Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
aa

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; Vụ Tài chính - Kế toán; Vụ Nghiên cứu kinh tế; Vụ Quan hệ quốc tế và Văn phòng NHNN.

Đoàn cán bộ NHNN do Phó Thống đốc Đỗ Quế Lượng làm trưởng đoàn đi khảo sát Hệ thống thanh toán tại NHTW Nhật Bản năm 1995

Tại cuộc họp, anh Nguyễn Quang Thép - Vụ phó Vụ Quan hệ quốc tế báo cáo với Phó Thống đốc về nội dung làm việc của đoàn cán bộ Ngân hàng Thế giới với NHNN, trong đó có việc Ngân hàng Thế giới muốn dành khoản tiền khoảng 30 triệu USD để giúp Việt Nam xây dựng hệ thống thanh toán. Sau khi nghe các ý kiến trao đổi, Phó Thống đốc NHNN Đỗ Quế Lượng kết luận thành lập một tổ công tác gồm đại diện lãnh đạo các vụ, cục tham dự cuộc họp để chuẩn bị nội dung làm việc với Ngân hàng Thế giới khi họ cử chuyên gia về thanh toán sang Việt Nam. Tổ công tác gồm: Tôi là tổ trưởng, anh Đào Y - Vụ phó Vụ Tài chính - Kế toán, anh Nguyễn Toàn Thắng - Vụ phó Vụ Nghiên cứu kinh tế, anh Nguyễn Quang Thép - Vụ phó Vụ Quan hệ quốc tế.

Sau một thời gian khẩn trương làm việc, tổ công tác đã soạn thảo ra được bộ tài liệu thực trạng và yêu cầu xây dựng hệ thống thanh toán tại Ngân hàng Việt Nam, trình Thống đốc phê duyệt làm tài liệu để làm việc với chuyên gia thanh toán của Ngân hàng Thế giới sau này. Tuy được giao làm nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu nhưng thực sự anh em chúng tôi chưa ai được đi nghiên cứu hệ thống thanh toán của các ngân hàng hiện đại trên thế giới. Do vậy, tài liệu chủ yếu tập trung vào việc mô tả hiện trạng của hệ thống thanh toán tại Việt Nam lúc bấy giờ. Ở Việt Nam thời điểm ấy vừa mới thực hiện đổi mới, xây dựng hệ thống ngân hàng hai cấp. NHNN thực hiện nhiệm vụ Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngân hàng thời đó rất lạc hậu, hạ tầng viễn thông quốc gia chưa phát triển, thanh toán qua ngân hàng chủ yếu thực hiện theo phương pháp thủ công nên rất ách tắc, trì trệ. Một lệnh thanh toán trong nội thành Hà Nội chuyển từ chi nhánh ngân hàng này sang chi nhánh ngân hàng khác có khi cả tuần mới được thực hiện. Do thanh toán qua ngân hàng ách tắc nên các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp thanh toán với nhau chủ yếu bằng tiền mặt. Lượng tiền mặt ngành Ngân hàng phát hành ra nền kinh tế quay trở lại các ngân hàng rất ít, tạo nên hiện tượng các ngân hàng khan hiếm tiền mặt một cách trầm trọng. Việc xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại đối với ngành Ngân hàng là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong kế hoạch hiện đại hóa ngân hàng.

Tuy yêu cầu xây dựng hệ thống thanh toán của ngành Ngân hàng cấp bách như vậy, nhưng xây dựng như thế nào, học tập áp dụng mô hình của ngân hàng nào trên thế giới cho phù hợp với đặc thù của Việt Nam là một câu hỏi hóc búa chưa ai trả lời được. NHNN và các NHTM đã cử nhiều đoàn cán bộ sang các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Singapore… để học tập kinh nghiệm.

Năm 1995, nhiều đoàn cán bộ kỹ thuật về hệ thống thanh toán của Ngân hàng Thế giới sang Việt Nam làm việc. Thống đốc NHNN giao cho tôi thay mặt NHNN tiếp và làm việc với đoàn. Thật khó khăn khi trao đổi để có được tiếng nói chung. Tôi còn nhớ, nhiều lần làm việc với ông ViNit Naia - Trưởng đoàn cán bộ của Ngân hàng Thế giới để bàn về mô hình thanh toán cho hệ thống ngân hàng Việt Nam nhưng không thành công. Lý do rất đơn giản là Ngân hàng Thế giới chỉ tài trợ vốn vay cho các Ngân hàng Trung ương chứ chưa tài trợ cho NHTM nào trên thế giới vay để xây dựng hệ thống thanh toán.

Từ thực tế ở Việt Nam lúc bấy giờ hệ thống ngân hàng mới tách ra, ngoài NHNN đóng vai trò là Ngân hàng Trung ương thì chỉ có 6 NHTM, trong đó 4 NHTM Nhà nước và 2 NHTM ngoài quốc doanh. Các ngân hàng này vừa mới thành lập nên cơ sở vật chất rất nghèo nàn, hệ thống thanh toán rất lạc hậu, hoạt động thanh toán trong nền kinh tế qua ngân hàng lại do các NHTM thực hiện. Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới thì họ chỉ cho NHNN vay để xây dựng hệ thống thanh toán liên ngân hàng của NHNN. Như vậy, các NHTM không được vay vốn để xây dựng hệ thống thanh toán kế toán của nội bộ mỗi ngân hàng, điều đó không giải quyết được vấn đề cải tiến hệ thống thanh toán ở Việt Nam. Tôi nêu quan điểm đề nghị Ngân hàng Thế giới, ngoài tài trợ vốn vay cho NHNN thì tài trợ thêm cho 4 NHTM Nhà nước. Ý kiến này không được ông ViNit Naia chấp nhận. Khi ấy thực sự tôi rất lo lắng về khả năng Ngân hàng Thế giới không linh hoạt như đề xuất của mình, nhưng mạnh dạn nêu quan điểm: Đây là đặc thù của chúng tôi, nếu các ông có thiện chí giúp Ngân hàng Việt Nam thì chấp nhận đặc thù này, còn nếu chỉ đầu tư xây dựng hệ thống thanh toán liên ngân hàng của NHNN thì rất lãng phí, không khác gì xây dựng hệ thống đường sắt mà chỉ xây nhà ga, không xây dựng các hệ thống đường ray cho tàu chạy, như vậy “nhà ga” chỉ bỏ không mà thôi. Tôi cũng nói thêm rằng, nội dung này tôi mới biết trong cuộc đàm phán hôm nay nên chưa kịp báo cáo xin ý kiến Thống đốc, đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi. Cuộc thảo luận gay cấn chưa có lối thoát thì đến giờ nghỉ trưa. Tôi đề xuất buổi chiều tạm dừng thảo luận để hai bên báo cáo xin ý kiến lãnh đạo của mình. Tôi tranh thủ báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của anh Cao Sỹ Kiêm - Thống đốc NHNN thời bấy giờ. Sau khi nghe tôi trình bày, anh Cao Sỹ Kiêm rất đồng tình và chỉ đạo kiên trì đàm phán theo hướng đề nghị Ngân hàng Thế giới tài trợ vốn vay cho cả các NHTM, nếu họ chưa đồng ý thì báo cáo lại để lãnh đạo NHNN có văn bản đề nghị lên cấp cao của Ngân hàng Thế giới. Sáng hôm sau, bước vào cuộc đàm phán, mới gặp nhau ở cửa phòng họp, ông ViNit Naia đã tươi cười bắt tay tôi và chúc mừng, thông báo rằng ý kiến của tôi tối qua (ban ngày bên Mỹ) đã được lãnh đạo cấp cao Ngân hàng Thế giới chấp thuận.

Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới không trực tiếp ký hợp đồng với các NHTM, mà thực hiện theo nguyên tắc Ngân hàng Thế giới ký hiệp định vay vốn với NHNN, các NHTM ký hợp đồng vay lại với NHNN. Việc theo dõi giải ngân cho các tiểu dự án và trả nợ cũng thông qua NHNN.

Khó khăn bước đầu đã được tháo gỡ, nhưng xây dựng hệ thống thanh toán của Ngân hàng Việt Nam theo mô hình nào là câu hỏi rất lớn đặt ra, bởi chính sách của Ngân hàng Thế giới chỉ tài trợ để xây dựng duy nhất hệ thống thanh toán liên Ngân hàng cho các Ngân hàng Trung ương, không trực tiếp cho vay các NHTM.

Sau khi xác định được mô hình, bắt tay vào chuẩn bị hồ sơ tiền khả thi của dự án (việc này do chuyên gia tư vấn hỗ trợ bằng khoản tiền viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản). Đầu năm 1996, Hiệp định tín dụng tài trợ vốn vay 49 triệu USD được ký kết giữa NHNN và Ngân hàng Thế giới. Dự án đầu tư vốn vay cho dự án “Hiện đại hóa Ngân hàng và hệ thống thanh toán” gồm 7 tiểu dự án: Tiểu dự án Thanh toán liên ngân hàng do NHNN thực hiện; tiểu dự án Ngân hàng Ngoại thương; tiểu dự án Ngân hàng Công thương; tiểu dự án Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; tiểu dự án Ngân hàng Đầu tư và Phát triển; tiểu dự án Ngân hàng Eximbank; tiểu dự án của Ngân hàng Hàng Hải. Sở dĩ thêm 2 ngân hàng ngoài quốc doanh vì sau khi biết tin NHNN và 4 NHTM Nhà nước được Ngân hàng Thế giới tài trợ vốn vay thì 2 NHTM ngoài quốc doanh đề nghị Thống đốc NHNN được cùng tham gia. Thời điểm ấy, ngoài 4 NHTM Nhà nước, ở Việt Nam chỉ có thêm 2 NHTM ngoài quốc doanh này. Do vậy, 2 ngân hàng này cũng được NHNN và Ngân hàng Thế giới chấp thuận tham gia dự án.

Để triển khai dự án, NHNN đã thành lập Ban Quản lý các dự án ngân hàng tiếp quản hồ sơ và điều hành. Tuy nhiên, từ năm 1996 đến năm 1998, dự án thực hiện không trôi chảy. Ngân hàng Thế giới thông báo nếu dự án vẫn tiếp tục chậm tiến độ thì sẽ bị cắt tài trợ vốn vay. Trước tình hình này, Thống đốc NHNN đã quyết định chuyển việc quản lý và triển khai dự án từ Ban Quản lý các dự án ngân hàng về Cục Công nghệ tin học, từ đó dự án mới được khởi động lại, hoàn thiện các hồ sơ pháp lý và tổ chức đấu thầu. Trong 7 tiểu dự án, triển khai đầu tiên là tiểu dự án “Thanh toán liên ngân hàng”.

Sau mấy tháng khẩn trương chuẩn bị lập hồ sơ, thảo luận, hoàn chỉnh nội dung đấu thầu gửi Ngân hàng Thế giới và nhận được thư phản hồi “không phản đối”, đầu năm 1999, tiểu dự án “Thanh toán liên ngân hàng” hoàn thành hồ sơ đấu thầu và được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt, cho phép NHNN tổ chức đấu thầu quốc tế. Thống đốc NHNN thành lập tổ đấu thầu gồm 13 người, bao gồm cán bộ của NHNN, các bộ, ngành liên quan, đại diện các NHTM tham gia. Theo quy chế của Ngân hàng Thế giới, dự án được đấu thầu theo phương pháp chấm điểm kỹ thuật. Căn cứ vào hồ sơ dự thầu, các thành viên tổ tư vấn đấu thầu thực hiện chấm điểm độc lập, chọn ra những nhà thầu có năng lực kỹ thuật nhất, kết quả, tổ tư vấn đấu thầu đã chọn ra nhà thầu có điểm số cao nhất là nhà thầu Hyundai Hàn Quốc. Sau khi có kết quả đấu thầu, NHNN đã tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin phê duyệt kết quả đấu thầu.

Lễ ký hợp đồng giữa NHNN và tập đoàn Hyundai, Hàn Quốc triển khai dự án “Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán” giai đoạn I năm 1999

Nhận được quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký, công nhận nhà thầu Hyundai của Hàn Quốc thắng thầu, NHNN tiến hành tổ chức lễ ký hợp đồng giữa NHNN và nhà thầu Hyundai để chuẩn bị triển khai. Một tình huống bất ngờ đã xảy ra là trước giờ ký hợp đồng, khi các quan chức bộ, ngành, nhà thầu, các ngân hàng và các công ty liên quan được mời đến tham dự đã có mặt đông đủ thì nhận được lệnh khẩn cấp từ Văn phòng Thủ tướng Chính phủ yêu cầu NHNN dừng ký hợp đồng. Sự việc quá đột ngột làm tất cả mọi người có mặt buổi hôm ấy ngơ ngác nhìn nhau và giải tán ra về mà không biết lý do tại sao. Sau buổi ký hợp đồng với nhà thầu bị hoãn lại, Văn phòng Đấu thầu thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới thông báo có đơn kiện về kết quả đấu thầu.

Những tháng liên tiếp sau đó, thay vì triển khai dự án, những người thực hiện dự án lại phải tập trung viết giải trình và dự nhiều cuộc họp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Thủ tướng, Phó Thủ tướng chủ trì để NHNN giải trình về những câu hỏi của đơn kiện. Trong đơn kiện họ chỉ nêu hai lý do: Một là tại sao không chọn nhà thầu Mỹ hoặc châu Âu mà chọn Hàn Quốc; hai là hệ thống “Đóng” hay “Mở”. Đứng đơn kiện là một người Việt Nam giấu tên liên danh với Công ty máy tính UNISYS, Mỹ. NHNN đã trả lời đầy đủ tất cả các câu hỏi của đơn kiện. Ý kiến kết luận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là: Việc tổ chức đấu thầu do NHNN tổ chức đúng quy định của Ngân hàng Thế giới và pháp luật Việt Nam; không có tiêu cực trong quá trình tổ chức đấu thầu. Nhà thầu được chọn là công ty công nghệ thông tin hàng đầu của Hàn Quốc, đủ năng lực tài chính và kỹ thuật, đã trúng thầu và xây dựng nhiều hệ thống công nghệ thông tin ở Hàn Quốc trong đó có nhiều ngân hàng. Hệ thống kỹ thuật công nghệ nhà thầu được lựa chọn là công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất thời điểm bấy giờ, dựa trên nền tảng công nghệ “Mở”... Cuối cùng, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì phiên họp, kết luận yêu cầu thành lập đoàn công tác đi khảo sát ở một số nước mà nhà thầu Hyundai đã xây dựng các hệ thống tương tự xem công nghệ có thực sự “Mở” hay không. Đoàn công tác do Phó Thống đốc Nguyễn Văn Giàu làm trưởng đoàn, tham gia đoàn có đại diện một số lãnh đạo vụ, cục NHNN, đại diện lãnh đạo 4 NHTM Nhà nước; đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư; đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ. Đoàn đi Hàn Quốc và Trung Quốc khảo sát một số cơ sở ngân hàng mà nhà thầu Hyundai đã xây dựng hệ thống công nghệ thông tin. Đoàn đã chứng kiến thấy tất cả các hệ thống đang hoạt động rất tốt, dựa trên công nghệ hiện đại, hệ thống “Mở”. Sau gần 10 ngày, đoàn khảo sát tổng hợp báo cáo Thủ tướng về kết quả thu nhận được, Thủ tướng đã đồng ý cho NHNN được ký hợp đồng với nhà thầu Hyundai để triển khai dự án. Tưởng vậy là xong, nhưng khi kiện ở Việt Nam không xong, họ lại gửi đơn sang Ngân hàng Thế giới để kiện tiếp. Ngân hàng Thế giới phải lập Ủy ban Điều tra về gian lận trong đấu thầu để xem xét lại những vấn đề mà đơn kiện nêu ra. Cuối cùng, Ủy ban Điều tra gian lận trong đấu thầu của Ngân hàng Thế giới kết luận nội dung của đơn kiện không có cơ sở nên đã đồng ý để NHNN tiếp tục công việc. Tuy mọi khiếu kiện đều được làm sáng tỏ, nhưng tiến độ bị chậm mất 6 tháng, kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kết quả đấu thầu. Đến cuối năm 1999, dự án mới được ký hợp đồng và triển khai.

Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng được thiết kế theo mô hình tập trung hóa tài khoản, mỗi ngân hàng thành viên chỉ mở một tài khoản thanh toán duy nhất tại Sở Giao dịch NHNN, tất cả các chi nhánh trong một ngân hàng đều dùng chung tài khoản này. Việc quản lý vốn của các chi nhánh trong nội bộ các ngân hàng do tự các ngân hàng thực hiện. Trung tâm thanh toán quốc gia đặt tại Hà Nội, được kết nối với 5 trung tâm thanh toán khu vực gồm: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Hệ thống được chia ra thành 2 tiểu hệ thống là: Thanh toán giá trị cao (theo quy định lúc bấy giờ là 500 triệu đồng trở lên) và thanh toán bù trừ giá trị thấp. Hội sở chính của các NHTM tham gia hệ thống thanh toán, kết nối mạng với Trung tâm thanh toán tại Hà Nội, các chi nhánh của các NHTM tham gia hệ thống thanh toán kết nối mạng trực tiếp với các trung tâm thanh toán trên địa bàn để thực hiện thanh toán điện tử.

Cuối năm 2000, Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng đã hoàn thành về mặt kỹ thuật, thực hiện chạy thử nghiệm nhưng chưa thể đưa vào vận hành được vì chưa có luật sử dụng chứng từ và chữ ký điện tử trong hạch toán kế toán và thanh toán ngân hàng. Ngoài việc tập trung khẩn trương hoàn thành dự thảo quy trình vận hành Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng, Thống đốc NHNN đã có tờ trình Thủ tướng Chính phủ cho phép được áp dụng chứng từ và chữ ký điện tử cho Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng. Mấy tháng sau, Thủ tướng Chính phủ mới ra quyết định cho phép được sử dụng chứng từ và chữ ký điện tử.

Sau khi đầy đủ các cơ sở pháp lý, ngày 02/5/2001, tiểu dự án “Thanh toán điện tử liên ngân hàng” đã hoàn thành giai đoạn 1 và đưa vào sử dụng. Tiếp theo là các tiểu dự án của các NHTM cũng hoàn thành, được đưa vào sử dụng. Đến năm 2002, toàn bộ 7 tiểu dự án đã hoàn thành giai đoạn 1 và bước sang giai đoạn 2.

Điều đáng tiếc là đến thời điểm chạy thử dự án “Thanh toán điện tử liên ngân hàng” do NHNN quản lý vận hành, nhưng buổi đầu chạy thử nghiệm chỉ có 6 NHTM tham gia, NHNN không tham gia được bởi chưa có hệ thống tài khoản hạch toán cho hệ thống này. Hai tháng sau, NHNN mới là thành viên của hệ thống và chính thức tham gia.

Phải nói rằng: “Vạn sự khởi đầu nan”, việc triển khai dự án được tiến hành trong điều kiện cơ sở hạ tầng viễn thông kém, thiếu cơ sở pháp lý, kiện cáo vô căn cứ kết quả đấu thầu gây khó khăn… kéo dài thời gian triển khai dự án, nhưng với sự quyết tâm cao của các cán bộ được phân công thực hiện dự án và dưới sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của lãnh đạo NHNN thời bấy giờ, đặc biệt là anh Nguyễn Văn Giàu - Phó Thống đốc NHNN, dự án đã hoàn thành một cách ngoạn mục, đặt nền tảng công nghệ quan trọng cho ngành Ngân hàng để phục vụ nền kinh tế đất nước.

Ngày nay, công nghệ số đang là xu hướng phát triển, ngành Ngân hàng đang bước vào giai đoạn đầu tư công nghệ mới, nhớ lại những ngày đầu tiên xây dựng hệ thống công nghệ cho ngành Ngân hàng, tôi cảm thấy những sự việc như mới diễn ra gần đây. Dự án “Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán” do Ngân hàng Thế giới tài trợ vốn vay triển khai thành công đã đặt nền tảng công nghệ quan trọng cho hiện đại hóa ngành Ngân hàng Việt Nam. Đến nay nó vẫn đang phát huy hiệu quả và ngày càng được nâng cấp hoàn thiện, cải tiến công nghệ tốt hơn, phục vụ đắc lực cho hoạt động ngành Ngân hàng nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung.

Truyền thống của ngành Ngân hàng là luôn vượt khó để vươn lên, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào một hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện đại, xứng tầm với khu vực và thế giới. Là những người vinh dự được tham gia quá trình hiện đại hóa ngân hàng từ những ngày đầu, nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Ngành, tôi xin chúc các bạn đồng nghiệp sức khỏe, thành công trong sự nghiệp hiện đại hóa Ngân hàng nói riêng và phát triển ngành Ngân hàng nói chung.

TS. Tạ Quang Tiến

Nguyên Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, NHNN

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Nhân kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam, trải qua bao nhiêu thăng trầm, hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển trên mọi mặt, mọi lĩnh vực. Với hơn 15 năm làm việc trong lĩnh v...
Xem thêm
Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Xây dựng hành lang pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý quản lý tiền kỹ thuật số, một lĩnh vực vừa nhiều tiềm năng đổi mới, vừa ẩn chứa rủi ro hệ thống và pháp lý phức tạp. Bối cảnh thế giới cho thấy xu hướng hợp pháp hóa có kiểm soát, đặt trọng tâm vào bảo vệ nhà đầu tư, giám sát rủi ro và thúc đẩy phát triển công nghệ. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị về việc xây dựng khung pháp luật quản lý tiền kỹ thuật số ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Giai đoạn 2018 - 2023 được đánh giá là một trong những giai đoạn biến động của kinh tế toàn cầu khi một loạt các sự kiện bất thường, ngoài dự đoán đã xảy ra, ảnh hưởng đến môi trường vĩ mô cũng như hệ thống tài chính tại các quốc gia. Theo đó, các nền kinh tế lớn trên thế giới bao gồm Mỹ, EU, Trung Quốc có những điều chỉnh lớn về chính sách tiền tệ - tài khóa và những điều chỉnh này đã ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô toàn cầu như lãi suất, tỉ giá. Nhóm tác giả đã thực hiện khái quát những thay đổi chính trong điều hành chính sách tiền tệ - tài khóa của ba quốc gia lớn và ước lượng tác động đến tỉ giá tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, chỉ có những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ của Mỹ và EU mới có ảnh hưởng đến tỉ giá, còn sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc và chính sách tài khóa cơ bản không có nhiều tác động đến tỉ giá Việt Nam.
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng