Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới

Hoạt động ngân hàng
Quỹ tín dụng nhân dân là mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Bài viết phân tích bối cảnh ảnh hưởng và nêu bật yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân. Trên cơ sở đánh giá những bất cập hiện nay, bài viết đề xuất thu hẹp số lượng quỹ, tăng quy mô hoạt động và xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2045.
aa

Tóm tắt: Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là một mô hình kinh tế hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của một số bộ phận chủ chốt và chức năng, nhiệm vụ của QTDND đã được quy định rất rõ tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và các thông tư hướng dẫn Luật. Bài viết phân tích bối cảnh chung tác động đến hoạt động của các QTDND, yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống QTDND với cách tiếp cận là phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong hoạt động của hệ thống QTDND hiện nay, trên cơ sở đó, đề xuất định hướng tái cấu trúc hệ thống QTDND bằng sự thu hẹp số lượng quỹ tín dụng và tăng quy mô hoạt động của một số QTDND, đồng thời, gợi ý xây dựng chiến lược tầm nhìn đến năm 2045 để thực hiện quá trình tái cấu trúc này.

Từ khóa: QTDND, mô hình kinh tế hợp tác, tái cấu trúc.

ORIENTATION FOR RESTRUCTURING THE PEOPLE’S CREDIT FUND SYSTEM IN THE NEW CONTEXT

Abtracts: According to the provisions of the Law on Credit Institutions 2024, People’s Credit Fund is a cooperative economic model operating in the monetary and banking sector. The organizational structure, operations of a number of key departments and the functions, tasks of People’s Credit Fund have been clearly stipulated in the Law on Credit Institutions 2024 and the guiding the Law. The article analyzes the general context affecting the operations of People’s Credit Funds, the urgent need to restructure People’s Credit Fund system with the approach of analyzing and evaluating the limitations and shortcomings in the operations of the current People’s Credit Fund system. On that basis the author, proposes the orientation of restructuring People’s Credit Fund system by reducing the number of credit funds and increasing the scale of operations of a number of People’s Credit Funds, simultaneously, suggesting the development of a vision strategy to 2045 to implement this restructuring process.

Keywords: The People's Credit Fund, cooperative economic model, restructuring.

1. Bối cảnh chung tác động đến hoạt động của các QTDND

Hiện nay, cả nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh và thịnh vượng của dân tộc, từ bộ máy hành chính Nhà nước đến sự vận hành của nền kinh tế đã có sự cải cách mạnh mẽ, nhanh chóng: Cơ cấu tổ chức, nhân sự của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan quản lý nhà nước đã thay đổi theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, lựa chọn những người tài, người tâm huyết cho bộ máy công quyền. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư đã có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống, kinh tế - xã hội. Các ngân hàng thương mại (NHTM) đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào đổi mới quản trị, điều hành và sản phẩm, dịch vụ, làm thay đổi cơ bản các hình thức cung ứng dịch vụ ngân hàng truyền thống. Nhiều công nghệ tiên tiến được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng như: Trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML), điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT) để đánh giá, phân loại khách hàng; quyết định giải ngân hay giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian giao dịch. Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ số, các NHTM còn hợp tác với các công ty công nghệ tài chính (Fintech) để nâng cấp các quy trình, nghiệp vụ, cung ứng sản phẩm, dịch vụ tiên tiến, giúp ngân hàng chuyển đổi sang mô hình kinh doanh mới, tích hợp công nghệ theo hướng tự động, thông minh, có thể tiến hành kinh doanh, cung ứng sản phẩm, dịch vụ dễ dàng trên nền tảng số, khai thác dữ liệu hiệu quả. Công nghệ số đã hỗ trợ ngân hàng có độ bao phủ rộng hơn, tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp khách hàng tiếp cận dịch vụ dễ dàng hơn, không cần phải đến điểm giao dịch ngân hàng mà có thể truy cập dữ liệu, chuyển tiền thông qua các thiết bị di động. Để ứng dụng công nghệ số đòi hỏi các NHTM và công ty Fintech phải đầu tư lớn nguồn lực, đồng thời, môi trường pháp lý phải có nhiều thay đổi để hỗ trợ cho việc ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Những thay đổi nêu trên đã tác động không nhỏ đến hoạt động của hệ thống QTDND, đòi hỏi các QTDND phải có bước chuyển mình mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Từ đòi hỏi thực tế khách quan đó, việc tái cơ cấu hệ thống QTDND để thích ứng và phát triển trong môi trường mới là rất cần thiết. Vấn đề đặt ra là tái cấu trúc hệ thống QTDND theo hướng nào là phù hợp và đạt được mục tiêu thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng hợp tác phát triển an toàn, hiệu quả, đúng tôn chỉ mục đích.

2. Yêu cầu cấp thiết tái cơ cấu hệ thống QTDND

Tính đến ngày 31/12/2024, hệ thống QTDND có 1.178 quỹ, được phân bố trên 58 tỉnh, thành phố của cả nước, với tổng tài sản là 194.421 tỉ đồng; tổng dư nợ là 138.723 tỉ đồng, chiếm 0,88% dư nợ toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy chiếm thị phần nhỏ, nhưng hoạt động của QTDND góp phần bao phủ thị trường, tăng khả năng tiếp cận thị trường cho các đối tượng ở nông thôn và góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương, xóa đói, giảm nghèo.

Điểm giống nhau của các QTDND đó là hoạt động phục vụ lợi ích thành viên, các khoản tín dụng cung cấp chủ yếu là cho vay thành viên, chiếm khoảng 95 - 99% tổng dư nợ. Kết hợp giữa đặc điểm giới hạn về địa bàn hoạt động và tính chất các khoản vay chủ yếu là cho vay ngắn hạn với giá trị nhỏ, nên thủ tục cho vay tại các QTDND thường đơn giản hơn, giải quyết nhanh, tỉ lệ nợ xấu thấp. Về cơ cấu huy động vốn, khoảng 50 - 75% vốn huy động từ thành viên, còn lại là huy động ngoài thành viên. Về hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu Đề tài: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các QTDND Việt Nam” (mã số: ĐTNH.006/20), thì phần lớn hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ của các QTDND còn nhiều hạn chế, bất cập xuất phát từ sự ít quan tâm của lãnh đạo đến hệ thống kiểm soát nội bộ, tiếp đến là thiếu nguồn nhân lực, không ít quỹ cán bộ tín dụng và thẩm định là một người làm. Những quỹ tín dụng có quy mô nhỏ với tổng tài sản dưới 100 tỉ đồng thì nguồn nhân lực càng khó khăn để sắp xếp đủ bộ máy trong hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ, đảm bảo sự phân công, phân nhiệm theo nguyên tắc “bảo đảm một quy trình nghiệp vụ phải có ít nhất 02 cán bộ tham gia, một người thực hiện giao dịch và một người kiểm soát giao dịch, không có cá nhân nào có thể một mình thực hiện và quyết định một quy trình nghiệp vụ”, “tránh xung đột lợi ích”, “bảo đảm một cán bộ không đảm nhiệm cùng một lúc những cương vị, nhiệm vụ có mục đích, quyền lợi mâu thuẫn hoặc chồng chéo với nhau”.

Trong hệ thống QTDND, điểm khác biệt giữa các quỹ là địa bàn hoạt động, quy mô, chất lượng nguồn nhân lực và sự hiểu biết pháp luật không đồng đều. Cụ thể:

- Về quy mô hoạt động: Đa số QTDND có quy mô hoạt động nhỏ và vừa (Hình 1). Trong tổng số 1.178 QTDND, tính đến ngày 31/12/2024, có 32% QTDND có quy mô tài sản dưới 100 tỉ đồng; 42% QTDND có quy mô tài sản từ 100 đến dưới 200 tỉ đồng; 24% QTDND có quy mô tài sản từ 200 đến dưới 500 tỉ đồng; chỉ có 2% QTDND có quy mô tài sản trên 500 tỉ đồng, trong đó có 3 QTDND tổng tài sản trên 1.000 tỉ đồng.

- Về địa bàn hoạt động: Theo quy định, QTDND hoạt động chủ yếu trên địa bàn một phường, một xã, hoặc có thể mở rộng phạm vi hoạt động ở các phường, xã liền kề với trụ sở làm việc của QTDND khi đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về QTDND. Với đặc điểm về địa giới hoạt động, các QTDND thường huy động và cho vay tại chỗ, qua đó, tạo thế mạnh cho QTDND do có điều kiện nắm bắt rõ thông tin và am hiểu về khách hàng của mình hơn.

- Về chất lượng nguồn nhân lực: Nhìn chung, cán bộ chủ chốt hoặc cán bộ nghiệp vụ của QTDND nắm vững cơ chế chính sách, nghiệp vụ, đáp ứng đúng quy định về bằng cấp của nhà nước; tuy nhiên, hiểu biết về pháp luật của cán bộ các QTDND nhìn chung không đồng đều, không ít nhân sự không chủ động rà soát cơ chế, chính sách, một số cán bộ tín dụng, kế toán chưa nắm chắc quy trình nghiệp vụ của mình... Nhận định này cũng được minh chứng tại Đề tài “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các QTDND Việt Nam”.

Về mặt lý luận, đối với doanh nghiệp hoạt động ở bất cứ lĩnh vực nào, muốn hoạt động có hiệu quả phải tối ưu hóa được quy trình quản lý và nghiệp vụ; quản lý tài chính hiệu quả, như dự báo nhu cầu tài chính trong tương lai, quản lý sát sao dòng tiền...; người lãnh đạo phải có tầm nhìn chiến lược, khả năng ra quyết định nhanh chóng, tạo môi trường làm việc tích cực, khuyến khích hợp tác giao tiếp và đổi mới sáng tạo của cấp dưới; có khả năng phân tích thị trường, đối thủ cạnh tranh và có chính sách chăm sóc khách hàng tốt; quản lý nhân sự tốt từ khâu tuyển dụng đến phân công vị trí công việc; khuyến khích, động viên cán bộ làm việc tích cực; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quy trình quản lý và sản xuất, kinh doanh; quản trị rủi ro tốt, như xây dựng được chiến lược dự phòng (kế hoạch đối phó với các tình huống khẩn cấp, khủng hoảng để giảm thiểu tổn thất, duy trì hoạt động của doanh nghiệp), bảo đảm bảo mật thông tin doanh nghiệp và khách hàng, tránh các sự cố bảo mật có thể ảnh hưởng đến uy tín và tài chính.

3. Đề xuất định hướng tái cấu trúc hệ thống QTDND

Từ lý luận và thực tiễn hoạt động của hệ thống QTDND như đề cập trên, để đạt được mục tiêu đặt ra thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng hợp tác phát triển an toàn, hiệu quả, đúng tôn chỉ mục đích, tác giả bài viết đề xuất định hướng tái cấu trúc hệ thống QTDND như sau:

Tái cấu trúc hệ thống QTDND là hướng tới việc sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của các QTDND để góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và hình thành hệ thống các QTDND có sức mạnh tài chính thực sự, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro, quản trị tốt; theo đó, đến năm 2035 và những năm tiếp theo, bên cạnh việc tiếp tục củng cố bộ máy hoạt động của QTDND theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành của lãnh đạo quỹ, năng lực nghiệp vụ của cán bộ và nâng cao đạo đức nghề nghiệp, thì vấn đề quan trọng có tính quyết định bảo đảm sự thành công cho định hướng tái cấu trúc nêu trên, đó là cần thu hẹp số lượng quỹ tín dụng và tăng quy mô hoạt động của mỗi quỹ tín dụng.

Cơ sở của việc đưa ra định hướng này xuất phát từ bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội đang trong giai đoạn tái cơ cấu quốc gia, thay đổi địa giới hành chính cấp xã, phường; chuyển đổi số mạnh mẽ tạo sức cạnh tranh quyết liệt trên thị trường tài chính, tiền tệ và những tồn tại, hạn chế trong hoạt động của các QTDND như đã đề cập ở trên. Với số lượng QTDND lớn như hiện nay, quy mô hoạt động, năng lực quản trị, chất lượng cán bộ... không đồng đều giữa các quỹ là thách thức rất lớn đối với Ngân hàng Hợp tác xã khi thực hiện vai trò là “Ngân hàng của các QTDND”. Thực tế trong thời gian qua, các QTDND rơi vào kiểm soát đặc biệt phần lớn là những quỹ có quy mô nhỏ, theo đó số lượng nhân sự ít, không đủ sắp xếp bộ máy hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.

Kinh nghiệm tái cơ cấu Tập đoàn Desjardins là một bài học để chúng ta suy nghĩ và hành động theo định hướng nêu trên (xem hộp 11: Tái cơ cấu Tập đoàn Desjardins).

Hộp 1: Tái cơ cấu Tập đoàn Desjardins (viết tắt là Tập đoàn)

Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới

Để thực hiện định hướng trên không phải là đơn giản mà rất khó khăn, phức tạp. Vấn đề khó nhất khi thực hiện định hướng này, đó là nguồn lực tài chính để hỗ trợ cho QTDND được sáp nhập, nguồn lực tài chính để Ngân hàng Hợp tác xã có thể tham gia và hỗ trợ các QTDND thực hiện quá trình sáp nhập, tạo ra những lợi ích vượt trội cho các quỹ khi thực hiện sáp nhập; tiếp đến là sự đồng thuận và tự nguyện sáp nhập của các QTDND, vì các quỹ là những chủ thể độc lập về tài chính.

Bên cạnh đó, để bảo đảm cho hệ thống QTDND hoạt động ổn định, an toàn và phát triển bền vững, cần tiếp tục triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước liên quan tới hoạt động của QTDND; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm tra theo chuyên đề, kịp thời cảnh báo, chấn chỉnh, xử lý nghiêm đối với các QTDND có vi phạm thể lệ, chế độ, kiểm tra việc khắc phục tồn tại, sai phạm theo các kết luận thanh tra, kiểm tra.

Đồng thời, các QTDND xây dựng tốt phương án củng cố và phát triển QTDND; trong đó, tập trung nâng cao năng lực quản trị điều hành của QTDND đặc biệt là hệ thống kiểm soát nội bộ; nâng cao năng lực tài chính và chất lượng tín dụng; tăng trưởng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng hoạt động nhất là chất lượng tín dụng; tiếp tục củng cố và nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả của QTDND hiện có, bảo đảm các QTDND hoạt động trên nguyên tắc tự chủ, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên.

Về lâu dài, NHNN cần xây dựng Chiến lược tái cấu trúc hệ thống QTDND tầm nhìn đến năm 2045 nhằm củng cố vững chắc mô hình các tổ chức tín dụng hợp tác theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.

1 Bài thu hoạch từ đợt học tập khảo sát tại Tập đoàn Desjardins Canada, tháng 10/2024.

Tài liệu tham khảo:

1. Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ: “Quản trị QTDND - Thực trạng và đề xuất chính sách nhằm đảm bảo hệ thống QTDND hoạt động an toàn, ổn định, phù hợp với thông lệ quốc tế”. Mã số: ĐTN.003/22.

2. Đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại các QTDND Việt Nam”. Mã số: ĐTNH.006/20.

3. Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

4. Hạ Thị Thiều Dao (2012), Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Năm năm 2012, xu hướng năm 2013, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 186.

5. TS. Cấn Văn Lực và Nhóm chuyên gia (12/11/2023), Chuyển đổi số ngành Ngân hàng Việt Nam: Cơ hội, thực trạng và giải pháp - Tạp chí điện tử Thị trường Tài chính Tiền tệ.

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh
Phó Tổng Thư ký Hiệp hội QTDND

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam

Thời gian qua, chính sách tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có nhiều cải thiện, tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Bài viết phân tích những hạn chế còn tồn tại và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng cho nhóm doanh nghiệp này.
Vai trò của Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam trong hỗ trợ tăng tính liên kết hệ thống

Vai trò của Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam trong hỗ trợ tăng tính liên kết hệ thống

Bài viết phân tích vai trò và hoạt động của Hiệp hội QTDND trong tăng cường liên kết hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, chỉ ra các hạn chế hiện tại và đề xuất giải pháp khắc phục.
Thích ứng với rủi ro khí hậu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thích ứng với rủi ro khí hậu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Rủi ro khí hậu đang là thách thức lớn đối với hệ thống tài chính toàn cầu, đặc biệt tại Việt Nam, nơi dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Bài viết phân tích tác động của rủi ro khí hậu đến ngân hàng thương mại, bao gồm cả rủi ro vật lý và rủi ro chuyển đổi, đồng thời chỉ ra hạn chế trong việc tích hợp yếu tố này vào quản trị và chiến lược kinh doanh. Tác giả đề xuất các giải pháp như xây dựng khung đánh giá rủi ro khí hậu, phát triển tài chính xanh và tăng cường minh bạch thông tin. Ngoài ra, bài viết khuyến nghị NHNN hoàn thiện khung pháp lý và thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia để hỗ trợ các ngân hàng thích ứng.
Tín dụng cá nhân, hộ gia đình  khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Tín dụng cá nhân, hộ gia đình khu vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

Trong bối cảnh sản xuất lương thực toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức khi thời tiết cực đoan làm sụt giảm sản lượng nông sản, các cuộc xung đột cả về quân sự và thương mại ngày càng leo thang… đe dọa đến an ninh lương thực toàn cầu, thì việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng từ các biến động kinh tế - xã hội tới hoạt động kinh doanh của Agribank

Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội tiếp tục có nhiều biến động, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro, tái cấu trúc danh mục tín dụng, đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường hợp tác đa ngành, qua đó, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài, đồng thời, mở ra cơ hội nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác và hướng tới phát triển bền vững trong dài hạn.
Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khách hàng ngày càng mong muốn nhiều hơn sự cách tân, đổi mới đến từ các ngân hàng. Do đó, đổi mới sáng tạo không chỉ là yếu tố cần thiết để các ngân hàng thương mại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động và cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, mà còn là chìa khóa để duy trì năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế số.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Báo chí đồng hành cùng ngân hàng trong thời đại công nghệ số

Báo chí đồng hành cùng ngân hàng trong thời đại công nghệ số

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số đã và đang làm thay đổi căn bản mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Các ngân hàng không chỉ chuyển đổi mô hình hoạt động, đẩy mạnh số hóa sản phẩm - dịch vụ mà còn thay đổi cách thức tiếp cận, chăm sóc khách hàng và quản lý thông tin.
Xem thêm
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc