Nỗ lực không ngừng của Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý thị trường vàng

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Để có được sự ổn định trên thị trường vàng trong những năm gần đây, đó là nhờ sự quyết tâm, nỗ lực của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong “cuộc chiến” dai dẳng kéo dài. Trong 10 năm qua...
aa

Để có được sự ổn định trên thị trường vàng trong những năm gần đây, đó là nhờ sự quyết tâm, nỗ lực của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong “cuộc chiến” dai dẳng kéo dài. Trong 10 năm qua, Việt Nam đã xây dựng và triển khai các khuôn khổ pháp lý để xóa bỏ hoàn toàn một “chợ” thị trường vàng hỗn loạn, từ đó sắp xếp, đưa thị trường vàng đi vào quỹ đạo ổn định.


“Cuộc chiến” dai dẳng trong bối cảnh những bất ổn kinh tế vĩ mô, xáo trộn trên thị trường vàng trong suốt giai đoạn 2008 - 2011

Giai đoạn 2008 - 2011, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu kéo theo sự bất ổn của kinh tế vĩ mô trong nước, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng biến động mạnh và khó lường; lạm phát cao kỷ lục làm giảm sức mua của VND, ảnh hưởng đến lòng tin vào đồng nội tệ, gia tăng tâm lý găm giữ vàng, ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế như một phương tiện tiết kiệm, đảm bảo giá trị tài sản, phòng ngừa rủi ro mất giá của đồng nội tệ; thị trường bất động sản và chứng khoán sụt giảm mạnh, cán cân thanh toán đảo chiều, đồng nội tệ chịu áp lực mất giá mạnh, dự trữ ngoại hối Nhà nước (DTNHNN) ở mức thấp, thị trường ngoại tệ thường xuyên bất ổn.

Trong giai đoạn này, tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế càng trở nên trầm trọng, vàng được sử dụng rộng rãi làm thước đo giá trị, là phương tiện thanh toán và cất trữ. Nhu cầu vàng miếng trong nước ở mức cao, thường xuyên xuất hiện nhiều cơn “sốt vàng” ảnh hưởng đến ổn định kinh tế - xã hội. Thị trường vàng thế giới và trong nước biến động mạnh, trong đó giá vàng thế giới liên tục tăng cao kỷ lục, gần 1.920 USD/oz vào tháng 9/2011, tăng 300% so với đầu năm; giá vàng trong nước tăng mạnh lên gần 50 triệu đồng/lượng, thị trường vàng hỗn loạn, người dân đổ xô đi mua vàng, nhiều đối tượng có hành vi làm giá, đầu cơ, tạo nên các cơn “sốt vàng” gây mất cân đối lớn về cung cầu vàng.

Việc xảy ra tình trạng trên là do các chính sách quản lý thị trường vàng không phù hợp trong điều kiện thị trường vàng biến động mạnh, tạo ra lợi ích của việc nắm giữ vàng, gia tăng bất ổn đến thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô trong nước.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh thị trường vàng biến động mạnh, mục tiêu ban đầu của chính sách huy động và cho vay vốn bằng vàng để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội không còn phát huy tác dụng, thay vào đó càng làm gia tăng hoạt động đầu cơ, gián tiếp dẫn tới tình trạng vàng hóa trong nền kinh tế, tạo ra những hệ lụy ảnh hưởng đến thanh khoản của hệ thống, càng làm gia tăng bất ổn kinh tế vĩ mô.

Giai đoạn này, mỗi khi chênh lệch giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới chỉ vài trăm nghìn đồng/lượng, thị trường thường xuất hiện tình trạng xuất, nhập lậu vàng qua biên giới để thu lợi, ảnh hưởng lớn đến tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do, gây áp lực lên thị trường ngoại tệ và tỷ giá chính thức, từ đó ảnh hưởng bất lợi tới việc điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, cũng như ổn định kinh tế vĩ mô. Hằng năm, NHNN thường phải cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD), doanh nghiệp nhập khẩu vàng nguyên liệu với khối lượng lớn để sản xuất vàng miếng. Tuy nhiên, biện pháp này cũng không đủ để hạ nhiệt thị trường vàng, thị trường trong nước thường xuyên diễn biến căng thẳng, cung cầu vàng trong nước vẫn mất cân đối lớn, càng gây sức ép trầm trọng lên tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do, tác động tiêu cực đến công tác điều hành chính sách tiền tệ. DTNHNN duy trì ở mức thấp và suy giảm mạnh (chạm xuống mức đáy vào tháng 12/2011), thị trường ngoại tệ biến động mạnh. Mặc dù, tháng 2/2011, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá tăng 9,3% nhưng sức ép lên thị trường ngoại tệ vẫn không suy giảm, cung cầu ngoại tệ mất cân bằng khiến NHNN phải thực hiện bán ngoại tệ can thiệp thị trường nhưng vẫn không làm dịu bớt căng thẳng trên thị trường ngoại tệ.

Những quyết sách kiên định, táo bạo và kịp thời của NHNN để thay đổi cục diện thị trường vàng

Xác định thói quen, tập quán nắm giữ vàng ở nước ta đã hình thành từ lâu đời; đồng thời, tâm lý khách hàng trên thị trường vàng thường dễ bị xáo trộn, càng làm gia tăng những bất ổn trong bối cảnh kinh tế vĩ mô gặp khó khăn trong giai đoạn này. Thay đổi thói quen và ổn định tâm lý trên thị trường vàng là rất khó khăn, cần một quá trình lâu dài; chỉ khi kinh tế vĩ mô duy trì ổn định bền vững, lạm phát được kiểm soát tốt, lòng tin vào giá trị đồng Việt Nam được nâng cao, môi trường đầu tư, kinh doanh được minh bạch, các kênh đầu tư khác được phát triển lành mạnh… sẽ khuyến khích người dân chuyển vàng thành tiền đưa vào sản xuất, kinh doanh, là tiền đề vững chắc để duy trì ổn định, bền vững trên thị trường vàng.

NHNN xác định những bất ổn trên thị trường vàng là một trong những nguyên nhân gây biến động tỷ giá, gia tăng áp lực lên thị trường ngoại tệ, ảnh hưởng đến DTNHNN, gây khó khăn trong công tác điều hành chính sách tiền tệ. NHNN đã quyết định trước mắt phải tập trung ổn định thị trường vàng thông qua việc sắp xếp lại thị trường, đặc biệt là thị trường vàng miếng, loại bỏ những nhân tố gây đầu cơ, tạo sóng làm xáo trộn thị trường vàng trong nước.

Nếu tiếp tục biện pháp cho phép nhập khẩu vàng như trước đây sẽ ảnh hưởng lớn đến thị trường ngoại tệ đang diễn biến căng thẳng, khó đảm bảo DTNHNN không suy giảm. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, NHNN đã đề xuất Thủ tướng Chính phủ biện pháp tình thế áp dụng trong thời gian chuyển đổi cơ chế chính sách, đó là cho phép TCTD bán một phần vàng tồn quỹ ra thị trường để dịu bớt căng thẳng cung cầu vàng miếng.

Xác định đây là “trận đánh” cân não, cần triển khai kịp thời và nhanh chóng, NHNN đã quyết liệt chỉ đạo và gấp rút xây dựng khung pháp lý để triển khai thực hiện. Việc TCTD bán một phần vàng tồn quỹ để can thiệp thị trường diễn ra trong thời gian ngắn (hơn 2 tháng cuối năm 2011), đã nhanh chóng hạ nhiệt các “cơn sốt vàng” và thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới, góp phần hạn chế hoạt động thao túng giá vàng của giới đầu cơ, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu hơn so với biện pháp cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng.

Quyết tâm xóa bỏ “vàng hóa” trong hệ thống TCTD, ngăn chặn tình trạng đầu cơ, làm giá, tiến tới chuyển quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua, bán vàng, NHNN đã nghiêm cấm việc các TCTD cho vay tiền để mua vàng. Đồng thời, từ năm 2011, NHNN đã quyết liệt chỉ đạo, ban hành các văn bản chấm dứt hoạt động này và xây dựng lộ trình yêu cầu các TCTD khẩn trương tất toán số dư huy động, cho vay vốn bằng vàng. Toàn bộ hoạt động cho vay vốn bằng vàng đã chấm dứt vào ngày 01/5/2011 và hoạt động huy động vốn bằng vàng đã chấm dứt vào ngày 25/11/2012.

Để xử lý nghiêm hành vi vi phạm trong kinh doanh vàng, NHNN đã khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Theo đó, các hoạt động kinh doanh vàng trái phép sẽ bị cơ quan chức năng xử lý nghiêm khắc, đặc biệt là áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đối với hoạt động nhập lậu vàng qua biên giới như tịch thu tang vật.

Năm 2012 là mốc lịch sử ghi nhận sự thành công bước đầu trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Trong một thời gian tương đối ngắn, NHNN tham mưu, đề xuất quản lý chặt chẽ thị trường vàng, trong đó mấu chốt là thị trường vàng miếng, thông qua việc Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, thay vì việc cấp phép sản xuất như trước đây; tổ chức sắp xếp, sàng lọc, thu hẹp số lượng các địa điểm kinh doanh mua, bán vàng miếng dưới sự quản lý của NHNN; Nhà nước thông qua NHNN độc quyền xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.

Bước ngoặt trong các chính sách táo bạo quản lý thị trường vàng lúc đó đã đặt ra sức ép lớn cho NHNN phải đối diện trước làn sóng phản ứng dữ dội từ phía giới đầu cơ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng, nhưng NHNN vẫn kiên định, quyết tâm bảo vệ tư duy, quan điểm đổi mới trước dư luận, giải trình và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 24) để thay thế Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999. Những chính sách quyết đoán này là điểm mấu chốt mang lại thành công đáng kể, ổn định thị trường vàng, thị trường ngoại tệ như hiện nay. Bên cạnh đó, NHNN tập trung đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu rõ những định hướng, chính sách quản lý của Nhà nước, kịp thời ổn định tâm lý trên thị trường vàng. Với sự dày công, nỗ lực của NHNN, “chợ” thị trường vàng miếng tồn tại hàng chục năm trước đây đã bị xóa bỏ, thay vào đó hình thành một thị trường vàng miếng hoạt động lành mạnh dưới sự dẫn dắt, quản lý chặt chẽ của Nhà nước từ khâu sản xuất đến khâu lưu thông.

Triển khai Nghị định 24 và các thông tư hướng dẫn, năm 2013, đánh giá những tác động của thị trường vàng đến công tác điều hành chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mô trong nước, lần đầu tiên trong lịch sử NHNN trực tiếp can thiệp bình ổn thị trường vàng thông qua hoạt động đấu thầu bán vàng miếng ra thị trường. NHNN đã tổ chức 76 phiên đấu thầu công khai, minh bạch với tổng khối lượng bán ra gần 70 tấn vàng. Giải pháp này kịp thời ổn định cung cầu vàng miếng trên thị trường, góp phần đẩy nhanh quá trình tất toán số dư huy động vàng của các TCTD. Nhờ vậy, từ tháng 7/2013 đến nay, toàn bộ quan hệ huy động, cho vay vốn bằng vàng đã chuyển hóa thành quan hệ mua bán vàng. Việc Nhà nước can thiệp bình ổn thị trường đã ngăn chặn tình trạng đầu cơ, nắm giữ vàng, đảm bảo quyền và lợi ích của người gửi vàng; ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ thanh khoản vàng trong hệ thống và xóa bỏ tình trạng vàng hóa trong hệ thống.

Thị trường vàng sau những nỗ lực triển khai tổng thể các giải pháp quản lý

Với những chính sách quyết liệt của NHNN từ năm 2011 đến nay, đặc biệt sau khi xây dựng và triển khai các giải pháp quản lý theo Nghị định 24 những năm vừa qua, thị trường vàng đã được sắp xếp bài bản, diễn biến tương đối ổn định, tình trạng “vàng hóa” đã từng bước được hạn chế, biến động của thị trường vàng không gây áp lực lên thị trường ngoại tệ và DTNHNN. Vàng miếng không còn được sử dụng làm phương tiện thanh toán hay thước đo giá trị như giai đoạn trước đây mà chỉ còn được sử dụng làm tài sản cất trữ.

Mặc dù, có thời điểm giá vàng trong nước biến động tăng kỷ lục theo giá vàng thế giới nhưng thị trường trong nước vẫn diễn biến ổn định, không có hiện tượng ”sốt vàng”, nhu cầu vàng miếng trong nền kinh tế suy giảm, nhiều người đã bán vàng khi giá lên cao. Một số sự kiện quốc tế ảnh hưởng mạnh đến giá vàng trong nước như Trung Quốc phá giá đồng CNY (tháng 8/2015), Anh rời khỏi Liên minh châu Âu - Brexit (tháng 6/2016), đặc biệt, từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 8/2020, giá vàng thế giới biến động tăng kỷ lục do diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 nhưng thị trường vàng trong nước tiếp tục ổn định. Giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới, có thời điểm lên mức cao nhất trong lịch sử, khoảng 62,2 triệu đồng/lượng (ngày 07/8/2020), nhưng thị trường vàng trong nước diễn biến ổn định, không có hiện tượng đầu cơ, tạo sóng. Từ giữa tháng 8/2020, giá vàng thế giới giảm mạnh nhưng giá vàng trong nước giảm chậm hơn khiến chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới quy đổi có xu hướng tăng. Mặc dù vậy, thị trường vàng trong nước vẫn duy trì ổn định, không có hiện tượng người dân đổ xô đi mua vàng như những năm trước đây. Ngược lại, do giá vàng trong nước chênh lệch với giá vàng thế giới quy đổi cả ở hai chiều mua vào và bán ra nên đã có hiện tượng nhiều người tranh thủ lúc giá vàng lên cao đã bán vàng ra hưởng lợi. Trong năm 2020, nhiều thời điểm doanh số mua, bán vàng miếng SJC trong hệ thống đã giảm đáng kể, hơn 70% so với năm 2013, riêng trong 2 tháng đầu năm 2021, doanh số mua bán vàng miếng SJC của toàn hệ thống đã giảm trên 30% so với cùng kỳ năm 2020.

Mục tiêu xuyên suốt là hạn chế tác động của giá vàng đến tỷ giá, thị trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô đến nay đã và đang đạt hiệu quả tốt. Mặc dù giá vàng trong nước biến động mạnh theo giá vàng thế giới tại một số thời điểm, nhưng khác với giai đoạn trước, biến động giá vàng không ảnh hưởng đến công tác điều hành chính sách tiền tệ. Trong thời gian dài, tỷ giá tự do bám sát tỷ giá chính thức, nhiều thời điểm còn thấp hơn tỷ giá niêm yết của các NHTM, NHNN liên tục mua vào tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Từ cuối tháng 12/2020, tỷ giá tự do bắt đầu có xu hướng tăng nhanh nhưng tỷ giá trên thị trường ngoại tệ chính thức có xu hướng giảm. Do đó, diễn biến của thị trường vàng và thị trường tự do từ đầu năm 2021 đến nay không ảnh hưởng đến diễn biến tỷ giá và tình hình thị trường ngoại tệ chính thức, không gây xáo trộn tâm lý, nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp và người dân. Hoạt động trên thị trường ngoại tệ chính thức vẫn diễn ra bình thường, thanh khoản thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. NHNN tiếp tục mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung DTNHNN.

Điều này cho thấy những nỗ lực của NHNN trong công tác quản lý thị trường vàng những năm qua, sự liên thông giữa thị trường vàng và thị trường ngoại tệ đã được hạn chế và kiểm soát tốt. Mục tiêu ổn định thị trường vàng, hạn chế tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế của Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã đạt được. Đến nay, Việt Nam bước đầu đã thành công trong lộ trình chuyển dần quan hệ huy động - cho vay sang mua - bán ngoại tệ, chuyển hoàn toàn quan hệ huy động và cho vay vốn bằng vàng sang quan hệ mua - bán vàng, qua đó tạo tiền đề ổn định thị trường vàng, làm tăng niềm tin của người dân vào VND và từng bước nâng cao tính chuyển đổi của VND, tạo ra những cơ sở tiền đề quan trọng để tiếp tục thực hiện các giải pháp hạn chế vàng hóa trong nền kinh tế.

Vượt qua thời gian dài đối mặt với những khó khăn và thách thức, những thành công hôm nay trên thị trường vàng mang lại bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng chính sách, đó là cần nhận thức đúng đắn và tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, kiên định và nhất quán giữa định hướng, mục tiêu và giải pháp để phát huy tác động chéo giữa các thị trường, lấy trọng tâm là điều hành chính sách tiền tệ giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát; kiên quyết thực hiện theo lộ trình nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với từng điều kiện thị trường. Kết hợp tổng thể, hài hòa giữa biện pháp kinh tế, biện pháp hành chính và công tác truyền thông để đạt mục tiêu đề ra.

Đào Xuân Tuấn - Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Quản lý ngoại hối, NHNN

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Xem thêm
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng