Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Công nghệ & ngân hàng số
Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
aa

Tham dự Hội thảo, về phía các cơ quan Trung ương có ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Ban Chính sách, chiến lược Trung ương; GS.,TS. Hoàng Văn Cường - Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư nhà nước, Ủy viên Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ; ông Nguyễn Hải Nam - Ủy viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội; TS. Trần Văn - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển Kinh tế số; TS. Hoàng Văn Ninh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển kinh tế số; ông Nguyễn Minh Hồng - Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội.

Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và các tổ chức chính trị - xã hội có bà Nguyễn Thị Thanh Bình - Phó Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng, NHNN; ông Nguyễn Đức Thuận - Giám đốc Quỹ Môi trường Việt Nam; Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), Giám đốc Công ty luật ANVI; ông Nguyễn Minh Đức - Phó Trưởng phòng Giám sát các hệ thống thanh toán, Vụ Thanh toán, NHNN.

Về phía chuyên gia nước ngoài có ông Cheng Yun Tsang - Giáo sư Luật, Đại học Monash, Australia; ông Thomas Chien - Giám đốc Systex Việt Nam; ông Kim Min Seuk - Trưởng Văn phòng đại diện Trung tâm Hợp tác Công nghệ thông tin Hàn Quốc, Cục xúc tiến công nghiệp công nghệ thông tin Hàn Quốc tại Việt Nam; ông Maxx Tsai, Giám đốc Advantech, Đài Loan; ông James Huang - Giám đốc Điều hành (CEO) BaaS Innovation, Đài Loan; ông Randall E. Duran - Giảng viên cao cấp Đại học Quản lý Singapore, CEO Catena Technologies; ông Sandeep Deobhakta - Nghiên cứu sinh tại Đại học Sains Malaysia; ông Martin Lee - CEO Fintwin Corp Việt Nam; bà Chae Yeon Kim - Trợ lý Điều hành Fintwin Corp Việt Nam; ông Wen Hsoan Kuo - Liên lạc viên Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Loan; GS. Solomon Negash - Giáo sư Hệ thống thông tin tại Đại học Kennesaw State kiêm Nhà sáng lập Fintech và MadLab; ông Mark Birnbaum - Giám đốc dự án tại Deloitte Vietnam; ông Yang Sung Mun - CEO YSM Center.

Về phía Trường Đại học Đại Nam có TS. Lê Đắc Sơn - Chủ tịch Hội đồng Trường; ông Đỗ Quân - Phó Chủ tịch Hội đồng Trường; ông Lê Đắc Lâm - Phó Chủ tịch Hội đồng Trường; PGS., TS. Đào Thị Thu Giang - Hiệu trưởng Nhà trường; PGS., TS. Đặng Ngọc Đức - Viện trưởng Viện Công nghệ tài chính cùng lãnh đạo, cán bộ, giảng viên các khoa, viện, trung tâm và các đơn vị trực thuộc Trường Đại học Đại Nam.

Hội thảo còn có sự tham dự của đông đảo các chuyên gia, nhà nghiên cứu từ các viện nghiên cứu, trường đại học, các ngân hàng thương mại, công ty Fintech trong cả nước.

Fintech trong tầm nhìn chiến lược của Chính phủ về phát triển nền kinh tế

Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS., TS. Đào Thị Thu Giang - Hiệu trưởng Trường Đại học Đại Nam cho biết, thời gian gần đây, Fintech trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo của nền kinh tế - xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt trong xây dựng hành lang pháp lý liên quan đến lĩnh vực này. Tiếp nối thành công của hai kỳ Hội thảo về Fintech năm 2023 và 2024, Hội thảo năm 2025 tập trung thảo luận các vấn đề quản lý nhà nước nhằm xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, tạo động lực cho Fintech phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua Hội thảo, Trường Đại học Đại Nam hướng tới trở thành cầu nối giữa giới học thuật, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, góp phần hình thành hệ sinh thái Fintech an toàn, minh bạch và bền vững. Hiệu trưởng Đào Thị Thu Giang cũng khẳng định, với vai trò là một trong những cơ sở giáo dục đại học tiên phong nghiên cứu và giảng dạy về Fintech, Trường Đại học Đại Nam cam kết tiếp tục phát huy thế mạnh đào tạo, nghiên cứu, đồng hành cùng Nhà nước trong xây dựng chính sách về Fintech, qua đó khẳng định quyết tâm của Nhà trường trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển của Fintech - nhân tố quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam bước vào kỷ nguyên số.

PGS., TS. Đào Thị Thu Giang - Hiệu trưởng Trường Đại học Đại Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
PGS., TS. Đào Thị Thu Giang - Hiệu trưởng Trường Đại học Đại Nam phát biểu khai mạc Hội thảo

Từ góc nhìn của nhà hoạch định chính sách, ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương chia sẻ, từ sau đại dịch Covid-19, Fintech đã phát triển mạnh mẽ, đã và đang định hình tương lai ngành công nghệ - tài chính - ngân hàng tại thị trường Việt Nam. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng liên quan đến Fintech như: Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29/4/2025 của Chính phủ về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) trong lĩnh vực ngân hàng, tạo hành lang pháp lý bước đầu cho việc thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới. Đây được coi là một dấu mốc quan trọng, khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc chủ động tham gia, thích ứng và nắm bắt cơ hội từ sự phát triển của Fintech, đồng thời bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng. Đặc biệt, Việt Nam cũng đang chủ động tham gia vào khuôn khổ pháp lý toàn cầu về kinh tế số, thúc đẩy phát triển Fintech; đồng thời đưa nội dung về Fintech vào một số nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân, qua đó tạo động lực mới cho đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Theo ông Nguyễn Đức Hiển, thị trường Fintech Việt Nam đang phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc. Theo số liệu của NHNN, đến cuối năm 2024, hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam đã có khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý khi các quy định hiện hành vẫn chưa theo kịp sự đổi mới của công nghệ và mô hình kinh doanh. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng xây dựng cơ chế pháp lý linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo, vừa bảo đảm an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng, cũng như quyền lợi của người tiêu dùng.

Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cho biết, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng liên quan đến phát triển Fintech tại Việt Nam
Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cho biết, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng liên quan đến phát triển Fintech tại Việt Nam

Ông Nguyễn Đức Hiển cho biết thêm, hiện nay, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương đang khẩn trương nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xác định hướng đi cho việc hoàn thiện khung pháp lý cũng như quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam. Ông hi vọng Hội thảo sẽ là diễn đàn trao đổi thẳng thắn, cởi mở, tập hợp được nhiều ý kiến đa chiều từ các nhà nghiên cứu, các chuyên gia, cơ quan quản lý, cũng như cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước. Những gợi mở, khuyến nghị từ Hội thảo sẽ góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa học, thực tiễn, hỗ trợ Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương và các cơ quan chức năng trong quá trình xây dựng chính sách, qua đó tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, thúc đẩy hệ sinh thái Fintech phát triển bền vững tại Việt Nam.

Fintech và công nghệ: Chìa khóa để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tăng cường giám sát tài chính

Tham luận tại Hội thảo với chủ đề “Khám phá đổi mới kinh doanh và vận hành với công nghệ Blockchain”, ông James Huang - CEO BaaS Innovation cho biết, kể từ khi thành lập năm 2017 tại Singapore và phát triển mạnh mẽ tại Đài Loan, suốt 8 năm qua, BaaS Innovation tăng cường hợp tác sâu rộng với Chính phủ, các ngân hàng thương mại cũng như Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa qua việc cung cấp giải pháp Blockchain trong bảo mật dữ liệu, quản lý chuỗi cung ứng, xây dựng nền tảng dữ liệu carbon và quản trị tài sản số. Những ứng dụng này không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và tăng cường niềm tin của khách hàng, mà còn mở ra cơ hội cho các tổ chức tài chính truyền thống tham gia sâu hơn vào lĩnh vực tài sản ảo, tài sản số.

Ông James Huang cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh quốc tế gần đây có nhiều thay đổi khi Chính phủ Mỹ và nhiều quốc gia ban hành luật pháp liên quan đến quản lý tài sản ảo và tài chính phi tập trung (DeFi), tạo điều kiện để các tổ chức tài chính truyền thống tham gia sâu hơn vào lĩnh vực tiền mã hóa. Vì vậy, với giải pháp thanh toán xuyên biên giới bằng stablecoin, công ty đã giúp nhiều doanh nghiệp Đài Loan giao dịch thuận lợi với các đối tác tại Nam Mỹ và Nam Phi, khắc phục rủi ro tỉ giá của các đồng tiền của những quốc gia này và gia tăng giá trị thương mại quốc tế cho đất nước. Theo ông James Huang, đây là minh chứng rõ nét cho thấy Blockchain không chỉ là công nghệ của tương lai, mà đã trở thành nền tảng đổi mới, tái định hình mô hình kinh doanh và vận hành toàn cầu.

Ông James Huang - CEO BaaS Innovation khẳng định, Blockchain không chỉ là công nghệ của tương lai, mà đã trở thành nền tảng đổi mới, tái định hình mô hình kinh doanh và vận hành toàn cầu.
Ông James Huang - CEO BaaS Innovation khẳng định, Blockchain không chỉ là công nghệ của tương lai, mà đã trở thành nền tảng đổi mới, tái định hình mô hình kinh doanh và vận hành toàn cầu

Trước sự phát triển mạnh mẽ của Fintech trên thế giới, vấn đề chuyển đổi số quản lý tài chính cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các nền kinh tế. Theo đó, ông Cheng Yun Tsang - Giáo sư Luật Đại học Monash, Australia cho rằng, hiện nay các cơ quan quản lý đang gặp nhiều thách thức khi các quy định không theo kịp tốc độ phát triển của Fintech, do vậy, chuyển đổi số những quy định tài chính trở nên vô cùng cần thiết. Các khung pháp lý truyền thống vốn được thiết kế cho hệ thống tài chính - ngân hàng cũ đang dần bộc lộ hạn chế, khó theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ mới. Do đó, ông Cheng Yun Tsang khẳng định, các quốc gia cần xây dựng cách tiếp cận “Regtech” (Regulatory Technology) hay SupTech (Supervisory Technology) - để ứng dụng công nghệ trong thiết kế, giám sát và thực thi chính sách tài chính nhằm vừa bảo đảm an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng, vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên số.

Về xu hướng hoạt động của các cơ quan quản lý trong vài năm gần đây, ông Cheng Yun Tsang cho biết thêm, nhiều quốc gia đã bắt đầu triển khai các nền tảng quản lý dựa trên dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để giám sát theo thời gian thực, phát hiện rủi ro sớm và tăng cường minh bạch thông tin. Chẳng hạn như Dự án Ellipse do Trung tâm Đổi mới Sáng tạo của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS Innovation Hub) phối hợp với Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) khởi động ngày 31/3/2022, nhằm thí điểm các giải pháp công nghệ mới trong giám sát tài chính. Dự án tập trung vào việc ứng dụng Big Data, AI… để nâng cao hiệu quả giám sát, kịp thời phát hiện rủi ro và tăng cường minh bạch cho hệ thống tài chính. Đây được coi là một mô hình Regtech - Suptech tiêu biểu, mang lại nhiều kinh nghiệm quý cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam, trong quá trình xây dựng khung pháp lý và giám sát lĩnh vực Fintech.

Xây dựng khung pháp lý đối với sự phát triển Fintech: Bước đi chiến lược của các quốc gia trên thế giới trong thời đại số

Tại Hội thảo, bà Lindy Tsai - Nhà sáng lập và CEO công ty IREGTECH, Đài Loan, chuyên gia đầu tư tiền mã hóa đã chia sẻ tham luận: “Phát hiện gian lận và quản trị tài sản tiền mã hóa: Khung pháp lý về AI và quy định tại Đài Loan”.

Bà Lindy Tsai cho biết, sự bùng nổ của công nghệ số đã làm mối đe dọa về tội phạm liên quan đến tiền ảo ngày càng gia tăng từ các hành vi gian lận, rửa tiền cho đến tấn công mạng vào sàn giao dịch và ví điện tử. Tại Đài Loan, hotline 165 để gọi và báo cáo với cảnh sát về các hành vi lừa đảo liên quan đến tiền ảo, tiền mã hóa hoạt động 24/7 và được coi là công cụ quan trọng trong phòng, chống tội phạm công nghệ cao. Theo thống kê năm 2025, Đài Loan có tới 90.000 vụ lừa đảo mỗi năm và thiệt hại lên tới hàng triệu Đài tệ do các vụ việc liên quan đến tội phạm tiền ảo, cho thấy mức độ nghiêm trọng và sự cấp thiết của việc hoàn thiện khung pháp lý cũng như tăng cường các công cụ bảo vệ người dùng trong lĩnh vực này.

Chính vì vậy, Chính phủ Đài Loan đang có những bước đi tiên phong và hiệu quả trong xây dựng khung pháp lý cho tài sản mã hóa, kết hợp công nghệ để bảo đảm an toàn hệ thống tài chính. Bà Lindy Tsai cũng chia sẻ mô hình giám sát “ba bên” tại Đài Loan, trong đó, Chính phủ giữ vai trò ban hành và hợp thức hóa khung pháp lý; các tổ chức tự quản xây dựng quy tắc ứng xử, chuẩn mực hoạt động; cuối cùng là sự phối hợp của các cơ quan pháp lý, doanh nghiệp, hiệp hội ngành, nghề… nhằm tạo lập cơ chế giám sát minh bạch, linh hoạt, hài hòa giữa đổi mới sáng tạo và an toàn thị trường.

Ngoài ra, việc nhận diện những bất thường và cảnh báo sớm các nguy cơ tấn công mạng, rửa tiền hay gian lận cũng là bước cần thiết trong quản trị tài sản tiền mã hóa tại Đài Loan. Việc ứng dụng AI không chỉ giúp tăng cường hiệu quả giám sát, bảo vệ người dùng mà còn hỗ trợ các cơ quan quản lý và doanh nghiệp đưa ra quyết định nhanh chóng, chính xác hơn. Đây được coi là giải pháp mang tính đột phá, góp phần hoàn thiện khung pháp lý hiện đại và xây dựng một hệ sinh thái tài sản mã hóa minh bạch, an toàn và bền vững - bà Lindy Tsai chia sẻ.

Bà Lindy Tsai - Nhà sáng lập và CEO công ty IREGTECH, chuyên gia đầu tư tiền mã hóa chia sẻ mô hình giám sát “ba bên” tại Đài Loan trong việc phát hiện gian lận và quản trị tài sản tiền mã hóa
Bà Lindy Tsai - Nhà sáng lập và CEO công ty IREGTECH, chuyên gia đầu tư tiền mã hóa chia sẻ mô hình giám sát “ba bên” tại Đài Loan trong việc phát hiện gian lận và quản trị tài sản tiền mã hóa

Trong tham luận “Quản lý nhà nước về AI và chính sách đối với Fintech: Góc nhìn pháp lý”, ông Randall E. Duran - Giảng viên cao cấp Đại học Quản lý Singapore, CEO Catena Technologies chia sẻ, AI hiện đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các ứng dụng Fintech, từ chấm điểm tín dụng, quản trị rủi ro, phát hiện gian lận đến quản lý tài sản, nhưng ở mỗi quốc gia lại xây dựng cơ chế quản lý, giám sát và các chính sách liên quan đến Fintech khác nhau. Cụ thể: (i) Tại Malaysia, Chính phủ cân nhắc kỹ lưỡng khi ứng dụng AI trong Fintech, bao gồm việc xác định những loại hình cần quản lý, các chính sách quản lý hay khuyến khích sử dụng AI, cũng như mức độ giám sát phù hợp để vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa bảo đảm an toàn hệ thống tài chính. Tại Hoa Kỳ, cấu trúc giám sát phân tán theo thẩm quyền được áp dụng, khi các công ty Fintech chịu sự quản lý khác nhau tại từng bang với các cơ chế và chính sách đa dạng. (iii) Tại châu Âu, các chính phủ thành viên áp dụng cách tiếp cận toàn diện dựa trên rủi ro, trong đó các hệ thống AI có rủi ro cao chịu các yêu cầu bắt buộc nghiêm ngặt hơn. (iv) Tại Nhật Bản, mô hình luật mềm (soft law) được triển khai, với Cơ quan Dịch vụ Tài chính Nhật Bản (JISA) khuyến khích doanh nghiệp áp dụng AI theo hướng cân bằng, vừa minh bạch vừa linh hoạt để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. (v) Tại Singapore, Chính phủ áp dụng mô hình hợp tác đa cơ quan, trong đó các cơ quan quản lý phối hợp chặt chẽ để giám sát AI trong Fintech, đảm bảo đồng bộ giữa đổi mới công nghệ và quản lý rủi ro, đồng thời thúc đẩy môi trường pháp lý minh bạch và ổn định.

Từ những kinh nghiệm quốc tế, ông Randall E. Duran khẳng định, việc xây dựng khung pháp lý linh hoạt, minh bạch và thích ứng với rủi ro là chìa khóa để phát triển Fintech bền vững trong kỷ nguyên AI.

Ông Randall E. Duran, Giảng viên Đại học Quản lý Singapore, CEO Catena Technologies chia sẻ về kinh nghiệm quản lý nhà nước về AI và chính sách đối với Fintech tại một số quốc gia trên thế giới
Ông Randall E. Duran - Giảng viên cao cấp Đại học Quản lý Singapore, CEO Catena Technologies chia sẻ về kinh nghiệm quản lý nhà nước về AI và chính sách đối với Fintech tại một số quốc gia trên thế giới

Cùng sự phát triển mạnh mẽ của ngành Fintech trên thế giới, ngành Fintech của Việt Nam cũng đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức đan xen - TS. Lương Thị Thu Hằng - Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân khẳng định tại tham luận: “Phát triển bền vững ngành Fintech của Việt Nam trong kỷ nguyên mới: Thực trạng và giải pháp”. Theo đó, hiện nay hệ sinh thái Fintech ở Việt Nam đang mở rộng nhanh chóng, đặc biệt trong các lĩnh vực thanh toán, cho vay ngang hàng, ngân hàng số và quản lý tài sản với quy mô thị trường Fintech tại Việt Nam ước tính sẽ đạt 50,2 tỉ USD vào năm 2029 (Statista, 2024), cho thấy tiềm năng tăng trưởng của Fintech là rất lớn song cũng đặt ra nhiều yêu cầu về quản trị rủi ro, khung pháp lý và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng.

TS. Lương Thị Thu Hằng cho biết, sự phát triển bền vững của ngành Fintech được đánh giá dựa trên mô hình Triple Botton Line với ba trụ cột Kinh tế, Môi trường và Xã hội. Trên khía cạnh kinh tế, Fintech ứng dụng các công nghệ AI, Blockchain để cắt giảm chi phí, thúc đẩy tăng trưởng, gia tăng hiệu quả vận hành của hệ thống tài chính - ngân hàng và nâng cao tính an toàn cho các giao dịch tài chính. Về khía cạnh xã hội, với quy mô dân số lớn và phân bố đa dạng ở các vùng miền, việc phát triển hệ sinh thái Fintech cũng sẽ góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện trong toàn xã hội. Về khía cạnh môi trường, việc hạn chế thải khí carbon bằng cách sử dụng dịch vụ thanh toán không tiền mặt, ngân hàng số thân thiện với môi trường hay các nền tảng gọi vốn cộng đồng có sự hỗ trợ của các bên liên quan cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Đây chính là những nền tảng quan trọng để bảo đảm sự phát triển lâu dài của ngành Fintech tại Việt Nam, gắn kết mục tiêu tăng trưởng kinh tế với trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường của Nhà nước và cộng đồng.

TS. Lương Thị Thu Hằng - Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh, hiện nay hệ sinh thái Fintech ở Việt Nam đang mở rộng nhanh chóng cả về quy mô và tốc độ
TS. Lương Thị Thu Hằng - Viện Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh, hiện nay hệ sinh thái Fintech ở Việt Nam đang mở rộng nhanh chóng cả về quy mô và tốc độ

TS. Lương Thị Thu Hằng cũng đưa ra một số rào cản đối với sự phát triển ngành Fintech tại Việt Nam như sau: Thứ nhất là khung pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ và chưa theo kịp tốc độ đổi mới công nghệ. Thứ hai là hạ tầng công nghệ và dữ liệu còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong việc chia sẻ, kết nối và bảo mật thông tin. Thứ ba là năng lực quản trị rủi ro tài chính của các doanh nghiệp Fintech còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh gia tăng các hành vi gian lận, tội phạm công nghệ cao và những biến động thị trường. Thứ tư là niềm tin và nhận thức của người dùng về tài chính bền vững còn chưa cao. Thứ năm là tồn tại khoảng cách trong khả năng tiếp cận dịch vụ Fintech giữa các nhóm dân cư, đặc biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm dân trí cao và nhóm yếu thế.

Để bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành Fintech Việt Nam, theo TS. Lương Thị Thu Hằng, Việt Nam cần đẩy mạnh hoàn thiện hành lang pháp lý, đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ và dữ liệu nhằm tăng cường khả năng kết nối, chia sẻ thông tin an toàn, xây dựng hệ sinh thái số đồng bộ và bảo mật. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách nhằm thu hẹp khoảng cách số, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ tài chính cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và nhóm yếu thế. Đồng thời, tăng cường truyền thông, giáo dục tài chính để nâng cao nhận thức, niềm tin của người dùng đối với các dịch vụ Fintech, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện trong cả nước.

Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước Fintech tại Việt Nam trong thời gian tới

Trong phiên thảo luận mở tại Hội thảo, các vị diễn giả đã cùng lắng nghe, chia sẻ quan điểm, mở rộng góc nhìn đa chiều đối với chính sách, pháp lý và chiến lược phát triển Fintech. Từ đó rút ra những gợi mở quan trọng cho hành lang pháp lý và cơ chế quản lý Fintech tại Việt Nam trong thời gian tới.

Theo ông Nguyễn Hải Nam - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, phát triển Fintech không chỉ là xu hướng tất yếu của cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư mà còn là nhân tố quan trọng để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế số và tài chính quốc gia đến năm 2030 và các giai đoạn tiếp theo. Về kỳ vọng đối với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, ông Nguyễn Hải Nam nhấn mạnh, Việt Nam cần xây dựng một hành lang pháp lý đồng bộ, linh hoạt, minh bạch và tương thích với thông lệ quốc tế, vừa bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Fintech đổi mới, sáng tạo và mở rộng dịch vụ. Đây là nền tảng quan trọng để Fintech thực sự trở thành động lực thúc đẩy Chiến lược phát triển kinh tế số và tài chính quốc gia đến năm 2030 và các giai đoạn tiếp theo.

Về vai trò, trọng trách và nhiệm vụ của Quốc hội trong bối cảnh này, ông Nguyễn Hải Nam khẳng định, Quốc hội đã xác định ưu tiên thúc đẩy hoàn thiện hành lang pháp lý, đồng thời khuyến khích phát triển Fintech toàn diện. Các nỗ lực này bao gồm việc rà soát, điều chỉnh các bộ luật và văn bản dưới luật hiện hành, bổ sung quy định mới về thanh toán điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh mạng và quản lý rủi ro tài chính, đồng thời khuyến khích ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong hoạt động ngân hàng. Những bước đi này góp phần hiện thực hóa chủ trương của Đảng và chiến lược phát triển của Nhà nước, hướng tới một hệ sinh thái Fintech bền vững, minh bạch và hội nhập quốc tế.

Phiên thảo luận tại Hội thảo đã đưa ra gợi mở quan trọng về chính sách, pháp lý và chiến lược phát triển ngành Fintech tại Việt Nam trong thời gian tới
Phiên thảo luận tại Hội thảo đã đưa ra nhiều gợi mở quan trọng về chính sách, pháp lý và chiến lược phát triển ngành Fintech tại Việt Nam trong thời gian tới

Theo Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên VIAC, Giám đốc Công ty luật ANVI, Đảng và Nhà nước đã xác định Fintech là một trong những trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế số và tài chính quốc gia. Vì vậy, định hướng hiện nay là xây dựng một khung pháp lý đồng bộ, linh hoạt, minh bạch, vừa bảo đảm an toàn, ổn định cho hệ thống tài chính, vừa tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Fintech phát triển sáng tạo, mở rộng dịch vụ và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, từ góc nhìn chuyên gia pháp lý, Luật sư Trương Thanh Đức cho biết, thách thức lớn nhất hiện nay là sự nhanh chóng biến đổi của công nghệ so với nhịp độ xây dựng pháp luật khi pháp luật hiện hành chưa theo kịp được tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, dẫn tới nguy cơ khoảng trống pháp lý hoặc chồng chéo giữa các văn bản luật. Tại Việt Nam hiện nay, ngoại trừ trung gian thanh toán đã có cơ sở pháp lý đầy đủ, tiền kỹ thuật số, tiền ảo chưa có khung pháp lý thực sự. Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội Việt Nam thông qua vào ngày 14/6/2025 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2026 chính là bước đầu để hoàn thiện khung pháp lý về tiền kỹ thuật số.

Ngoài ra, còn tồn tại một số thách thức khác, bao gồm bảo mật dữ liệu cá nhân; phòng, chống rửa tiền; quản lý rủi ro tài chính và gian lận công nghệ. Theo Luật sư Trương Thanh Đức, để khắc phục những thách thức này, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp Fintech và các tổ chức quốc tế, đồng thời cập nhật các tiêu chuẩn quản trị rủi ro và bảo mật thông tin theo thông lệ quốc tế, nhằm xây dựng một hệ sinh thái Fintech minh bạch, bền vững và hội nhập quốc tế. Đây cũng chính là nguyên tắc cốt lõi để cân bằng giữa thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính - Luật sư Trương Thanh Đức nhấn mạnh.

Chia sẻ về mô hình và cơ chế quản lý Fintech của Đài Loan, bà Lindy Tsai - Nhà sáng lập và CEO công ty IREGTECH cho biết, Đài Loan đã xây dựng một khung pháp lý linh hoạt kết hợp giữa sandbox và cơ chế giám sát dựa trên rủi ro. Đồng thời, cơ chế quản lý của Đài Loan cũng tập trung vào việc minh bạch hóa dữ liệu, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và phòng, chống rửa tiền, tạo nền tảng để Fintech phát triển bền vững và dễ dàng hội nhập với các chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt, bà Lindy Tsai nhấn mạnh đến sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp thông qua hợp tác công - tư hay sự phối hợp xuyên biên giới giữa các quốc gia để xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chặt chẽ về Fintech cũng như giải quyết vấn đề gian lận tài chính.

Về các vấn đề phát sinh (Sunrise Issue) khi luật và tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng sớm, bà Lindy Tsai nhấn mạnh, Việt Nam nên chủ động tham gia các tiêu chuẩn quốc tế từ sớm thay vì chờ các nước lớn định hình. Việc này không chỉ giúp nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ người dùng và rủi ro hệ thống, mà còn tạo cơ hội để Việt Nam đóng góp tiếng nói trong việc định hình các tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời tăng khả năng hội nhập quốc tế và cạnh tranh trong lĩnh vực tài sản số.

Theo ông Randall E. Duran - Giảng viên cao cấp Đại học Quản lý Singapore, CEO Catena Technologies, sự khác biệt trong quản lý nhà nước về Fintech giữa châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Singapore chủ yếu nằm ở cách tiếp cận cân bằng giữa đổi mới sáng tạo và quản lý rủi ro. Nếu châu Âu áp dụng cách tiếp cận toàn diện dựa trên rủi ro, ưu tiên khung pháp lý chặt chẽ, đặt quyền lợi người dùng và đạo đức công nghệ lên hàng đầu thì Mỹ lại thiên về thúc đẩy đổi mới, với cơ chế giám sát linh hoạt theo từng bang và dựa trên sự tự điều chỉnh của doanh nghiệp. Ở Nhật Bản và Singapore, Chính phủ áp dụng mô hình giám sát mềm dẻo hơn, có sự phối - kết hợp giữa các bên liên quan để vừa bảo vệ hệ thống tài chính, vừa tạo không gian thử nghiệm cho các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới. Theo đó, bài học quan trọng mà Việt Nam có thể rút ra là cần xây dựng một khung pháp lý minh bạch, linh hoạt, kết hợp Sandbox và giám sát dựa trên rủi ro, nhằm vừa thúc đẩy Fintech, vừa bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính, tránh tụt lại so với các quốc gia đi trước.

Ông Randall E. Duran cho biết, để việc xây dựng hệ sinh thái giám sát Fintech hiện đại, Việt Nam nên bắt đầu từ một chiến lược đồng bộ, trong đó khung pháp lý là nền tảng để tạo sự minh bạch và ổn định; hạ tầng dữ liệu là trụ cột để giám sát và quản lý rủi ro hiệu quả; đồng thời nâng cao năng lực nhân sự quản lý để triển khai các chính sách và công nghệ một cách hiệu quả. Ba yếu tố này cần được phát triển đồng thời, nhưng việc thiết lập hành lang pháp lý minh bạch và cơ chế giám sát dựa trên rủi ro là bước đi đầu tiên, tạo nền tảng cho việc xây dựng hệ sinh thái Fintech bền vững và hội nhập quốc tế.

Từ khía cạnh doanh nghiệp công nghệ, ông James Huang - CEO BaaS Innovation, Đài Loan đã chia sẻ những khó khăn khi doanh nghiệp đưa Blockchain vào vận hành thực tế, theo đó, rào cản lớn nhất thường là sự thiếu đồng bộ và chưa rõ ràng của khung pháp lý, cả trong nước lẫn quốc tế. Ngoài ra, việc mỗi quốc gia áp dụng các quy định và tiêu chuẩn giám sát khác nhau cũng tạo ra rủi ro pháp lý, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc triển khai các ứng dụng Blockchain một cách toàn diện và tuân thủ đầy đủ. Ông nhấn mạnh, để thúc đẩy phát triển Blockchain bền vững, cần có cơ chế pháp lý minh bạch, linh hoạt, đồng thời triển khai các mô hình “sandbox” thử nghiệm và tiêu chuẩn hóa kỹ thuật, giúp doanh nghiệp vừa đổi mới sáng tạo, vừa giảm thiểu rủi ro pháp lý.

Ở Việt Nam, các quy định liên quan đến tiền ảo, giao dịch tài sản số hay hợp đồng thông minh vẫn chưa đầy đủ, dẫn đến khoảng trống pháp lý và khó khăn trong triển khai các ứng dụng Blockchain một cách toàn diện. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với thách thức khi muốn tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế, bởi mỗi quốc gia lại có cách tiếp cận, yêu cầu pháp lý và giám sát khác nhau, tạo ra rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ cao.

Để doanh nghiệp công nghệ có thể phát triển mạnh mẽ hơn tại Việt Nam, ông James Huang khuyến nghị các cơ quan quản lý nên chủ động xây dựng cơ chế phối hợp với doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế, thúc đẩy áp dụng sandbox, chuẩn hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật, nhằm giúp doanh nghiệp triển khai sản phẩm, dịch vụ một cách hiệu quả, giảm rủi ro pháp lý và thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam.

Qua phiên thảo luận, tương tác sôi nổi giữa các vị đại biểu là những nhà hoạch định chiến lược, cơ quan lập pháp và doanh nghiệp, nhà đầu tư, cũng như các chuyên gia, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, Hội thảo đã hình thành một bức tranh toàn diện hơn, mở rộng góc nhìn đa chiều đối với chính sách, pháp lý và chiến lược phát triển Fintech, từ đó gợi mở quan trọng cho hành lang pháp lý và cơ chế quản lý Fintech tại Việt Nam trong thời gian tới.

Các vị đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo
Các vị đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo
Phạm Trang

Tin bài khác

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm số hóa hoạt động kho quỹ các ngân hàng trên thế giới và bài học cho ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các ngân hàng hàng đầu thế giới đã và đang tiên phong trong ứng dụng công nghệ, đưa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ lên môi trường số, đặc biệt là trong số hóa hoạt động nghiệp vụ kho quỹ, đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu quản trị rủi ro kho quỹ hiện đại của ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý trong bối cảnh thị trường tài chính, ngân hàng thế giới ngày càng nhiều biến động, rủi ro.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò, cơ hội và rủi ro của trí tuệ nhân tạo trong đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam. Thông qua tiếp cận định tính và tổng hợp lý luận từ các học thuyết ra quyết định, bài viết khẳng định rằng trí tuệ nhân tạo mang lại hiệu quả vượt trội trong nâng cao độ chính xác phân loại tín dụng, tối ưu hóa quy trình và mở rộng tài chính bao trùm. Tuy nhiên, đi kèm là những thách thức đáng kể về vấn đề pháp lý, rủi ro đạo đức và khả năng triển khai thực tế trong môi trường ngân hàng còn phân hóa về năng lực số.
Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin - Thực tế áp dụng quốc tế và gợi ý mô hình phát triển tại Việt Nam

Stablecoin là một xu hướng mới đầy tiềm năng của thế giới trong lĩnh vực tiền tệ số, hứa hẹn định hình lại phương thức thanh toán và chuyển giao giá trị trong kỷ nguyên số...
Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Rủi ro chuyển đổi khí hậu và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng Việt Nam: Vai trò điều tiết của chuyển đổi số

Nghiên cứu cho thấy rủi ro chuyển đổi khí hậu có thể làm tăng rủi ro thanh toán và rủi ro cụ thể của ngân hàng. Điều này cảnh báo không nên quá chủ quan trong quản lý rủi ro ngân hàng, kể cả khi chuyển đổi số mang lại lợi ích. Đặc biệt, tác động tiêu cực của rủi ro chuyển đổi khí hậu đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng cần được chú ý. Do đó, hệ thống ngân hàng cần tích hợp yếu tố rủi ro chuyển đổi khí hậu vào khung quản trị rủi ro tổng thể, đánh giá mức độ nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các chính sách giảm phát thải, xu hướng dịch chuyển đầu tư xanh và thay đổi hành vi tiêu dùng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc quản trị rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số.
Xem thêm
Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn cho vay đối tượng yếu thế: Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Huy động vốn để thực hiện hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) là một nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của tổ chức này. Đây là nguồn lực cơ bản, quyết định đến quy mô, hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ, nhằm hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách và hộ gia đình khó khăn có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Khai thác giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trước những cơ hội rộng mở nhưng cũng đầy thách thức trong kỷ nguyên số, việc khai thác tối đa giá trị kinh tế từ ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đòi hỏi những định hướng chiến lược và giải pháp đồng bộ. Các giải pháp này không chỉ nhằm tháo gỡ những rào cản về pháp lý, hạ tầng, công nghệ và nhân lực, mà còn hướng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị sản phẩm âm nhạc.
Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Thủ tướng: Có chính sách ưu tiên, nguồn lực ưu tiên, tín dụng ưu tiên với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn tới.
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng