Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Chính sách
Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
aa
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Sáng 13/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026 - 2030.

Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại trụ sở Chính phủ, trực tuyến với 34 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đồng chủ trì hội nghị có các đồng chí: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh. Dự hội nghị có lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đại sứ, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Thu nhập bình quân của đồng bào tăng 3,3 lần

Các báo cáo, ý kiến tại hội nghị đều nhấn mạnh, đây là chương trình có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội sâu sắc, là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với sự phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Nhiệm kỳ này, Chính phủ, các bộ, ngành đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện thể chế chính sách để triển khai Chương trình. Ngay sau khi Nghị quyết 120 của Quốc hội được ban hành, Ban Chỉ đạo đã chỉ đạo Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) và các bộ, ngành tham mưu Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định đầu tư Chương trình; đồng thời hoàn thành rà soát, xây dựng, ban hành/trình ban hành các quy định cơ chế chính sách, hướng dẫn tổ chức thực hiện dự án, tiểu dự án, nội dung thành phần.

Thủ tướng định hướng bố trí khoảng 160.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng định hướng bố trí khoảng 160.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thực hiện Nghị quyết 108/2023/QH15 về giám sát tối cao của Quốc hội đối với 3 chương trình mục tiêu quốc gia, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 111/2024/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc thù và Nghị quyết 142/2024/QH15 thống nhất điều chỉnh một số nội dung liên quan chủ trương đầu tư Chương trình.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành ban hành văn bản (22 văn bản, gồm: 1 nghị định của Chính phủ; 4 quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 17 văn bản của bộ, cơ quan Trung ương) quy định bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức thực hiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với nội dung còn thiếu hoặc chưa phù hợp, tăng cường phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường công khai, minh bạch, đầu tư và sử dụng nguồn vốn có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, kéo dài.

Chương trình đã cơ bản đạt và vượt 6/9 mục tiêu, nhóm mục tiêu đề ra, mặc dù triển khai chậm 1,5 năm do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và còn chưa hết năm 2025, trong đó có những mục tiêu cốt lõi, có giá trị thực tiễn là: Tỉ lệ giảm nghèo (đến hết giai đoạn I, tỉ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số dự kiến giảm bình quân gần 3,2%/năm, trong khi mục tiêu Kế hoạch là trên 3%, cao hơn so với tỉ lệ giảm nghèo chung của cả nước); thu nhập bình quân của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (dự kiến cuối năm 2025 đạt 45,9 triệu đồng tăng 3,3 lần so năm 2020 - mục tiêu tăng trên 2 lần); giáo dục; lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề (dự kiến cả giai đoạn đạt 57,8% - mục tiêu > 50%); bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; tăng cường công tác y tế.

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ tổng hợp, ban hành Thông báo kết luận hội nghị theo tinh thần "6 rõ" làm cơ sở để các bộ, ngành thực hiện - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Các kết quả này đã đóng góp quan trọng, đáng kể vào việc hoàn thành trước tiến độ nhiều mục tiêu chung của cả nước trong thời gian qua, như: Giảm nghèo bền vững, tạo việc làm và tăng thu nhập của người dân; Chương trình đã hoàn thành vượt tiến độ hơn 200% đối với mục tiêu của Chương trình về xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn khó khăn nhất, "lõi nghèo" của cả nước.

Một số chỉ tiêu mới đạt được kết quả bước đầu nhưng tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn tiếp theo, như: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; hỗ trợ khoán bảo vệ gần 1,48 triệu ha rừng đặc dụng, rừng phòng hộ cho gần 323.800 hộ; đầu tư cải tạo hàng nghìn công trình giao thông, thủy lợi nhỏ, điện, các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế…

Theo các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, tổng mức vốn để thực hiện Chương trình giai đoạn 2021 - 2025 là trên 137.000 tỉ đồng. Chương trình đạt tỉ lệ giải ngân khá trong các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung, cao hơn gần 1,03 lần so với tổng vốn của cả 2 chương trình mục tiêu quốc gia còn lại cùng giai đoạn. Đây là kết quả rất quan trọng, khẳng định được tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành đã dám nghĩ, dám làm, không ngại khó, tất cả vì đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Chương trình nhận được sự đồng thuận rất cao và tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là trong phát triển kinh tế. Tạo sự chuyển biến về nhận thức, thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" của đồng bào, nâng cao quyền năng kinh tế, xóa bỏ các định kiến, khuôn mẫu giới, trao cơ hội cho phụ nữ, trẻ em gái khẳng định vai trò trong gia đình và tham gia xây dựng, phát triển cộng đồng; tận dụng điều kiện tự nhiên để từng bước phát triển vùng trồng dược liệu quý, hỗ trợ phát triển theo chuỗi giá trị, khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp từ dược liệu, nâng cao thu nhập người dân.

Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh, nhất là các gương điển hình tiên tiến, mô hình hay, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, phát triển du lịch, góp phần thay đổi nhận thức, hành động và nâng cao dân trí của đồng bào.

Chương trình đã góp phần thắt chặt niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước, tiếp tục củng cố, xây dựng những hạt nhân và hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn 3/9 nhóm mục tiêu chưa đạt kế hoạch, gồm: Cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn; số xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; công tác định canh, định cư, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào. Nguy cơ tái nghèo cao và mức sống chưa bền vững, nhất là ở những vùng có nguy cơ cao về thiên tai; dịch vụ chưa phát triển, vẫn còn tình trạng đồng bào có tâm lý trông chờ, ỷ lại.

Quá trình ban hành một số văn bản hướng dẫn, quy định về thực hiện cơ chế, chính sách ở cấp Trung ương còn kéo dài gây ra những khó khăn nhất định cho thực hiện Chương trình. Một số địa phương còn lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện; đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp triển khai thực hiện ở cấp cơ sở còn thiếu và yếu (chủ yếu là kiêm nhiệm); một số công chức, lãnh đạo có tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm.

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hoà Bình phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hoà Bình phát biểu tại hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tạo xu thế, phong trào quyết tâm xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, đánh giá cao Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo hội nghị và các ý kiến tâm huyết, sát thực tiễn tại hội nghị; giao Văn phòng Chính phủ tổng hợp, ban hành Thông báo kết luận theo tinh thần "6 rõ" làm cơ sở để các bộ, ngành thực hiện.

Cơ bản đồng tình với các báo cáo và ý kiến, Người đứng đầu Chính phủ khái quát 8 mặt được trong triển khai Chương trình thời gian qua: Chủ trương đúng và trúng; ý Đảng hợp lòng dân; chính sách đi đôi với ngân sách; quyết sách đi đôi với tuyên truyền, vận động; nhân dân đồng tình, doanh nghiệp ủng hộ, quân đội, công an vào cuộc tích cực, hiệu quả; tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa bình đẳng hơn; phát triển bao trùm, toàn diện và bền vững hơn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nâng cao.

Về quan điểm chỉ đạo và nhận thức, Thủ tướng nhấn mạnh, việc phát triển kinh tế văn hóa xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành... mà còn là tình cảm sâu sắc, là mệnh lệnh từ trái tim, mang tính nhân văn cao cả, khẳng định tình dân tộc, nghĩa đồng bào, không có ai bị bỏ lại phía sau; do đó, khó mấy cũng phải làm, càng áp lực càng nỗ lực và đã làm thì phải có hiệu quả cụ thể, cân đong đo đếm được.

Lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đại sứ, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam... dự hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đại sứ, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam... dự hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thay mặt Tổng Bí thư Tô Lâm, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính biểu dương những đóng góp, ghi nhận những kết quả đã đạt được trong giai đoạn I (2021 - 2025) của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng chỉ rõ, vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần thẳng thắn nhìn nhận: Chương trình còn manh mún, chia cắt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; phân cấp, phân quyền chưa triệt để; thủ tục hành chính còn rườm rà làm chi phí tuân thủ tăng lên; tính tự lực, tự cường của một bộ phận đồng bào chưa cao, nguy cơ tái nghèo cao; lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là của người đứng đầu một số địa phương, đơn vị, cơ quan chưa thực sự tập trung, gương mẫu.

Thủ tướng nhấn mạnh một số bài học kinh nghiệm quan trọng: Quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, đầu tư có trọng tâm trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó, ra việc đó; sự vào cuộc, phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong hệ thống chính trị phải đồng bộ, chặt chẽ, nhất quán, hiệu quả, nhất là người đứng đầu; tổ chức thực hiện phải luôn bám sát thực tiễn, luôn luôn đổi mới tư duy, cách tiếp cận và hành động phải quyết liệt; tạo xu thế, phong trào của đồng bào trong quyết tâm xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của mình.

Thời gian tới, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, Thủ tướng nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là phải tích cực hơn nữa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư Tô Lâm để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước; tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu.

Về các mục tiêu cụ thể, Thủ tướng đề nghị các cơ quan tính toán thêm nhưng định hướng là phải bảo đảm tiếp cận bình đẳng về giáo dục, y tế, văn hóa, tiếp cận các nguồn lực của đất nước; tạo ra nhiều việc làm, sinh kế cho người dân; các mục tiêu phải thiết thực, cụ thể, khả thi và dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá và với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển đất nước.

Đại biểu Vừ A Ly (xã Vân Hồ, Sơn La) tặng Thủ tướng sản phẩm rau xanh do công ty sản xuất - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đại biểu Vừ A Ly (xã Vân Hồ, Sơn La) tặng Thủ tướng sản phẩm rau xanh do công ty sản xuất - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bố trí khoảng 150.000 - 160.000 tỉ đồng trong 5 năm tới

Thủ tướng nêu rõ 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, xác định đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển, không những là trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải làm bằng cả tình cảm, trái tim, tình dân tộc, nghĩa đồng bào, sự chia sẻ, tính nhân văn cao cả, quyết tâm cao nhất, "nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, nhân dân được thụ hưởng thật".

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện đồng bộ của cả hệ thống chính trị, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Duy trì độc lập chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm bình đẳng nhưng đặc biệt chú ý các dân tộc dễ bị tổn thương.

Thứ ba, cân đối, bố trí nguồn lực ưu tiên cho chương trình trong 5 năm tới, dự kiến tăng khoảng 10 - 15% ngân sách (khoảng 150.000 - 160.000 tỉ đồng, so với 137 nghìn tỉ đồng của nhiệm kỳ này); huy động nguồn lực Trung ương, địa phương và các nguồn lực hợp pháp khác; Trung ương bố trí nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, giao địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm.

Thủ tướng nêu rõ, nguồn lực sẽ tập trung cho một số nhiệm vụ: Tạo việc làm, sinh kế cho người dân; bảo đảm tiếp cận bình đẳng y tế, văn hóa, giáo dục, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng, kiên cố hóa trường học, trong đó có trường học cho 248 xã biên giới; phát triển hạ tầng giao thông, viễn thông, điện, nước, bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Chú ý nguồn lực về con người, bố trí bác sĩ, giáo viên.

Thứ tư, có cơ chế, chính sách phát triển, tăng cường liên kết giữa các dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với cộng đồng người Kinh; hình thành, liên kết các hợp tác xã, các doanh nghiệp, phát triển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, phát triển doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp lớn; chú trọng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Thứ năm, xây dựng, đầu tư các dự án ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì); xây dựng chương trình an sinh xã hội thiết thực, cụ thể, bám sát tình hình thực tế. Tiếp tục triển khai chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại ĐBSCL.

Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ sáu, gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; phát huy uy tín, vai trò tiên phong của già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, người có uy tín. Đầu tư ngân sách cho các nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.

Thứ bảy, có chính sách ưu tiên, đầu tư thực hiện các nghị quyết "bộ tứ trụ cột" của Bộ Chính trị (về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng và thực thi pháp luật; hội nhập quốc tế) và các nghị quyết sắp được Bộ Chính trị ban hành về giáo dục, y tế…

Thứ tám, giữ gìn, bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, biến văn hóa thành nguồn lực, di sản thành tài sản, đồng bào được hưởng thụ văn hóa nhiều hơn.

Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thủ tướng thăm các gian hàng trưng bày sản phẩm nông nghiệp của các địa phương, đơn vị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ chín, xây dựng gói tín dụng ưu tiên cho việc xóa đói giảm nghèo bền vững và làm giàu, có chính sách tài khóa ưu tiên về tiếp cận đất đai, thuế, phí, lệ phí…

Thứ mười, thiết kế công cụ đo lường để giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành và vào cuộc của các địa phương.

Thủ tướng nhấn mạnh, với đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều khó khăn thì phải có cơ chế, chính ưu tiên, hoàn thiện thể chế, bố trí nguồn lực tương xứng; tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, bám sát thực tiễn, đổi mới tư duy, có cách tiếp cận phù hợp, linh hoạt, hiệu quả.

Thủ tướng tin tưởng giai đoạn 2 của chương trình sẽ được làm tốt hơn, đạt mục tiêu là đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ năm sau tốt hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, toàn diện của đất nước.

Theo Báo Chính phủ

Tin bài khác

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Xem thêm
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô