG - Chìa khóa hướng tới hội nhập kinh tế toàn cầu” do Báo Dân trí tổ chức sáng 24/6/2025.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Báo chí với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Báo chí với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

Chất lượng thông tin kinh tế trên báo chí không chỉ phản ánh chính sách và thực tiễn kinh tế mà còn thể hiện vai trò, hiệu quả của báo chí và môi trường đầu tư. Cùng với đó, hợp tác chặt chẽ với báo chí giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời đại công nghệ số.
Báo chí đồng hành cùng ngành Ngân hàng Việt Nam  vì sự phát triển bền vững

Báo chí đồng hành cùng ngành Ngân hàng Việt Nam vì sự phát triển bền vững

Trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển ngành Ngân hàng, báo chí phản ánh tiếng nói của ngành Ngân hàng, lan tỏa mô hình tốt, kịp thời đưa những khó khăn, vướng mắc đến các cơ quan chức năng để từ đó thúc đẩy chính sách đi vào cuộc sống. Đặc biệt, ở kỷ nguyên số ngày nay, báo chí không chỉ thực hiện chức năng truyền tin mà còn đồng hành, kiến tạo niềm tin, kết nối các giá trị giữa ngành Ngân hàng, Nhà nước và xã hội. Báo chí tiếp tục giữ vững tôn chỉ, đạo đức và trách nhiệm xã hội, luôn đứng cùng sự thật, đồng hành cùng ngành Ngân hàng, vì sự hưng thịnh của quốc gia - dân tộc.
Xem thêm
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Góc độ pháp lý về rào cản của thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp

Thủ tục thông báo tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh năm 2018, dù đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng lại đang tạo ra những rào cản đáng kể cho doanh nghiệp do thời gian thẩm định kéo dài, yêu cầu hồ sơ phức tạp, đòi hỏi nhiều tài liệu chuyên sâu như mô tả giao dịch và phân tích thị trường. Những yếu tố này không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ, rủi ro pháp lý, nguy cơ rò rỉ thông tin, mà còn cản trở doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Kinh nghiệm thế giới về sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phát triển các sản phẩm tài chính mới gắn với tín chỉ các-bon là chiến lược then chốt để thu hút dòng vốn tư nhân vào lĩnh vực giảm phát thải. Các sản phẩm như trái phiếu xanh được gắn với việc phát hành hoặc mua tín chỉ các-bon có thể tạo ra các dòng tiền ổn định và hấp dẫn cho nhà đầu tư bền vững (Asian Development Bank, 2019). Các khoản vay xanh thế chấp bằng tín chỉ các-bon cho phép doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn nếu cam kết tạo ra lượng giảm phát thải xác thực. Việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính gắn với tín chỉ các-bon không chỉ tạo thêm động lực kinh tế cho các dự án xanh mà còn giúp thị trường các-bon phát triển theo hướng tích hợp sâu rộng với hệ sinh thái tài chính quốc gia.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động, thích ứng với tình hình mới

Sáng 09/7/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025. Tham dự Hội nghị có Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng và các đồng chí trong Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc NHNN, các ngân hàng thương mại (NHTM) và điểm cầu trực tuyến tới NHNN các khu vực trên cả nước.
Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng và một số gợi mở về mặt pháp lý

Việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm trong hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ mở ra một hướng tiếp cận vốn mới cho các doanh nghiệp xanh, mà còn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường carbon và thực hiện hiệu quả các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng