Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
aa

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.

Công nhân Công ty Xây dựng số 2 đang thi công phần móng để đặt máy in nền và in lõm. Ông Mansor (thứ nhất bên trái) - Viện trưởng Viện Thiết kế, Tập đoàn Delarue Gioerry đang kiểm tra vị trí đặt máy

Giai đoạn từ năm 1976 - 1985, đất nước bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật để đưa cả nước đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV. Vào tháng 5/1978, Việt Nam công bố đổi tiền lần thứ 5 trên phạm vi toàn quốc, thống nhất tiền tệ trong cả nước. Kinh tế Việt Nam lại phải đối mặt với những tình thế hết sức khó khăn, nhu cầu chi ngân sách Nhà nước đột ngột tăng cao - nhất là chi chính sách xã hội và chi xây dựng cơ bản, đời sống của Nhân dân nói chung và của công chức nói riêng vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Trong bối cảnh đó, chúng ta còn chi viện cả sức người, sức của giúp Nhân dân Campuchia chiến đấu thoát khỏi thảm họa của bọn diệt chủng Pôn-Pốt... Kết quả là bội chi ngân sách Nhà nước không ngừng gia tăng, bình quân trong giai đoạn từ năm 1976 - 1985, bội chi ngân sách Nhà nước lên tới 30%/năm, lạm phát cũng tăng rất cao.

Thời gian này, ngành Ngân hàng có 2 xưởng in tiền nhỏ in nền (offset) ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, do kỹ thuật in lạc hậu nên ta vẫn phải thuê nước Cộng hòa Dân chủ Đức in tiền với giá in rất cao. Trước tình hình đất nước và những yêu cầu đòi hỏi thực tế, Đảng và Nhà nước nhận thấy việc xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia với công nghệ cao là yêu cầu vô cùng cấp thiết. Để hiện thực hóa, Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo và được Đảng, Nhà nước chấp thuận chủ trương cho phép xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia.

Xác định xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia là công trình đặc biệt cấp quốc gia cần phải có nguồn vốn lớn, nên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã báo cáo trình Bộ Chính trị phê duyệt. Sau khi được Bộ Chính trị phê duyệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ủy quyền cho Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (lúc đó là ông Đỗ Mười) ký Quyết định số 370/CT ngày 27/12/1983 phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia (Công trình K84).

Công trình xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia có quy mô, trình độ kỹ thuật theo công nghệ tiên tiến của nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Để triển khai Công trình K84, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã cho thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước gồm: Trưởng ban là Bộ trưởng Bộ Xây dựng; Phó Trưởng ban là Phó Tổng Giám đốc (nay là Phó Thống đốc) Ngân hàng Nhà nước; Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Vật tư, Bộ Công an là Ủy viên. Bộ Xây dựng giao cho Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội làm Tổng thầu xây dựng. Tổng Giám đốc (nay là Thống đốc) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 26-NH.QĐ ngày 23/3/1984 về việc thành lập Ban Quản lý Công trình K84. Công trình K84 được xây dựng với quy mô lớn, hơn 4 ha nằm trên địa bàn xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Năm 1983, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Tài chính - Kế toán, tôi được phân công về làm việc tại Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Cầu Thăng Long. Là một cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình, năm 1988 tôi đã quyết định chuyển công tác, nhận nhiệm vụ về làm việc tại Ban Quản lý Công trình K84. Lúc đó, Giám đốc Ban Quản lý Công trình K84 là ông Nguyễn Nghĩa Bình, tiến sĩ kinh tế (nguyên là Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam); Phó Giám đốc có 3 ông là: ông Thái Văn Trạch, ông Nguyễn Trọng Hải (nguyên là cán bộ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) và ông Nguyễn Huy Tựa (nguyên là cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Nội). Bà Trần Thị Chiểu, Kế toán trưởng (nguyên là cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam), tôi làm kế toán viên, có 4 cán bộ là kỹ sư, nhân viên, 4 nhân viên bảo vệ. Khi công trình đi vào thi công xây dựng các hạng mục chính, Ban Quản lý đã phải thuê thêm 4 kỹ sư xây dựng để giám sát thi công công trình và mỗi cán bộ, nhân viên lúc đó đều phải kiêm nhiệm thêm các việc khác nữa.

Tôi còn khắc sâu kỷ niệm khi đến nhận công tác tại Ban Quản lý Công trình K84, trước mắt tôi là một công trường rộng mênh mông, xung quanh là những ruộng lúa, ruộng rau, khu dân cư thì ở xa, phương tiện đi lại khó khăn chứ không thuận tiện như bây giờ. Khắp công trường ngổn ngang gạch, đá, cát, sỏi… các máy xúc, máy đào, máy ủi, cả công trường đang cấp tập thi công. Ban Quản lý Công trình chỉ có một dãy phòng nhỏ để ngồi làm việc. Vì ở xa trung tâm nên điều kiện vật chất rất thiếu thốn và phương tiện đi lại khi đó chủ yếu là xe đạp, nhưng anh chị em chúng tôi đều nhận thức phải luôn cố gắng khắc phục khó khăn. Để công trình sớm đưa vào hoạt động, Ban Giám đốc Ban Quản lý luôn có mặt ở công trường, trực tiếp giám sát, đôn đốc, nhắc nhở các đơn vị thi công, cũng như động viên anh em cố gắng hết sức mình, tập trung cao độ cho công việc, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Ban Lãnh đạo ngành Ngân hàng giao.

Tất cả cán bộ, nhân viên, kỹ sư xây dựng của Ban Quản lý Công trình K84 đã cùng với các cán bộ, công nhân các đơn vị thi công: Viện Thiết kế Quy hoạch Hà Nội; Viện Kinh tế (Bộ Xây dựng); Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội (đơn vị làm Tổng thầu); Công ty Xây dựng số 2; Công ty Xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh; Công ty Vật tư Vận tải; Xí nghiệp Gỗ Bạch Đằng; Tổng Công ty Lắp máy Lilama; Công ty Lắp máy 69.1; Công ty lắp đặt thiết bị phòng cháy, chữa cháy, an ninh, bảo vệ (Bộ Công an); Tổng Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport) - do các thiết bị phải nhập khẩu từ nước ngoài thì đều được làm thủ tục nhập khẩu qua Technoimport… cùng nhau nỗ lực, tập trung sức người, trí tuệ, kinh nghiệm, tâm huyết, trách nhiệm xây dựng nên Công trình K84. Tất cả cán bộ, công nhân nhận nhiệm vụ xây dựng luôn xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, trách nhiệm thật sự lớn lao với đất nước và với ngành Ngân hàng. Từ đó, họ đã dốc hết sức mình, không quản khó khăn, gian khổ, ngày đêm có mặt thi công trên công trường… Nhờ đó, Công trình K84, với khối lượng công việc khổng lồ và rất nhiều hạng mục đã hoàn thành với một tiến độ nhanh ít thấy thời bấy giờ.

Sau 7 năm nỗ lực, tâm huyết, tập trung cao độ thực hiện nhiệm vụ thi công xây dựng công trình trọng điểm của Nhà nước, đội ngũ cán bộ, kỹ sư, nhân viên Ban Quản lý Công trình K84 đã hoàn thành mong ước, kỳ vọng của đất nước, của ngành Ngân hàng. Ngày 22/4/1991, Nhà máy In tiền Quốc gia đã chính thức đi vào hoạt động, đồng tiền đầu tiên được in ra, đó là đồng tiền đạt chất lượng hoàn hảo, với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, đúng thiết kế, đúng yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Nhà máy In tiền Quốc gia chính thức đi vào hoạt động đã giúp Ngân hàng Trung ương chủ động quản lý kế hoạch in tiền mặt, từ đó góp phần ổn định chính sách tiền tệ, thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Khoảng cuối năm 1991, trong một buổi làm việc giữa Ban Quản lý Công trình K84 và đoàn chuyên gia Đức, một chuyên gia, đại diện của Ngân hàng Trung ương Đức lúc đó đã hỏi ông Nguyễn Nghĩa Bình (lúc này đã chuyển sang làm Giám đốc Nhà máy In tiền Quốc gia) rằng: "Khi quyết định xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia, các ngài có tính toán trước, sau này có xảy ra sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu hay không?” Ông Bình đã rất tự tin và khẳng định: “Chúng tôi đều phải tính toán trước để có thể chủ động trong việc in tiền, đảm bảo an ninh tiền tệ, góp phần ổn định chính sách tiền tệ, ổn định nền kinh tế đất nước".

Sau khi Nhà máy In tiền Quốc gia đi vào hoạt động, hầu hết anh chị em Ban Quản lý Công trình K84 được chuyển vào làm việc tại các bộ phận của Nhà máy. Ông Nguyễn Huy Tựa về làm việc tại Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Thăng Long, sau này là Ủy viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, còn lại một số cán bộ được chuyển về làm việc tại Ngân hàng Nhà nước: ông Nguyễn Trọng Hải về làm việc tại Vụ Tài chính - Kế toán; ông Thái Văn Trạch về làm việc tại Văn phòng; tôi về làm việc tại Cục Quản trị và tiếp tục mang kinh nghiệm, nhiệt huyết của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của ngành Ngân hàng cho đến lúc nghỉ hưu theo chế độ.

Cách đây không lâu, chúng tôi - những người đã từng tham gia làm việc tại Ban Quản lý Công trình K84 mới có dịp gặp mặt. Trong bữa cơm thân mật, đầm ấm sau gần 30 năm, ông Nguyễn Nghĩa Bình rơm rớm nước mắt khi ôn lại kỷ niệm những ngày còn vất vả, khó khăn nhưng tinh thần thì hăng hái, nhiệt huyết, không quản ngày đêm, túc trực thi công, đổ bê tông, lắp đặt thiết bị cho kịp tiến độ, bị đói bụng, cả công trường làm một nồi khoai, sắn luộc mà vẫn vui…

Một anh trước đây, lúc tham gia thi công Công trình K84 còn là kỹ sư trẻ, nay đã là Giám đốc một Công ty Xây dựng Hà Nội tâm sự: “Thời gian tham gia xây dựng Công trình K84 là một áp lực lớn đối với chúng tôi, Ban Quản lý đưa ra yêu cầu thi công tất cả các hạng mục phải đảm bảo tuyệt đối chính xác, an toàn, chất lượng, đúng thiết kế, vì nếu chỉ cần lệch đi 1 cm thì việc lắp đặt các thiết bị của Nhà máy, trong đó có thiết bị in tiền sẽ không đảm bảo. Bởi lẽ để in được ra đồng tiền theo đúng thiết kế, phải cần độ chính xác tuyệt đối, không cho phép sai lệch, dù chỉ là 1 mm. Chúng tôi nhận thấy trách nhiệm vô cùng lớn, đã quyết tâm thực hiện nhiệm vụ thi công tuyệt đối đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của Ban Quản lý. Đến ngày Ngân hàng Nhà nước công bố in ra đồng tiền đầu tiên với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, chúng tôi mừng lắm và thấy vô cùng tự hào vì mình đã có đóng góp nhỏ cho sự kiện lớn lao này”. Và những kỹ sư, cán bộ này còn mong ước một ngày nào đó sẽ được vào thăm quan lại nơi mình đã từng đóng góp, tham gia xây dựng nên công trình lịch sử.

Thấm thoắt Nhà máy In tiền Quốc gia đã đi vào hoạt động được 30 năm, đóng góp rất lớn cho sự nghiệp phát triển của ngành Ngân hàng. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam, tôi có một vài lời chia sẻ, ôn lại kỷ niệm một thời đã qua: Vinh dự, tự hào cùng với đội ngũ cán bộ, kỹ sư tham gia đóng góp phần công sức nhỏ bé cho việc xây dựng nên công trình, đó là xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia, góp phần vào sự phát triển của ngành Ngân hàng. Chúc ngành Ngân hàng luôn phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều thành tích lớn lao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng ta.

Trần Thị Minh Hường

Nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản trị, NHNN

Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Dấu ấn xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước

Nhân kỷ niệm 70 năm thành lập ngành Ngân hàng Việt Nam, trải qua bao nhiêu thăng trầm, hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển trên mọi mặt, mọi lĩnh vực. Với hơn 15 năm làm việc trong lĩnh v...
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô