Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Chính sách
Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
aa
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Sáng 13/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026 - 2030.

Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại trụ sở Chính phủ, trực tuyến với 34 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đồng chủ trì hội nghị có các đồng chí: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh. Dự hội nghị có lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đại sứ, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Thu nhập bình quân của đồng bào tăng 3,3 lần

Các báo cáo, ý kiến tại hội nghị đều nhấn mạnh, đây là chương trình có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội sâu sắc, là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với sự phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Nhiệm kỳ này, Chính phủ, các bộ, ngành đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện thể chế chính sách để triển khai Chương trình. Ngay sau khi Nghị quyết 120 của Quốc hội được ban hành, Ban Chỉ đạo đã chỉ đạo Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) và các bộ, ngành tham mưu Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định đầu tư Chương trình; đồng thời hoàn thành rà soát, xây dựng, ban hành/trình ban hành các quy định cơ chế chính sách, hướng dẫn tổ chức thực hiện dự án, tiểu dự án, nội dung thành phần.

Thủ tướng định hướng bố trí khoảng 160.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng định hướng bố trí khoảng 160.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thực hiện Nghị quyết 108/2023/QH15 về giám sát tối cao của Quốc hội đối với 3 chương trình mục tiêu quốc gia, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 111/2024/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc thù và Nghị quyết 142/2024/QH15 thống nhất điều chỉnh một số nội dung liên quan chủ trương đầu tư Chương trình.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành ban hành văn bản (22 văn bản, gồm: 1 nghị định của Chính phủ; 4 quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 17 văn bản của bộ, cơ quan Trung ương) quy định bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức thực hiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với nội dung còn thiếu hoặc chưa phù hợp, tăng cường phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường công khai, minh bạch, đầu tư và sử dụng nguồn vốn có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, kéo dài.

Chương trình đã cơ bản đạt và vượt 6/9 mục tiêu, nhóm mục tiêu đề ra, mặc dù triển khai chậm 1,5 năm do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và còn chưa hết năm 2025, trong đó có những mục tiêu cốt lõi, có giá trị thực tiễn là: Tỉ lệ giảm nghèo (đến hết giai đoạn I, tỉ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số dự kiến giảm bình quân gần 3,2%/năm, trong khi mục tiêu Kế hoạch là trên 3%, cao hơn so với tỉ lệ giảm nghèo chung của cả nước); thu nhập bình quân của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (dự kiến cuối năm 2025 đạt 45,9 triệu đồng tăng 3,3 lần so năm 2020 - mục tiêu tăng trên 2 lần); giáo dục; lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề (dự kiến cả giai đoạn đạt 57,8% - mục tiêu > 50%); bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; tăng cường công tác y tế.

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ tổng hợp, ban hành Thông báo kết luận hội nghị theo tinh thần "6 rõ" làm cơ sở để các bộ, ngành thực hiện - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Các kết quả này đã đóng góp quan trọng, đáng kể vào việc hoàn thành trước tiến độ nhiều mục tiêu chung của cả nước trong thời gian qua, như: Giảm nghèo bền vững, tạo việc làm và tăng thu nhập của người dân; Chương trình đã hoàn thành vượt tiến độ hơn 200% đối với mục tiêu của Chương trình về xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn khó khăn nhất, "lõi nghèo" của cả nước.

Một số chỉ tiêu mới đạt được kết quả bước đầu nhưng tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn tiếp theo, như: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; hỗ trợ khoán bảo vệ gần 1,48 triệu ha rừng đặc dụng, rừng phòng hộ cho gần 323.800 hộ; đầu tư cải tạo hàng nghìn công trình giao thông, thủy lợi nhỏ, điện, các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế…

Theo các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, tổng mức vốn để thực hiện Chương trình giai đoạn 2021 - 2025 là trên 137.000 tỉ đồng. Chương trình đạt tỉ lệ giải ngân khá trong các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung, cao hơn gần 1,03 lần so với tổng vốn của cả 2 chương trình mục tiêu quốc gia còn lại cùng giai đoạn. Đây là kết quả rất quan trọng, khẳng định được tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành đã dám nghĩ, dám làm, không ngại khó, tất cả vì đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Chương trình nhận được sự đồng thuận rất cao và tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là trong phát triển kinh tế. Tạo sự chuyển biến về nhận thức, thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" của đồng bào, nâng cao quyền năng kinh tế, xóa bỏ các định kiến, khuôn mẫu giới, trao cơ hội cho phụ nữ, trẻ em gái khẳng định vai trò trong gia đình và tham gia xây dựng, phát triển cộng đồng; tận dụng điều kiện tự nhiên để từng bước phát triển vùng trồng dược liệu quý, hỗ trợ phát triển theo chuỗi giá trị, khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp từ dược liệu, nâng cao thu nhập người dân.

Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh, nhất là các gương điển hình tiên tiến, mô hình hay, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, phát triển du lịch, góp phần thay đổi nhận thức, hành động và nâng cao dân trí của đồng bào.

Chương trình đã góp phần thắt chặt niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước, tiếp tục củng cố, xây dựng những hạt nhân và hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn 3/9 nhóm mục tiêu chưa đạt kế hoạch, gồm: Cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn; số xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; công tác định canh, định cư, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào. Nguy cơ tái nghèo cao và mức sống chưa bền vững, nhất là ở những vùng có nguy cơ cao về thiên tai; dịch vụ chưa phát triển, vẫn còn tình trạng đồng bào có tâm lý trông chờ, ỷ lại.

Quá trình ban hành một số văn bản hướng dẫn, quy định về thực hiện cơ chế, chính sách ở cấp Trung ương còn kéo dài gây ra những khó khăn nhất định cho thực hiện Chương trình. Một số địa phương còn lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện; đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp triển khai thực hiện ở cấp cơ sở còn thiếu và yếu (chủ yếu là kiêm nhiệm); một số công chức, lãnh đạo có tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm.

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hoà Bình phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hoà Bình phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tạo xu thế, phong trào quyết tâm xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, đánh giá cao Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo hội nghị và các ý kiến tâm huyết, sát thực tiễn tại hội nghị; giao Văn phòng Chính phủ tổng hợp, ban hành Thông báo kết luận theo tinh thần "6 rõ" làm cơ sở để các bộ, ngành thực hiện.

Cơ bản đồng tình với các báo cáo và ý kiến, Người đứng đầu Chính phủ khái quát 8 mặt được trong triển khai Chương trình thời gian qua: Chủ trương đúng và trúng; ý Đảng hợp lòng dân; chính sách đi đôi với ngân sách; quyết sách đi đôi với tuyên truyền, vận động; nhân dân đồng tình, doanh nghiệp ủng hộ, quân đội, công an vào cuộc tích cực, hiệu quả; tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa bình đẳng hơn; phát triển bao trùm, toàn diện và bền vững hơn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nâng cao.

Về quan điểm chỉ đạo và nhận thức, Thủ tướng nhấn mạnh, việc phát triển kinh tế văn hóa xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành... mà còn là tình cảm sâu sắc, là mệnh lệnh từ trái tim, mang tính nhân văn cao cả, khẳng định tình dân tộc, nghĩa đồng bào, không có ai bị bỏ lại phía sau; do đó, khó mấy cũng phải làm, càng áp lực càng nỗ lực và đã làm thì phải có hiệu quả cụ thể, cân đong đo đếm được.

Lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đại sứ, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam... dự hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đại sứ, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam... dự hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thay mặt Tổng Bí thư Tô Lâm, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính biểu dương những đóng góp, ghi nhận những kết quả đã đạt được trong giai đoạn I (2021 - 2025) của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng chỉ rõ, vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần thẳng thắn nhìn nhận: Chương trình còn manh mún, chia cắt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; phân cấp, phân quyền chưa triệt để; thủ tục hành chính còn rườm rà làm chi phí tuân thủ tăng lên; tính tự lực, tự cường của một bộ phận đồng bào chưa cao, nguy cơ tái nghèo cao; lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là của người đứng đầu một số địa phương, đơn vị, cơ quan chưa thực sự tập trung, gương mẫu.

Thủ tướng nhấn mạnh một số bài học kinh nghiệm quan trọng: Quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, đầu tư có trọng tâm trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó, ra việc đó; sự vào cuộc, phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong hệ thống chính trị phải đồng bộ, chặt chẽ, nhất quán, hiệu quả, nhất là người đứng đầu; tổ chức thực hiện phải luôn bám sát thực tiễn, luôn luôn đổi mới tư duy, cách tiếp cận và hành động phải quyết liệt; tạo xu thế, phong trào của đồng bào trong quyết tâm xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của mình.

Thời gian tới, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, Thủ tướng nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là phải tích cực hơn nữa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư Tô Lâm để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước; tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu.

Về các mục tiêu cụ thể, Thủ tướng đề nghị các cơ quan tính toán thêm nhưng định hướng là phải bảo đảm tiếp cận bình đẳng về giáo dục, y tế, văn hóa, tiếp cận các nguồn lực của đất nước; tạo ra nhiều việc làm, sinh kế cho người dân; các mục tiêu phải thiết thực, cụ thể, khả thi và dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá và với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển đất nước.

Đại biểu Vừ A Ly (xã Vân Hồ, Sơn La) tặng Thủ tướng sản phẩm rau xanh do công ty sản xuất - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đại biểu Vừ A Ly (xã Vân Hồ, Sơn La) tặng Thủ tướng sản phẩm rau xanh do công ty sản xuất - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bố trí khoảng 150.000 - 160.000 tỉ đồng trong 5 năm tới

Thủ tướng nêu rõ 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, xác định đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển, không những là trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải làm bằng cả tình cảm, trái tim, tình dân tộc, nghĩa đồng bào, sự chia sẻ, tính nhân văn cao cả, quyết tâm cao nhất, "nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, nhân dân được thụ hưởng thật".

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện đồng bộ của cả hệ thống chính trị, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Duy trì độc lập chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm bình đẳng nhưng đặc biệt chú ý các dân tộc dễ bị tổn thương.

Thứ ba, cân đối, bố trí nguồn lực ưu tiên cho chương trình trong 5 năm tới, dự kiến tăng khoảng 10 - 15% ngân sách (khoảng 150.000 - 160.000 tỉ đồng, so với 137 nghìn tỉ đồng của nhiệm kỳ này); huy động nguồn lực Trung ương, địa phương và các nguồn lực hợp pháp khác; Trung ương bố trí nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, giao địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm.

Thủ tướng nêu rõ, nguồn lực sẽ tập trung cho một số nhiệm vụ: Tạo việc làm, sinh kế cho người dân; bảo đảm tiếp cận bình đẳng y tế, văn hóa, giáo dục, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng, kiên cố hóa trường học, trong đó có trường học cho 248 xã biên giới; phát triển hạ tầng giao thông, viễn thông, điện, nước, bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Chú ý nguồn lực về con người, bố trí bác sĩ, giáo viên.

Thứ tư, có cơ chế, chính sách phát triển, tăng cường liên kết giữa các dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với cộng đồng người Kinh; hình thành, liên kết các hợp tác xã, các doanh nghiệp, phát triển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, phát triển doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp lớn; chú trọng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Thứ năm, xây dựng, đầu tư các dự án ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì); xây dựng chương trình an sinh xã hội thiết thực, cụ thể, bám sát tình hình thực tế. Tiếp tục triển khai chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại ĐBSCL.

Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ sáu, gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; phát huy uy tín, vai trò tiên phong của già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, người có uy tín. Đầu tư ngân sách cho các nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.

Thứ bảy, có chính sách ưu tiên, đầu tư thực hiện các nghị quyết "bộ tứ trụ cột" của Bộ Chính trị (về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng và thực thi pháp luật; hội nhập quốc tế) và các nghị quyết sắp được Bộ Chính trị ban hành về giáo dục, y tế…

Thứ tám, giữ gìn, bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, biến văn hóa thành nguồn lực, di sản thành tài sản, đồng bào được hưởng thụ văn hóa nhiều hơn.

Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ chín, xây dựng gói tín dụng ưu tiên cho việc xóa đói giảm nghèo bền vững và làm giàu, có chính sách tài khóa ưu tiên về tiếp cận đất đai, thuế, phí, lệ phí…

Thứ mười, thiết kế công cụ đo lường để giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành và vào cuộc của các địa phương.

Thủ tướng nhấn mạnh, với đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều khó khăn thì phải có cơ chế, chính ưu tiên, hoàn thiện thể chế, bố trí nguồn lực tương xứng; tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, bám sát thực tiễn, đổi mới tư duy, có cách tiếp cận phù hợp, linh hoạt, hiệu quả.

Thủ tướng tin tưởng giai đoạn 2 của chương trình sẽ được làm tốt hơn, đạt mục tiêu là đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ năm sau tốt hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, toàn diện của đất nước.

Theo Báo Chính phủ

Tin bài khác

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Xem thêm
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng