Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
aa

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)...

Trụ sở NHNN Chi nhánh TP.HCM


I- Quá trình phát triển hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của hai Pháp lệnh ngân hàng đã chính thức tách biệt hai chức năng: Quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh trong hoạt động ngân hàng. Theo đó, NHNN thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một ngân hàng trung ương; các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng (TCTD) kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật. Đây chính là cơ sở pháp lý đầu tiên để xây dựng nền móng phát triển của hệ thống ngân hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). NHNN Chi nhánh TP. HCM được tổ chức và hoạt động theo Quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương ban hành tại Quyết định số 72/NH-QĐ ngày 07/9/1990 của Tổng Giám đốc NHNN. Cơ cấu tổ chức của NHNN Chi nhánh TP. HCM ngày đầu thành lập gồm 8 phòng, ban chức năng với tổng số cán bộ, nhân viên thời kỳ này là 121 người. Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Chi nhánh TP. HCM được quy định tại Quyết định số 1359/QĐ-NHNN ngày 26/6/2019 của Thống đốc NHNN với tổng số cán bộ, công chức là 206 người. Mô hình hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đầu tiên của Việt Nam tại TP. HCM chính là NHTMCP Sài Gòn Công Thương được xây dựng thành công, thành lập vào năm 1987. Đây là thành tựu quan trọng về mô hình ngân hàng mới trong cơ chế kinh tế thị trường. Theo đó, NHNN Chi nhánh TP. HCM đã định hướng, xây dựng quy chế, mô hình, phương án hoạt động đối với các NHTMCP phát triển từ loại hình hợp tác xã. Sự phát triển NHTMCP trên địa bàn TP. HCM đã trở thành mô hình điểm và được nhân rộng phát triển ra cả nước.

Qua hơn 30 năm phát triển và mở rộng, có thể nói, hoạt động ngân hàng TP. HCM đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của TP. HCM nói riêng và cả nước nói chung. Trong đó, nổi bật và ấn tượng nhất là sự phát triển của hệ thống NHTMCP. Ban đầu thành lập, chỉ có 4 NHTMCP, với tổng tài sản 411 tỷ đồng; tổng vốn điều lệ là 35 tỷ đồng. Đến nay, sau hơn 30 năm, đã có 12 NHTMCP với tổng tài sản đạt trên 2,2 triệu tỷ đồng, tăng hơn 5.300 lần so với năm 1990; vốn điều lệ đạt 127.798 tỷ đồng, tăng hơn 3.650 lần so với năm 1990. Hệ thống các TCTD tại TP. HCM đã phát triển mạnh mẽ cả về loại hình sở hữu, quy mô, mạng lưới hoạt động, các dịch vụ ngân hàng cung ứng ngày càng đa dạng và hiện đại, trong đó, nhiều ngân hàng luôn đi đầu ứng dụng công nghệ cao, công nghệ hiện đại vào các sản phẩm, dịch vụ, mang đến cho khách hàng, người tiêu dùng những trải nghiệm tốt nhất, thuận lợi nhất.



Tập thể cán bộ, công chức NHNN Chi nhánh TP. HCM


II- Những thành tựu nổi bật của hoạt động ngân hàng đóng góp cho kết quả phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Trong hơn 30 năm qua, hệ thống ngân hàng

TP. HCM đã nỗ lực không ngừng, từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hoàn thiện bộ máy tổ chức, phát triển dịch vụ và công nghệ ngân hàng hiện đại nhằm xây dựng nền tài chính - ngân hàng vững mạnh, đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế. Bên cạnh các hoạt động truyền thống như huy động, cho vay vốn, hệ thống ngân hàng TP. HCM luôn đưa ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ thanh toán… phù hợp với các đối tượng khách hàng, đáp ứng được nhu cầu đa dạng và phong phú của người dân Thành phố. Vai trò cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế đã được minh chứng qua nhiều giai đoạn phát triển, vượt qua những thách thức, đóng góp quan trọng trong kết quả tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của TP. HCM.

1. Hoạt động ngân hàng trên địa bàn liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng vượt bậc, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Thứ nhất, hoạt động của các TCTD trên địa bàn ổn định và trong xu hướng phát triển tích cực, đặc biệt hoạt động huy động vốn và tín dụng tăng trưởng với tốc độ cao. Đến cuối năm 2020, vốn điều lệ của hệ thống các TCTD tại địa bàn TP. HCM đạt 217.038 tỷ đồng, tổng tài sản đạt trên 4,8 triệu tỷ đồng. Hệ thống các TCTD trên địa bàn TP. HCM luôn duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực trong các giai đoạn phát triển, cùng với nâng cao chất lượng về quản trị, điều hành, cơ cấu tổ chức, hiện đại hóa hệ thống thanh toán, hướng đến tăng trưởng an toàn và bền vững. Bình quân giai đoạn 10 năm gần nhất (2011 - 2020), hoạt động ngân hàng TP. HCM đã có những bước tiến vượt bậc, tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân đạt 13,7%, tín dụng tăng bình quân 13,6%.

Thứ hai, mạng lưới ngân hàng trên địa bàn có sự tăng trưởng vượt bậc với các hình thức sở hữu ngày càng đa dạng, phong phú. Trong đó, với sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thực hiện từng bước cam kết gỡ bỏ một số rào cản trong thị trường tài chính - ngân hàng như cấp phép thành lập và hoạt động cho một số ngân hàng 100% vốn nước ngoài, mở rộng dần phạm vi cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các hiện diện thương mại, hoạt động của các TCTD nước ngoài được mở rộng. Mạng lưới hoạt động của hệ thống các TCTD phát triển rộng khắp trên tất cả các địa bàn quận, huyện của TP. HCM, sự phát triển này tạo sự tiếp cận thuận lợi, tiện ích nhất cho người dân, doanh nghiệp khi giao dịch với ngân hàng; đồng thời, là yếu tố thúc đẩy mở rộng và tăng trưởng các hoạt động huy động vốn, cho vay và thanh toán của các ngân hàng trên địa bàn. Hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP. HCM cũng được hình thành và phát triển mạnh với hình thức sở hữu đa dạng, đủ các thành phần kinh tế: NHTM Nhà nước, NHTMCP, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức tài chính vi mô.

Đến cuối năm 2020, đã có tổng số 2.164 đơn vị TCTD hoạt động trên địa bàn TP. HCM, trong đó, ngân hàng liên doanh và nước ngoài là 89 đơn vị; văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là 27 đơn vị; NHTM là 1.967 đơn vị. Mạng lưới hoạt động của các TCTD đa dạng và địa bàn hoạt động phong phú, rộng khắp, đảm bảo cung ứng dịch vụ ngân hàng đến tất cả người dân của TP. HCM, bao gồm cả vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn…

Thứ ba, thị trường tiền tệ phát triển. Thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã có bước phát triển lớn mạnh, ngày càng hoàn thiện, trở thành bộ phận thị trường quan trọng của thị trường tài chính trên địa bàn Thành phố và của cả nước. Sự phát triển của thị trường tiền tệ trên địa bàn TP. HCM không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn, dịch vụ ngân hàng cho phát triển kinh tế, cho sự phát triển của các TCTD, với tư cách là thành viên thị trường mà còn góp phần thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách của Chính phủ, của NHNN trong suốt 10 năm qua, đặc biệt trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế và bất ổn kinh tế vĩ mô. Ở mỗi giai đoạn, thị trường tiền tệ trên địa bàn TP. HCM đều phản ánh diễn biến của nền kinh tế, đều chịu tác động của khó khăn và biến động về lãi suất, tỷ giá, giá vàng¹… song, thị trường vẫn duy trì sự ổn định và phát triển. Thành tựu này hội tụ các yếu tố về cơ chế, chính sách của NHNN, về hiệu quả các giải pháp điều hành và quản lý hệ thống các TCTD trên địa bàn, vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, đặc biệt, sự chỉ đạo, lãnh đạo của NHNN và Ủy ban Nhân dân (UBND) Thành phố rất linh hoạt, sáng tạo trong từng thời kỳ.

2. Hệ thống các TCTD trên địa bàn luôn chủ động, tích cực trong công tác triển khai thực hiện, xây dựng kế hoạch hành động và tham gia vào các chương trình của Chính phủ, NHNN và UBND TP. HCM

Xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển, hệ thống ngân hàng Thành phố đã tích cực triển khai, xây dựng kế hoạch hành động, thực hiện có hiệu quả các chính sách, quy định, các chương trình tín dụng theo chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ, NHNN và UBND Thành phố. Các chính sách, chương trình tín dụng theo từng thời kỳ đã góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cung ứng đầy đủ nguồn vốn theo nhu cầu, cho sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở và điều kiện cho tăng trưởng kinh tế của địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. Trong đó, có thể nói, thành tựu nổi bật của hoạt động ngân hàng trên địa bàn TP. HCM, mang lại những hiệu quả thiết thực cho khách hàng, doanh nghiệp và tạo ra hiệu ứng lan tỏa rộng khắp, chính là các chương trình tín dụng chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong giai đoạn vừa qua. Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; chỉ đạo của UBND TP. HCM tại Quyết định số 3907/QĐ-UBND ngày 01/8/2016 và Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng theo Quyết định số 1355/QĐ-NHNN ngày 28/6/2016 của Thống đốc NHNN đã đạt được nhiều kết quả tích cực, vừa là những giải pháp thiết thực và hiệu quả tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ cho sản xuất, kinh doanh và các ngành nghề ưu tiên, vừa tạo động lực cho tăng trưởng tín dụng.

Hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP. HCM đã có nhiều nỗ lực hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp với các biện pháp và hành động cụ thể như: Tổ chức triển khai thực hiện chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, chương trình cho vay bình ổn thị trường, chương trình cho vay các doanh nghiệp trong khu chế xuất - khu công nghiệp, cho vay kích cầu đầu tư, cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, cho vay doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ,… qua đó, đã góp phần giúp cho nhiều doanh nghiệp vượt qua khó khăn, duy trì phát triển sản xuất, kinh doanh.

Trong đó, một số chương trình trọng tâm được NHNN Chi nhánh TP. HCM và các TCTD trên địa bàn thực hiện xuyên suốt, tích cực, chủ động và sáng tạo, mang lại những hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp trên địa bàn.

Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp

Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp được triển khai thực hiện từ tháng 7/2012 đến nay. Điểm nổi bật của chương trình là các NHTM trên địa bàn chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp dưới hình thức giảm lãi suất cho vay. Ngoài việc giảm lãi suất vay vốn, trên địa bàn, các NHTM còn thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp theo hình thức tăng mức tín dụng, cơ cấu lại kỳ hạn nợ trả nợ, cho vay mới doanh nghiệp với lãi suất ngắn hạn VND ngang bằng với mức lãi suất cho vay 5 nhóm ngành, lĩnh vực kinh tế do NHNN chỉ đạo theo từng thời kỳ. Kết quả thực hiện mỗi năm đều vượt kế hoạch đặt ra từ đầu năm. Chương trình được thực hiện theo 3 hình thức như sau: (i) Thực hiện hỗ trợ theo hình thức đăng ký gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp; (ii) thực hiện hỗ trợ theo hình thức tổ chức lễ ký kết theo chuyên đề; (iii) triển khai hình thức kết nối do UBND các quận, huyện chủ trì, NHNN Chi nhánh TP. HCM và các TCTD trên địa bàn quận, huyện, cùng các đơn vị tổ chức khác phối hợp.

Qua 9 năm thực hiện chương trình, hoạt động ngân hàng đã cung ứng tổng nguồn vốn tín dụng gần 1,92 triệu tỷ đồng cho 97.691 lượt khách hàng vay vốn. Đây là kết quả tích cực và nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP. HCM, trực tiếp đồng hành cùng doanh nghiệp và chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, khách hàng, góp phần quan trọng vào những kết quả tăng trưởng của kinh tế Thành phố trong giai đoạn vừa qua.

Chương trình bình ổn thị trường

Đây là một trong những chương trình tín dụng trọng điểm của TP. HCM, cung ứng nguồn vốn lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu trên địa bàn, thu hút các TCTD đăng ký tham gia. Chương trình bình ổn thị trường đã được các TCTD trên địa bàn Thành phố quan tâm thực hiện có hiệu quả với hạn mức tín dụng đăng ký năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo cung ứng nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu của người dân.

Chương trình được TP. HCM triển khai từ năm 2002 và được Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao, thực hiện nhân rộng điển hình này trên phạm vi toàn quốc. Theo đó, trên địa bàn TP. HCM, các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn được ngân sách Thành phố hỗ trợ lãi vay với mức lãi suất thực trả hợp lý, đồng thời, Thành phố còn hỗ trợ cả về mặt thị trường tiêu thụ, thông qua việc đưa hàng hóa vào mạng lưới các siêu thị như Satra, Co.op mart,… Từ năm 2013 đến nay, hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP. HCM đã đồng hành cùng chương trình, qua đó, ngân sách Thành phố không còn phải hỗ trợ lãi vay cho doanh nghiệp mà sẽ do các NHTM hỗ trợ cho vay với lãi suất phù hợp, lãi suất ưu đãi.

Chương trình bình ổn thị trường do UBND TP. HCM chỉ đạo và được Sở Công thương tổ chức thực hiện hàng năm bắt đầu từ ngày 01/4 năm trước đến ngày 31/3 năm sau, với các chương trình cụ thể sau: Chương trình lương thực - thực phẩm thiết yếu, chương trình mùa khai trường, chương trình bình ổn mặt hàng sữa, chương trình bình ổn các mặt hàng dược phẩm thiết yếu.

3. Hiện đại hóa hệ thống thanh toán, ứng dụng công nghệ hiện đại vào các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mang lại tiện ích cao cho khách hàng

Các TCTD đã có những kết quả quan trọng và có ý nghĩa đột phá về phát triển dịch vụ ngân hàng gắn liền với sự phát triển vượt bậc trong ứng dụng và phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại. Các dịch vụ ngân hàng điện tử xuất hiện cho phép khách hàng giao dịch ngân hàng tại nhà, giao dịch mọi lúc, mọi nơi, tiện ích, tiện lợi, an toàn và tiết giảm chi phí tối đa. Bên cạnh đó, số lượng dịch vụ cũng phát triển nhanh, đa dạng và phong phú, các dịch vụ thẻ, Internet Banking, Mobile Banking, thanh toán, chuyển tiền điện tử, ví điện tử… có tốc độ tăng trưởng cao qua từng năm. Trong giai đoạn 15 năm gần đây, năm 2005, số lượng thẻ trên địa bàn chỉ là 1 triệu thẻ, thì đến năm 2020, số lượng thẻ đạt 15,6 triệu thẻ, tăng gấp 15,6 lần, đi kèm với dịch vụ này là hệ thống mạng lưới máy ATM, POS không ngừng mở rộng. Số lượng ATM hiện nay là gần 4 ngàn máy, tăng gấp 7,9 lần so với năm 2005; trong khi đó, số lượng máy POS tăng 14 lần so với năm 2005. Kết quả của quá trình này không chỉ thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế mà đã và đang thay đổi tư duy, nhận thức và thói quen thanh toán và sử dụng dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp và người dân, số lượng khách hàng tham gia sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử có tốc độ tăng trưởng tốt và đạt mức tăng trên 50% qua từng năm.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trên thế giới, các ngân hàng trên địa bàn đã đẩy nhanh việc đầu tư và ứng dụng công nghệ, phát triển dịch vụ ngân hàng, hoàn thành hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin trong hoạt động dịch vụ ngân hàng. Hệ thống điện tử liên ngân hàng từng bước được hoàn thiện, hệ thống xử lý tập trung, online toàn hệ thống của từng TCTD được thực hiện, giúp cho mục tiêu điều hành, quản lý, thông tin báo cáo, giám sát từ xa, bảo mật và xây dựng trung tâm dự phòng,… được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.

Đặc biệt, trong năm 2020, với sự bùng phát của dịch Covid-19 trên toàn cầu và yêu cầu nghiêm ngặt về giãn cách xã hội, dịch vụ ngân hàng điện tử có điều kiện thuận lợi để đạt được những bước phát triển vượt bậc, xuất hiện yếu tố đột phá trong mở rộng và phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, người dân sử dụng phương tiện thanh toán thẻ, thanh toán online và ví điện tử để mua hàng hóa, dịch vụ và có xu hướng sử dụng các trang web thương mại điện tử… Theo đó, tốc độ tăng trưởng các dịch vụ thẻ, Internet Banking và ví điện tử trên địa bàn bình quân tăng khoảng 30% - 40% trong năm 2020.

III- Bài học kinh nghiệm

Năm 2020 với rất nhiều tác động ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế - xã hội do đại dịch Covid-19 bùng phát. Do đó, sự ổn định và an toàn xã hội, sự tăng trưởng kinh tế trong năm 2020 là kết quả rất ấn tượng của Việt Nam, khẳng định vị trí, thương hiệu và sức mạnh của lòng yêu nước, sự đoàn kết dân tộc. Từ những thành tựu của 30 năm đổi mới và phát triển, những bài học kinh nghiệm được rút ra cho hoạt động ngân hàng trên địa bàn TP. HCM như sau:

Thứ nhất, về hội nhập quốc tế trong hoạt động ngân hàng: Xuyên suốt từng giai đoạn phát triển của hoạt động ngân hàng TP. HCM, nhiều quy định trong hoạt động tiền tệ và ngân hàng được ban hành hướng đến thực hiện các cam kết hội nhập cũng như từng bước áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động. Hệ thống các TCTD cần thay đổi để đáp ứng các quy chuẩn quốc tế về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Bài học kinh nghiệm trong giai đoạn phát triển vừa qua cho thấy, cần xây dựng những định hướng mục tiêu dài hạn, làm cơ sở cho các TCTD triển khai các kế hoạch kinh doanh hiệu quả, góp phần cho sự phát triển bền vững của cả hệ thống trong dài hạn và tạo nền tảng để xây dựng thương hiệu ngân hàng uy tín trên thị trường quốc tế.

Thứ hai, về phát triển an toàn, bền vững của hệ thống ngân hàng: Trong quá trình 30 năm phát triển của hệ thống ngân hàng TP. HCM, đã có những giai đoạn hệ thống ngân hàng Thành phố phát triển mạnh mẽ, nhưng cũng có những giai đoạn hoạt động ngân hàng phải đối diện với những thách thức trong vấn đề quản trị, điều hành cũng như chất lượng tăng trưởng. Cụ thể, giai đoạn 2005 - 2015, những tồn tại, bất cập về chất lượng và năng lực quản trị, điều hành ngân hàng đã dẫn đến nhiều hệ lụy phát sinh, gây mất an toàn hệ thống và gia tăng nợ xấu. Những vấn đề phát sinh như chạy đua lãi suất, sở hữu chéo cổ phần giữa các ngân hàng, cho vay doanh nghiệp “sân sau”… những tồn tại này đã tác động trực tiếp đến chất lượng tăng trưởng và an toàn hoạt động hệ thống các TCTD, để lại nhiều hệ lụy mà phải mất rất nhiều thời gian cũng như nỗ lực để tháo gỡ, xử lý, từng bước cải thiện chất lượng quản trị, điều hành, xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hoạt động của hệ thống. Bài học kinh nghiệm về phát triển an toàn, bền vững chỉ ra rằng, phát triển hoạt động ngân hàng phải luôn quan tâm đến nâng cao năng lực quản trị, điều hành, công tác quản trị nội bộ, quản trị nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cán bộ thông qua đào tạo về chuyên môn cũng như đạo đức.

Thứ ba, về phát triển mạng lưới: Hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP. HCM đã trải qua những giai đoạn phát triển mạnh cả về số lượng cũng như hình thức sở hữu. Theo đó, mạng lưới ngân hàng phát triển nhanh chưa từng thấy, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh là việc phát triển mạnh về số lượng nhưng lại chưa quan tâm tương ứng đến hiệu quả, dẫn đến khó quản lý, kiểm soát hoạt động, từ đó, tạo nên cạnh tranh không lành mạnh cả trong và ngoài hệ thống, tiêu chí thu hút khách hàng được đưa lên hàng đầu đã làm phát sinh nhiều rủi ro trong hoạt động. Chính vì vậy, giai đoạn vừa qua, toàn hệ thống ngân hàng đã phải sắp xếp, tổ chức lại mạng lưới hoạt động, quan tâm đến địa bàn vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn để tăng hiệu quả hoạt động, đảm bảo phân bố đồng đều hoạt động ngân hàng trên địa bàn, tạo điều kiện cho người dân thuận tiện trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Bài học về sự sắp xếp và phát triển mạng lưới của từng đơn vị và trong cả hệ thống TCTD, giúp tạo cơ sở, nền tảng cho sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng trong tương lai.

Thứ tư, về phát triển công nghệ và dịch vụ ngân hàng: Giai đoạn vừa qua cũng là thời kỳ hoạt động ngân hàng phát triển mạnh về dịch vụ, ứng dụng công nghệ ngân hàng trong quản trị, điều hành và phát triển công nghệ. Theo đó, dịch vụ thẻ ATM, POS, E-Banking ra đời và phát triển mạnh, đi kèm với các dịch vụ ví điện tử, thương mại điện tử... tuy nhiên, quá trình phát triển công nghệ và dịch vụ ngân hàng cũng cho thấy những hạn chế và tồn tại về ý thức của người dân trong sử dụng dịch vụ, an toàn bảo mật thông tin cá nhân trong các giao dịch, thói quen sử dụng tiền mặt và cơ chế chính sách cần thiết cho việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đòi hỏi phải có sự thay đổi cho kịp thời, phù hợp hơn với thực tiễn đặt ra. Theo đó, để đẩy mạnh phát triển công nghệ và dịch vụ cần phải được triển khai trên nhiều phương diện, từ việc nâng cấp công nghệ, tăng tính bảo mật, còn phải quan tâm tuyên truyền thường xuyên cho khách hàng, tạo nền tảng cho một xã hội văn minh, sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại trong các hoạt động giao dịch.


¹ Với hai chính sách hiệu quả và ấn tượng: Chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ; theo đó, đã loại bỏ hẳn tác động kép vàng - ngoại tệ, yếu tố đầu cơ, nắm giữ vàng, ngoại tệ gây ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiền tệ, hàng hóa, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và chính sách lãi suất linh hoạt của giai đoạn này đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, chỉ áp dụng trần lãi suất tiền gửi bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng và trần lãi suất cho vay ngắn hạn tiền đồng đối với 5 nhóm, lĩnh vực ưu tiên.

Nguyễn Hoàng Minh

Phó Giám đốc phụ trách NHNN Chi nhánh TP. HCM

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Nhân kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam, trải qua bao nhiêu thăng trầm, hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển trên mọi mặt, mọi lĩnh vực. Với hơn 15 năm làm việc trong lĩnh v...
Xem thêm
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô