Những thách thức về biến đổi khí hậu và hàm ý chính sách đối với nợ công

Thị trường tài chính
Biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu, đòi hỏi đầu tư tài chính lớn, đặc biệt từ ngân sách nhà nước và sự hỗ trợ của các nước phát triển. Việc cân bằng giữa mục tiêu khí hậu và tính bền vững nợ công là vấn đề phức tạp. Bài viết phân tích những hạn chế tài chính mà các nhà hoạch định chính sách gặp phải và đề xuất một số hàm ý chính sách.
aa

Tóm tắt: Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, đặt ra thách thức cho các quốc gia trên thế giới. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi đầu tư tài chính đáng kể, trong đó có nguồn ngân sách nhà nước với khuyến nghị các nước phát triển cần hỗ trợ tài chính cho các nước kém phát triển. Việc xây dựng các chính sách cân bằng giữa các mục tiêu về khí hậu và duy trì tính bền vững của nợ công đặt ra nhiều thách thức. Bài viết này nhằm thảo luận về những hạn chế tài chính cơ bản mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt khi theo đuổi các mục tiêu này và đưa ra một số hàm ý chính sách.

Từ khóa: Biến đổi khí hậu, tài chính, nợ công.

CLIMATE CHANGE CHALLENGES AND POLICY IMPLICATIONS FOR GOVERNMENT DEBT

Abstract: Climate change is a global issue that presents challenges to countries around the world. Addressing this problem requires significant financial investment, including State budget with some recommendations for developed countries to support under developed countries. Developing policies that balance climate goals with maintaining government debt sustainability poses many challenges. This article focuses on discussing the basic financial constraints that policymakers face when pursuing these goals, thereby, providing some policy implications.

Keywords: Climate change, finance, government debt.

1. Giới thiệu

Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, đặt ra thách thức cho các quốc gia trên thế giới. Dữ liệu gần đây cho thấy nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 1,1°C trong giai đoạn 2011 - 2020 so với thời kỳ tiền công nghiệp 1850 - 1900 (UNEP, 2023). Các nhà khoa học dự đoán rằng, nếu mức phát thải hiện tại vẫn tiếp diễn, lượng ngân sách carbon còn lại sẽ cạn kiệt vào năm 2030, khiến việc hành động để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trở nên vô cùng quan trọng vì cả lý do sinh tồn và kinh tế (Bolton và cộng sự, 2022). Tuy nhiên, việc ứng phó với biến đổi khí hậu rất tốn kém, với ước tính từ "3 đến 6 nghìn tỉ USD mỗi năm cho đến năm 2050" để đạt được các mục tiêu do Thỏa thuận chung Paris đặt ra, cao hơn nhiều so với nguồn tài chính khí hậu toàn cầu hằng năm hiện nay là 630 tỉ USD, chủ yếu được tài trợ bằng nợ (Prasad và cộng sự, 2022). Điều này tạo ra mối liên hệ giữa hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và nợ, khiến việc thiết kế các chính sách cân bằng giữa hai yếu tố này trở nên cần thiết. Bài viết này nhằm thảo luận một số hạn chế tài chính cơ bản mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt để đạt được các mục tiêu của chính sách về biến đổi khí hậu và đưa ra một số hàm ý chính sách.

Điều đáng chú ý là mặc dù phần lớn lượng khí thải carbon dioxide đến từ các nền kinh tế lớn, các quốc gia thu nhập thấp có lượng khí thải thấp hơn vẫn bị ảnh hưởng đáng kể bởi biến đổi khí hậu. Trên thực tế, tính đến năm 2020, 4 nền kinh tế lớn gồm Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ chịu trách nhiệm cho 60% lượng khí thải carbon toàn cầu, trong đó riêng Trung Quốc đóng góp khoảng 1/3 tổng lượng khí thải (Bolton và cộng sự, 2022). Ngược lại, các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thường gánh chịu phần lớn tác động của biến đổi khí hậu, mặc dù ít chịu trách nhiệm hơn trong việc gây ra biến đổi khí hậu. Thiệt hại về chi phí của các thảm họa liên quan đến khí hậu có thể rất lớn, ngay cả đối với các quốc gia thường được coi là “có khả năng phục hồi tốt hơn” (Vasic-Lalovic, 2023). Do không gian tài chính hạn chế, việc triển khai các chương trình, dự án tập trung vào thích ứng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở các nước thu nhập thấp, đang phát triển có thể đầy thách thức.

Theo Prasad và cộng sự (2022), giá năng lượng tăng đột biến có thể cản trở quá trình chuyển đổi sang công nghệ xanh và ít carbon ở nhiều quốc gia. Hơn nữa, cuộc xung đột Nga - Ukraine đã khiến chi phí thiết yếu cho quá trình chuyển đổi này tăng đáng kể. Ngoài ra, chính sách tiền tệ thắt chặt ở các nền kinh tế tiên tiến và lợi suất trái phiếu chính phủ tăng ở các nền kinh tế đang phát triển, mới nổi có thể gây ra thách thức đối với việc tài trợ cho các dự án khí hậu. Để đạt được các mục tiêu bền vững về khí hậu, tài khóa và nợ công, các quốc gia cần xây dựng một chiến lược toàn diện kết hợp với các biện pháp tài khóa, tiền tệ và kinh tế vĩ mô, cũng như các chính sách hợp tác quốc tế.

2. Biến đổi khí hậu và những vấn đề liên quan tới tài chính, nợ công

Mức nợ công tăng cao ở nhiều quốc gia đang làm phức tạp thêm những thách thức về khí hậu hiện nay.

Trên toàn cầu, tài chính khí hậu ước tính vào khoảng 630 tỉ USD hằng năm, chiếm khoảng 0,7% GDP thế giới. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là nguồn tài trợ này chủ yếu đến từ trái phiếu xanh, chỉ chiếm 3 đến 3,5% thị trường trái phiếu toàn cầu (Spinaci, 2022). Trong khi đó, các dự báo cho thấy cần đầu tư từ 1 đến 6 nghìn tỉ USD hằng năm để đạt được mục tiêu 2°C của Thỏa thuận chung Paris và các mục tiêu thích ứng của thỏa thuận này, chiếm 1 đến 7% GDP thế giới cho đến năm 2050 (Belianska và cộng sự, 2022).

Ngoài ra, người ta dự đoán rằng tỉ lệ nợ công toàn cầu sẽ tăng 1 điểm phần trăm hằng năm trong trung hạn, nhanh hơn tốc độ tăng trước đại dịch (IMF, 2023). Sự gia tăng mức nợ công trên toàn thế giới đặt ra những thách thức về tài chính cho các nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu, đặc biệt là ở các quốc gia thu nhập thấp, nơi không gian tài chính bị hạn chế. Trên thực tế, trong thập kỷ qua, lượng nợ công ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình đã tăng gần gấp đôi (Vasic-Lalovic, 2023). Do đó, nhiều quốc gia có khả năng phục hồi kém hơn trước biến đổi khí hậu phải đối mặt với quyết định khó khăn giữa việc thực hiện các biện pháp giảm mức nợ công hoặc tăng tài trợ khí hậu cho các dự án thích ứng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường để bảo vệ cuộc sống của hàng triệu cá nhân bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu.

Mặc dù nguồn tài trợ từ các nền kinh tế tiên tiến, các nhà tài trợ song phương và đa phương đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua, nhưng số tiền này vẫn còn thiếu đáng kể so với nhu cầu tài chính để thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Điều này đòi hỏi sự tham gia của “nguồn tài trợ tư nhân và không ưu đãi” (Prasad và cộng sự, 2022).

Các cơ chế tài chính nhằm hỗ trợ hành động ứng phó với biến đổi khí hậu không những không cung cấp đủ nguồn tài chính mà còn được phân bổ không đồng đều giữa các quốc gia.

Theo Belianska và cộng sự (2022), các quốc gia ở châu Phi cận Sahara (SSA), nơi phát thải ít carbon nhất nhưng lại chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ biến đổi khí hậu, tiếp cận nguồn tài trợ cho các sáng kiến liên quan đến khí hậu thông qua 4 kênh chính: Tài trợ ưu đãi, công cụ nợ có tác động đến khí hậu, các chương trình tín dụng carbon quốc tế và các chương trình bảo hiểm liên quan đến khí hậu. Trong số các kênh này, tài trợ ưu đãi cho hành động ứng phó với khí hậu thường được ưa chuộng do cung cấp các khoản tài trợ và khoản vay ưu đãi. Từ năm 2009 đến năm 2019, các khoản tài trợ chiếm 54,8% tổng nguồn tài trợ cho khí hậu của các quốc gia SSA, trong khi công cụ nợ chiếm 44,7%. Trong danh mục nợ, các khoản vay ưu đãi chiếm 82% tổng số. Đáng chú ý, tỉ lệ tài trợ ưu đãi cho các dự án khí hậu do các nhà tài trợ đa phương cung cấp có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia nhận tài trợ. Ví dụ, trong cùng kỳ, 5 trong số 48 quốc gia1 ở SSA đã nhận được 32% nguồn tài trợ ưu đãi về khí hậu.

Các nền kinh tế tiên tiến đã cam kết phân bổ 100 tỉ USD hằng năm cho tài chính khí hậu đối với các quốc gia mới nổi và đang phát triển vào năm 2020. Điều này tạo cơ hội cho các quốc gia đó tiếp cận nguồn tài trợ dành cho các biện pháp thích ứng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, một số thách thức phải được khắc phục. Ví dụ, khung thời gian kéo dài cần thiết để thấy được lợi nhuận từ các dự án liên quan đến khí hậu có thể cản trở nguồn tài trợ ưu đãi do lo ngại về sự không chắc chắn. Ngoài ra, tiêu chí tiếp cận tài chính khí hậu khác nhau rất nhiều giữa các nhà tài trợ và số tiền tài trợ được phê duyệt tương đối hạn chế, với thời hạn giải ngân dài (Belianska và cộng sự, 2022).

Những ràng buộc về tài chính và chính trị ảnh hưởng đáng kể đến sự lựa chọn giữa cách tiếp cận dựa trên chi tiêu và doanh thu.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, 2023) đã xây dựng một số kịch bản cho một nền kinh tế tiên tiến tiêu biểu, liên quan đến sự đánh đổi giữa các lựa chọn khác nhau. Trong kịch bản đầu tiên, quốc gia này chỉ dựa vào cách tiếp cận dựa trên chi tiêu, bao gồm tăng đáng kể đầu tư xanh công và trợ cấp để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Tuy nhiên, điều này đi kèm với chi phí tài chính lớn và có thể dẫn đến tỉ lệ nợ trên GDP tăng khoảng 45%, cũng như chi phí đi vay cao hơn và rủi ro nợ không bền vững cao hơn. Kịch bản thứ hai liên quan đến việc tăng chi tiêu công ở mức vừa phải hơn, khiến tỉ lệ nợ trên GDP tăng không mạnh, nhưng vẫn chưa đủ để đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Về phía doanh thu, chỉ áp dụng định giá carbon sẽ đòi hỏi mức giá cao hơn nhiều, khoảng 280 USD/tấn để đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 so với mức trung bình hiện tại là 20 USD một tấn ở nhiều quốc gia. Mặc dù điều này có thể làm giảm bớt áp lực tài chính, nhưng có thể không được ủng hộ về mặt chính trị.

Các kịch bản tương tự cũng được IMF (2023) hiệu chỉnh cho các nền kinh tế thị trường mới nổi. Nếu các quốc gia này lựa chọn quá trình chuyển đổi xanh dựa trên chi tiêu, với mức giá trần carbon là 45 USD/tấn trong giai đoạn 20 năm (từ 2030 - 2050), tăng đầu tư công và trợ cấp xanh để đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2060, tỉ lệ nợ công trên GDP trung bình của họ được dự đoán sẽ tăng 50 điểm phần trăm. Kịch bản này chỉ ra rằng, các quốc gia này có xu hướng phải đối mặt với chi phí đi vay tăng và mức nợ công của họ có thể trở nên không bền vững. Ngược lại, việc tăng dần chi tiêu công và đầu tư có thể khiến mục tiêu môi trường trở nên khó đạt được.

Những thách thức về tài chính mà các nước sản xuất nhiên liệu hóa thạch gặp phải trong bối cảnh “chuyển đổi năng lượng toàn cầu” là khác nhau (Puyo và cộng sự, 2023). Mặc dù việc giảm phát thải carbon và chuyển sang các công nghệ thân thiện với môi trường là quan trọng để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, nhưng điều này sẽ tác động đến doanh thu của các quốc gia phụ thuộc nhiều vào sản xuất nhiên liệu hóa thạch. Nhu cầu năng lượng nhiên liệu hóa thạch giảm sẽ ảnh hưởng đến các quốc gia này một cách khác nhau, vì một số nước lớn như Mỹ, Canada và Trung Quốc sở hữu nền kinh tế đa dạng, trong khi nhiều nền kinh tế khác phụ thuộc vào xuất khẩu nhiên liệu, đặc biệt là ở châu Phi, Trung Á và Trung Đông (IMF, 2023). Doanh thu giảm có thể làm gia tăng áp lực ngân sách đối với các quốc gia này, làm trầm trọng thêm căng thẳng đối với tài chính cho biến đổi khí hậu và có khả năng dẫn đến các thách thức về chính trị. Do đó, việc đạt được sự cân bằng giữa các mục tiêu về khí hậu, tính bền vững của nợ công và tính khả thi về mặt chính trị là một vấn đề phức tạp đối với tất cả các quốc gia.

3. Hàm ý chính sách

Biến đổi khí hậu là vấn đề phức tạp, đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện từ tất cả các quốc gia cùng với sự hợp tác toàn cầu để giải quyết cái được gọi là “Bộ ba về biến đổi khí hậu”, bao gồm các mục tiêu về khí hậu, khả năng duy trì nợ và các cân nhắc về chính trị (IMF, 2023). Một số giải pháp cơ bản ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế được thảo luận cụ thể như sau:

Chính sách tài khóa nên đóng vai trò trung tâm trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Điều này không nên được coi là chỉ dựa vào các chính sách tài khóa để đạt được các mục tiêu về khí hậu, mà đúng hơn, các chính sách như vậy được coi là thành phần xương sống trong việc phân bổ nguồn lực, kết nối các chính sách và sáng kiến khác. IMF (2023) đã đưa ra một khuôn khổ nhấn mạnh vào các chính sách tài khóa, bao gồm nhiều biện pháp khác nhau từ doanh thu, chi tiêu, tài chính và các khía cạnh cấu trúc.

Đối với nhiều nền kinh tế công nghiệp và tiên tiến lớn đang trải qua tình trạng trì trệ lâu dài, việc mở rộng tài khóa để hành động vì môi trường là một cách giúp các quốc gia này đạt được mục tiêu kép của mình: (1) Tăng cầu để vượt qua tình trạng trì trệ và phục hồi tăng trưởng; (2) Đạt được mục tiêu về khí hậu. Theo Summers (2016), chỉ riêng các chính sách tiền tệ thông thường có thể không đủ để đạt được mục tiêu đầu tiên. Mặc dù đã thực hiện các chính sách nới lỏng định lượng sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nước công nghiệp phải vật lộn với nhu cầu đầu tư vẫn thấp hơn tiết kiệm, dẫn đến lãi suất tự nhiên thấp2. Tiết kiệm nhiều hơn cùng với việc không có “cơ hội đầu tư mới tốt” khiến tiền tiết kiệm chảy vào các tài sản hiện có, đẩy giá tài sản lên. Obstfeld (2023) lưu ý rằng, trong khi các tín hiệu thị trường cho thấy lãi suất thực dài hạn tăng gần đây, thì các yếu tố cơ bản vốn khó có thể đảo ngược mạnh mẽ đã đẩy lãi suất xuống kể từ những năm 1980 và 1990 có thể làm tăng lãi suất thực toàn cầu trong tương lai gần một cách đáng kể và bền vững. Trong bối cảnh này, việc mở rộng tài khóa có thể thúc đẩy nhu cầu và tăng lãi suất tự nhiên, mang lại hy vọng vượt qua giai đoạn trì trệ kéo dài.

Có nhiều lo ngại rằng việc tăng đầu tư công có thể dẫn đến áp lực nợ công cao hơn. Tuy nhiên, Obstfeld (2023) cũng nhấn mạnh, tăng trưởng gần đây thấp hơn và sự trở lại chậm chạp về mức lãi suất tự nhiên của những thập kỷ trước ở nhiều nước phát triển có thể là một "lợi thế cho không gian chính sách tài khóa". Một mặt, các nước phát triển có thể tăng đầu tư công vào quá trình chuyển đổi xanh với ít hạn chế về tài trợ hơn so với các nước thu nhập thấp và đang phát triển (Bolton và cộng sự, 2022). Mặt khác, những lo ngại về gánh nặng nợ công gia tăng làm nổi bật tầm quan trọng của việc thực hiện kết hợp các chính sách bổ sung. Đối với các thị trường thu nhập thấp và mới nổi có không gian tài khóa hạn chế, chính phủ nên cải thiện hệ thống thuế để tăng cường năng lực tăng thu ngân sách. Ngoài ra, các quốc gia này nên ưu tiên các chính sách tăng trưởng, phát triển để xây dựng khả năng phục hồi và thích ứng của họ.

Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân là điều quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách tài chính cho hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Mặc dù tài chính công là nguồn thiết yếu để thúc đẩy nhu cầu và hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng riêng nó là không đủ. Để giảm áp lực cho khu vực công, cần thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân vào các công nghệ tái tạo có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, theo Prasad và cộng sự (2022), tài chính khí hậu của khu vực tư nhân vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong “tổng tài sản được quản lý” toàn cầu. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn do sự không chắc chắn về chính sách và công nghệ liên quan đến “quá trình chuyển đổi sang carbon thấp”, có thể gây cản trở đầu tư của khu vực tư nhân. Hơn nữa, việc giải quyết các thách thức về biến đổi khí hậu liên quan đến việc giải quyết một số thất bại của thị trường, chẳng hạn như hàng hóa công cộng, ảnh hưởng ngoại lai liên quan đến khí hậu và thông tin bất đối xứng. Theo nghĩa đó, khu vực công đóng vai trò rất quan trọng trong việc khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân. Một cách để thực hiện điều này là đầu tư vào cơ sở hạ tầng hỗ trợ tích hợp các công nghệ mới, chẳng hạn như “lưới điện, trạm sạc, giao thông công cộng, băng thông rộng và quy hoạch đô thị”. Ngoài ra, khu vực công có thể áp dụng các chính sách như đánh thuế, trợ cấp… để giảm bớt các hạn chế và thúc đẩy tài chính khí hậu từ khu vực tư nhân.

Việc thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân vào các nỗ lực chuyển đổi xanh có khả năng được đẩy nhanh với sự hỗ trợ từ các chính sách của ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng.

Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, các ngân hàng trung ương có xu hướng mua trái phiếu từ các tổ chức phát hành trái phiếu nâu hoặc chấp nhận chúng làm tài sản thế chấp cho mục đích cho vay (Papoutsi và cộng sự, 2022). Do đó, việc chuyển sang trái phiếu xanh trong thành phần bảng cân đối kế toán của các ngân hàng trung ương sẽ báo hiệu cho thị trường và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân vào các trái phiếu này (Bolton và cộng sự, 2022). Hơn nữa, các ngân hàng phát triển quốc gia (NDB) và các ngân hàng phát triển đa phương (MDB) cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xúc tác, mở rộng quy mô tài chính bền vững để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Bằng cách tạo điều kiện cho tài chính của khu vực tư nhân cho các dự án liên quan đến khí hậu, họ có thể đóng góp đáng kể vào quá trình chuyển đổi toàn cầu hướng tới tương lai ít carbon và chống chịu với khí hậu (Prasad và cộng sự, 2022).

Một khuôn khổ pháp lý toàn diện, hệ thống giám sát là điều cần thiết để củng cố uy tín, sự tăng trưởng trái phiếu xanh của chính phủ và trái phiếu gắn kết bền vững.

Thị trường trái phiếu xanh của chính phủ đã trở nên phổ biến hơn trong thời gian gần đây, mặc dù chỉ chiếm 3 đến 3,5% tổng lượng trái phiếu phát hành (Spinaci, 2022). Mặc dù không có bằng chứng nào cho thấy trái phiếu xanh dễ vỡ nợ hơn trái phiếu truyền thống, nhưng việc thiếu các cơ chế thực thi đáng tin cậy vẫn là mối quan tâm lớn. Bolton và cộng sự (2022) lập luận rằng, khả năng thực thi hạn chế có thể khiến các nhà quản lý tài sản tuyên bố sai sự thật là họ đang đầu tư vào trái phiếu xanh và bên phát hành sử dụng tiền một cách sai trái cho các mục đích không phải xanh. Không giống như trái phiếu xanh truyền thống, “trái phiếu liên kết với tính bền vững” khác biệt ở chỗ các điều khoản của trái phiếu được liên kết với các mục tiêu môi trường cần đạt được thay vì tài trợ cho các dự án cụ thể. Do đó, bên phát hành được khuyến khích đạt các mục tiêu về khí hậu. Tuy nhiên, việc thiếu một hệ thống giám sát toàn diện đã đặt ra một thách thức đáng kể đối với sự phát triển của các trái phiếu này. Một khuôn khổ pháp lý rõ ràng để thực thi và một hệ thống giám sát thông tin về khí hậu sẽ là cần thiết để phát triển lành mạnh các thị trường trái phiếu xanh cũng như trái phiếu chính phủ liên kết với tính bền vững.

Thiết lập khuôn khổ thể chế cho thị trường tín chỉ carbon.

Theo Bolton và cộng sự (2022), thị trường carbon hoạt động hiệu quả có thể giúp giảm bớt bất bình đẳng tồn tại giữa các nước công nghiệp phát thải lớn và các nước hấp thụ carbon, thường là các quốc gia nghèo hơn, bằng cách tạo điều kiện cho dòng vốn chảy từ nước phát thải lớn sang nước thu nhập thấp. Ngoài ra, các thị trường này có thể tạo ra doanh thu từ các khoản đầu tư bảo tồn thiên nhiên, đồng thời cung cấp một con đường tiềm năng để giảm lượng khí thải carbon từ các nước phát thải lớn và tài trợ cho các khoản đầu tư xanh cho chính phủ mà không phải gánh chịu khoản nợ không bền vững. Tuy nhiên, để thị trường carbon hoạt động hiệu quả, điều cần thiết là phải thiết lập một khuôn khổ thể chế khắc phục được những bất lợi cố hữu của thị trường carbon tự nguyện và phân mảnh. Hơn nữa, có thể có những lỗ hổng tiềm ẩn đối với cán cân thanh toán do dòng vốn đổ vào đáng kể liên quan đến tài chính khí hậu ở các nước đang phát triển và thu nhập thấp. Điều này có thể xảy ra nếu sự gia tăng dòng vốn tài chính khí hậu không đi kèm với sự phát triển đồng đều của sản xuất trong nước và năng lực công nghệ, cũng như các kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên, dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai, mất cân bằng kinh tế vĩ mô và tài chính có thể xảy ra (Prasad và cộng sự, 2022).

Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác quốc tế, hỗ trợ tài chính dành cho các nước có thu nhập thấp và trung bình đang gánh chịu hậu quả nặng nề của biến đổi khí hậu.

Như đã đề cập trước đó, các quốc gia thu nhập thấp và trung bình đang phải đối mặt với hậu quả nghiêm trọng của biến đổi khí hậu với không gian tài chính hạn chế để thích ứng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Chi phí đầu tư công hằng năm ước tính cho thích ứng ở các nền kinh tế đang phát triển lên tới khoảng 500 tỉ USD, tương ứng với khoảng 0,4% GDP của các quốc gia tiên tiến (Aligishiev và cộng sự, 2022). Nếu tính đến chi phí giảm thiểu ô nhiễm môi trường, các khoản đầu tư cần thiết thậm chí còn cao hơn. Mặc dù thực tế là các quốc gia nghèo có xu hướng phát thải ít hơn, Bolton và cộng sự (2022) đã cảnh báo rằng, khi các quốc gia nghèo phát triển, sẽ có nguy cơ tăng phát thải khí nhà kính, cho thấy cần phải đầu tư nhiều hơn để các quốc gia này có thể chuyển sang công nghệ xanh. Họ cũng cho rằng các nền kinh tế tiên tiến và "các quốc gia thu nhập trung bình cao" có lượng khí thải cao nên cung cấp hỗ trợ tài chính cho các quốc gia nghèo có quá ít năng lực tài chính để hành động vì khí hậu. Ngoài các cam kết hỗ trợ tài chính, các nhà tài trợ nên thiết lập các mục tiêu chi tiêu và mục tiêu khí hậu mà các quốc gia nhận tài trợ phải cam kết đạt được để được hỗ trợ thông qua các quỹ tập trung như GCF, các khoản tài trợ có điều kiện song phương và đa phương, cũng như "giảm nợ có điều kiện".

Tóm lại, không có giải pháp phù hợp hoặc công cụ hoàn hảo duy nhất phù hợp với tất cả các quốc gia để giải quyết hiệu quả những thách thức của biến đổi khí hậu. Mỗi chính sách và hành động đều liên quan đến sự đánh đổi và việc cân bằng giữa các mục tiêu khác nhau của chính phủ. Mặc dù rõ ràng là cần phải có hành động khẩn cấp để bảo vệ môi trường và môi trường sống của mọi sinh vật, nhưng vẫn còn rất nhiều trở ngại cần vượt qua để đạt được các mục tiêu về khí hậu. Với những lựa chọn phức tạp mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt để đồng thời đạt được "các mục tiêu về khí hậu, tính bền vững về tài chính và tính khả thi về mặt chính trị", giải pháp hứa hẹn nhất nằm ở sự kết hợp cẩn trọng giữa các chính sách nhằm mục đích giảm phát thải, các nỗ lực thích ứng, giảm thiểu trên quy mô toàn cầu và giảm thiểu các tác động tiêu cực tiềm tàng đến nền kinh tế.■

____________

1 Ethiopia, Kenya, Nam Phi và Tanzania.

2 Lãi suất tự nhiên được coi là tỉ lệ cân bằng giữa đầu tư và tiết kiệm khi có việc làm đầy đủ (Summers, 2016).

Tài liệu tham khảo:

1. Aligishiev, Zamid; Massetti, Emanuele and Bellon, Matthieu (2022). “Macro-Fiscal Implications of Adaptation to Climate Change,” IMF Staff Climate Note 2022/02, International Monetary Fund, Washington, DC.

2. Belianska, Anna et al. (2022). “Climate Change and Select Financial Instruments: An Overview of Opportunities and Challenges for Sub-Saharan Africa,” IMF Staff Climate Note 2022/009, International Monetary Fund, Washington, DC.

3. Belianska, Anna et al. (2023). “Closing the Gap: Concessional Climate Finance and Sub-Saharan Africa,” in Regional Economic Outlook: Sub-Saharan Africa--The Big Funding Squeeze, International Monetary Fund, Washington, DC.

4. Blanchard, Olivier (2023). “Reconciling the tension between green spending and debt sustainability,” Peterson Institute for International Economics blog retrieved December 19, 2023, Washington, DC.

5. Bolton, Patrick et al. (2023). “Climate and Debt,” Geneva Reports on the World Economy 25, Center for Economic Policy Research, London.

6. IMF (2023). “Climate Crossroads: Fiscal Policies in a Warming World,” Fiscal Monitor October 2023, International Monetary Fund, Washington, DC.

7. Obstfeld, Maurice (2023). “Natural and Neutral Real Interest Rates: Past and Future,” NBER Working Papers 31949, National Bureau of Economic Research, Inc.

8. Obstfeld, Maurice (2023). “Natural and Neutral Real Interest Rates: Past, Present and Future,” NBER Working Paper 31949. National Bureau of Economic Research, Cambridge MA.

9. Papoutsi, Melina; Piazzesi, Monika and Schneider, Martin (2022). “How unconventional is green monetary policy?” Working paper.

10. Prasad, Ananthakrishnan et al. (2022). “Mobilizing Private Climate Financing in Emerging Market and Developing Economies; IMF Staff Climate Note 2022/007. International Monetary Fund, Washington, DC.

11. Puyo, Mesa et al. (2023). “Fossil Fuel Exporters and the Energy Transition,” Unpublished, International Monetary Fund, Washington, DC.

12. Spinaci, Stefano (2022). “European green bonds: A standard for Europe, open to the world,” European Parliament, EPRS.

13. Summers, Lawrence H. (2016). “The Age of Secular Stagnation: What It Is and What to Do About It,” Foreign Affairs” 95(2): pages 2-9.

14. UNEP (2023). “Climate change 2023 Synthesis Report,” Intergovernmental Panel on Climate change, WMO, UNEP.

15. Vasic-Lalovic, Ivana et al. (2023). “The Growing Debt Burdens of Global South Countries: Standing in the Way of Climate and Development Goals,” Center for Economic and Policy Research, Washington, DC.

ThS. Hoàng Lan Hương
Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính, NHNN

Tin bài khác

Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Vai trò kinh tế học hành vi trong nâng cao hiểu biết tài chính

Kinh tế học hành vi có thể được sử dụng để khuyến khích hành vi tài chính lành mạnh thông qua việc thay đổi điều kiện ra quyết định của con người - bao gồm các hình thức như “thúc đẩy nhẹ” đến hành vi mong muốn, quản lý và cải thiện môi trường thông tin...
Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Phát triển tài chính vi mô để đẩy lùi tín dụng đen

Các tổ chức tài chính vi mô thường thiết kế sản phẩm tín dụng vi mô phù hợp với đặc thù từng địa phương, từ đó giảm bớt rào cản về thủ tục, tài sản thế chấp, và tạo điều kiện cho những người chưa từng tham gia hệ thống tài chính chính thức tiếp cận dịch vụ. Việc triển khai tín dụng vi mô còn gắn liền với mạng lưới hỗ trợ cộng đồng, tư vấn sử dụng vốn và đồng hành cùng người vay trong suốt quá trình kinh doanh, giúp giảm thiểu rủi ro vỡ nợ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Xu hướng bất động sản Việt Nam cuối năm 2025: Cơ hội, thách thức và một số khuyến nghị

Thị trường bất động sản Việt Nam năm 2025 mang đến nhiều cơ hội đầu tư hấp dẫn, đặc biệt trong các phân khúc bất động sản xanh, nhà ở giá rẻ và bất động sản nghỉ dưỡng. Các khu vực hưởng lợi từ hạ tầng như tỉnh Đồng Nai và tỉnh Long An (nay là tỉnh Tây Ninh) cũng là điểm đến tiềm năng cho các nhà đầu tư. Để thành công trong lĩnh vực này, các nhà đầu tư cần phải có kiến thức sâu rộng và chiến lược đầu tư thông minh. Việc nắm rõ các yếu tố pháp lý, tài chính, cạnh tranh, thị trường, cơ sở hạ tầng, công nghệ, và quản lý rủi ro sẽ giúp nhà đầu tư đạt được thành công và tối ưu hóa lợi nhuận trong lĩnh vực bất động sản. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường bất động sản Việt Nam.
Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Triển vọng kinh tế Việt Nam đến năm 2030: Động lực tăng trưởng từ phía cầu

Trên cơ sở bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có thể tác động đến triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng như mục tiêu hướng tới đảm bảo Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045, bài viết đã xây dựng kịch bản tăng trưởng căn cứ vào Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 28/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ cũng như các định hướng, kế hoạch, chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030 nhằm hướng tới Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045.
Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Chứng khoán hóa tài sản trí tuệ - Giải pháp mới trong thương mại hóa và huy động vốn

Xuất hiện tại thị trường Mỹ vào những năm cuối thế kỷ 20, chứng khoán hóa tài sản trí tuệ sớm thu hút được nhiều sự quan tâm của truyền thông và giới nghiên cứu, hứa hẹn sẽ bùng nổ như một phương án huy động vốn thay thế tiềm năng, mở khóa tính thanh khoản cho một tài sản vô hình còn nhiều dư địa để phát triển.
Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng: Hướng đến thị trường hóa và phát triển bền vững

Cơ chế quản lý thị trường vàng trong thời gian qua đã bộc lộ một số điểm chưa thật sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, người dân vẫn duy trì xu hướng tích trữ vàng như một hình thức bảo toàn tài sản thụ động, thay vì chuyển hóa thành nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, phát triển kinh tế, khiến một nguồn lực khổng lồ bị đóng băng trong xã hội, không được chuyển dịch vào đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Điều này cho thấy cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, nhằm thúc đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng minh bạch, ổn định, qua đó góp phần khơi thông nguồn lực trong nền kinh tế.
Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Giải pháp "tích hợp mô hình D-SMART" dành cho doanh nghiệp ngành logistics tại Việt Nam và một số khuyến nghị

Mô hình D-SMART là giải pháp toàn diện và phù hợp cho ngành logistics tại Việt Nam, tích hợp các bài học từ những quốc gia thành công. Mô hình không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả vận hành mà còn đóng góp vào sự phát triển logistics bền vững và hiện đại hóa ngành logistics tại Việt Nam. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt trong việc hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp. Một số giải pháp tài chính như khoản vay ưu đãi, tín dụng xanh và tài trợ dựa trên hiệu suất giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, giảm thiểu chi phí đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác công - tư và sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, qua đó, tạo động lực mạnh mẽ cho ngành logistics Việt Nam hướng tới mục tiêu giảm chi phí logistics xuống còn 15 - 18% GDP vào năm 2030.
Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Tích hợp ESG trong chiến lược phát triển logistics: Thực tiễn quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero

Bài viết này tập trung phân tích cách thức một số công ty logistics tiên phong trên thế giới triển khai ESG, đánh giá những tác động cụ thể đến thu hút đầu tư. Trên cơ sở bài học kinh nghiệm rút ra, bài viết đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách phù hợp với bối cảnh ngành logistics Việt Nam nhằm thúc đẩy áp dụng ESG hiệu quả, hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành logistics trong thời gian tới.
Xem thêm
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Quản lý tín dụng bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Tại Việt Nam, tín dụng bất động sản không chỉ đóng vai trò hỗ trợ hoạt động đầu tư, xây dựng, mà còn là công cụ tài chính quan trọng giúp triển khai các mục tiêu phát triển nhà ở, cải thiện chất lượng sống và cấu trúc đô thị.
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng