Nhìn lại 35 năm đổi mới chính sách tiền tệ và hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngân hàng Việt Nam
Trải qua 70 năm xây dựng, củng cố và phát triển (1951 - 2021), hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng...
aa

Trải qua 70 năm xây dựng, củng cố và phát triển (1951 - 2021), hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mỗi giai đoạn, sự đổi mới, phát triển của hoạt động ngân hàng đều gắn liền với vận mệnh của dân tộc, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống phát triển của Ngành. Đáng chú ý là, bước tiến quan trọng được ghi nhận từ năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế trước những khó khăn chồng chất của đất nước và diễn biến ngày càng phức tạp trên chính trường quốc tế.

Giai đoạn 1986 - 1989

Đây là thời kỳ Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới thực sự, trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với hàng loạt khó khăn thách thức, sản xuất đình trệ, đời sống Nhân dân cực kỳ khó khăn, lạm phát tăng phi mã (năm 1986 lên đến 774,7%), ngân sách thâm hụt trầm trọng,… Nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn và yếu kém trên đây là do cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong nền kinh tế đã triệt tiêu các động lực phát triển; cấm đoán tự do sản xuất và lưu thông hàng hóa; giá cả không phản ánh cung cầu; in tiền bù đắp bội chi ngân sách và làm vốn tín dụng; đầu tư thiên về công nghiệp nặng và doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả; các hiện tượng như lãi suất không theo quy luật và thấp xa tỉ lệ lạm phát, tiền thành “hòn than nóng”, cơ chế tỉ giá cố định cứng nhắc, vàng và ngoại tệ lên ngôi.

Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 và các Nghị quyết Đại hội Đảng sau đó, công cuộc đổi mới đất nước được triển khai mạnh mẽ, nền kinh tế được chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống ngân hàng cũng từng bước đổi mới và phát triển, hoàn thiện về mô hình tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Đáng chú ý là, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mô hình ngân hàng một cấp được chuyển thành mô hình ngân hàng hai cấp, tách bạch dần chức năng quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) với chức năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD). Tổ chức, bộ máy của NHNN được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng.

Trong thời kỳ này, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển và tách ra từ NHNN, bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.

Nhờ đường lối đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng xóa bỏ bao cấp, giải phóng sức sản xuất, tự do hóa sản xuất lưu thông hàng hóa, từng bước tự do hóa giá cả, những khó khăn kinh tế đã được khắc phục đáng kể. Về điều hành chính sách tiền tệ, NHNN chuyển sang cơ chế lãi suất thực dương1 đã thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và thị trường, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Đây là giải pháp có tính đột phá và quyết định sự thành công trong giai đoạn này. Nhờ đó, lạm phát phi mã được đẩy lùi và đến năm 1989 chỉ tăng 35%...

Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ chưa được định hình rõ ràng, NHNN vẫn thực hiện cung ứng tiền theo chỉ đạo của Chính phủ. Nhìn tổng quát trong những năm đầu đổi mới vẫn là chế độ quản lý tiền mặt theo ý chí, mệnh lệnh, chứ chưa theo các quy luật kinh tế hàng hóa và lưu thông tiền tệ.

Giai đoạn 1990 - 1996

Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã đẩy kinh tế Việt Nam lâm vào tình cảnh khó khăn gay gắt hơn, lạm phát trong thời kỳ này tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn trên dưới 10%/năm. Đảng và Chính phủ quyết tâm từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhưng chưa thể vận hành hoàn toàn và đầy đủ theo cơ chế thị trường.

Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua hai Pháp lệnh về Ngân hàng. Nhờ đó, hệ thống ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện, phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Số lượng ngân hàng tăng nhanh nhưng quy mô nhỏ, trình độ quản trị còn yếu kém nên tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Đến cuối năm 1996, toàn hệ thống có 52 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), trong đó 32 NHTMCP đô thị, 20 NHTMCP nông thôn.

Về điều hành chính sách tiền tệ, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thực dương, kết hợp sử dụng các công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế và hàng năm đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm sau. Tuy nhiên, những dấu hiệu phát triển nóng cũng bộc lộ, nhất là thị trường bất động sản. Hoạt động cho vay bất cẩn ngày càng tăng; nhiều chủ ngân hàng lợi dụng vốn ngân hàng để đầu tư cho công ty “sân sau”, lừa đảo tín dụng gia tăng… dẫn tới đổ vỡ hợp tác xã tín dụng và sự suy yếu của nhiều NHTM.

Về quan hệ đối ngoại, từ tháng 10/1993, Việt Nam đã chính thức nối lại quan hệ tín dụng với ba tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).

Giai đoạn 1997 - 2005

Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 - 1998 tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước, tăng trưởng kinh tế chững lại, hoạt động xuất nhập khẩu giảm thấp, đầu tư nước ngoài ngưng trệ, hệ thống ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức. Các yếu kém vốn có của hệ thống ngân hàng trở nên trầm trọng hơn do tác động của cuộc khủng hoảng nêu trên.

Sức ép phá giá VND lên cao và liên tục; bất động sản sụt giảm và đóng băng. Hàng loạt NHTMCP rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, phải sáp nhập vào NHTM Nhà nước (17/53 NHTMCP bị xóa tên trong giai đoạn này).

Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật NHNN và Luật Các TCTD, tạo nền tảng pháp lý cơ bản cho hệ thống ngân hàng tiếp tục đổi mới hoạt động, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

Về các biện pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính - tiền tệ, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997; tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất; ban hành các quy định và thiết chế an toàn để tăng cường khả năng ngăn ngừa biến động xấu của TCTD; áp dụng trích lập dự phòng rủi ro theo hướng tăng dần; thành lập Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại và thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội.

Nhờ những giải pháp nêu trên, VND chỉ giảm giá tổng cộng xấp xỉ 12% trong vòng 8 năm; lãi suất được thả nổi hoàn toàn từ năm 2002 - 2008; lạm phát được giữ ở mức một con số từ năm 1996 (4,5%) đến năm 2006 (6,6%); cao nhất là 9,5% vào năm 2004, thấp nhất (0,1 - 3%) vào năm 2000 - 2003; tăng trưởng GDP bình quân 7% (1996 - 2000), 6,9% (2000 - 2005).

Hệ thống các TCTD được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính. Công nghệ ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành chính thức từ tháng 5/2002. Các mô hình dịch vụ ngân hàng điện tử xuất hiện như E-Banking, Internet Banking. NHNN cũng tích cực tham gia đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng thời chủ động triển khai các cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.

Tuy nhiên, giai đoạn này cũng tồn đọng và ẩn chứa nhiều hệ lụy khi gặp cú sốc từ bên ngoài. Mô hình tăng trưởng dựa vào tăng đầu tư; tín dụng ngân hàng tăng bình quân hàng năm 25 - 30%/năm, kỷ luật ngân sách lỏng lẻo đã xói mòn tính bền vững của nền tảng vĩ mô, dẫn đến lạm phát cao trở lại (từ 2007 - 2011) và tỉ giá biến động mạnh.

Giai đoạn 2006 - 2010

Trong giai đoạn này, tình hình chính trị và kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 và suy thoái kinh tế sau đó đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam vừa mới gia nhập WTO (ngày 11/01/2007) và đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đặt hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam trước nhiều khó khăn và thách thức. Trong khi đó, số lượng các ngân hàng tăng nhanh (các NHTMCP nông thôn được nâng cấp lên thành NHTMCP đô thị, thành lập mới 3 NHTMCP, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài). Mức vốn điều lệ tăng cao trong một thời gian ngắn, dẫn đến tình trạng các ngân hàng hút vốn bằng nhiều cách, tình trạng sở hữu chéo tăng nhanh.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế trong nước và thế giới, chính sách tiền tệ giai đoạn này được điều hành linh hoạt theo từng thời kỳ: (i) Từ năm 2006 đến tháng 10/2008: Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế tăng trưởng nóng; (ii) Từ tháng 11/2008 đến cuối năm 2010: Nới lỏng để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.

NHNN yêu cầu các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật; xử lý kịp thời các vướng mắc về nợ vay và tiếp cận tín dụng của khách hàng; tập trung triển khai có hiệu quả việc thực hiện các cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, đi đôi với mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các nhu cầu vay vốn để sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và các dự án lớn, trọng điểm của Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng.

Điều hành chính sách của NHNN trong giai đoạn này đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ngăn chặn suy giảm kinh tế trước những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Hệ thống ngân hàng đã tích cực hiện đại hóa, đổi mới công nghệ, dịch vụ, hoàn thiện thể chế, chính sách, đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Những biện pháp của Chính phủ về đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu được NHNN thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2010 đã góp phần kiềm chế lạm phát năm 2007 ở mức 12,63%; năm 2008 là 19,9% và năm 2010 là 11,75%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và ngăn chặn đà suy giảm tăng trưởng kinh tế. Kinh tế của Việt Nam trong các năm 2008 - 2010 vẫn tăng trưởng dương (riêng năm 2010 tăng trưởng đạt 6,78%, vượt mục tiêu 6,5% đề ra). Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với các nguyên nhân khách quan, chủ quan khác đã đẩy giá cả tăng khá cao2, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiểm soát lạm phát các năm tiếp theo; tỉ giá diễn biến phức tạp; dự trữ ngoại tệ sụt giảm; thị trường tiền tệ có nhiều dấu hiệu bất ổn do cạnh tranh thiếu lành mạnh; hoạt động của các TCTD tiềm ẩn nhiều rủi ro, chất lượng tín dụng giảm, nợ xấu tăng, thanh khoản gặp khó khăn.

Khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện: Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật NHNN và Luật Các TCTD ngày 16/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Hai Luật này đã tạo nền tảng pháp lý mới, góp phần nâng cao vị thế, trách nhiệm, quyền hạn của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; đồng thời, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và thông lệ, chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam hội nhập quốc tế.

Giai đoạn 2011 - 2016

Do chịu tác động bất lợi của tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 - 2009 và những bất cập nội tại của nền kinh tế, trong những năm 2011 - 2016, kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều thách thức lớn đan xen, lạm phát tăng cao (từ 11,8% năm 2010 tăng vọt lên 18,13% năm 2011); thị trường tiền tệ, ngoại hối và thị trường vàng có nhiều biến động với mặt bằng lãi suất cho vay ở mức cao, lên đến 20 - 25%/năm, thanh khoản của hệ thống TCTD căng thẳng, VND chịu sức ép phá giá, dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm mạnh, kỷ luật thị trường chưa được các TCTD tuân thủ nghiêm chỉnh, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống TCTD.

Với mục tiêu xuyên suốt là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, ngành Ngân hàng đã bám sát chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, phát huy tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm trong toàn Ngành, tăng cường sự gắn kết với các bộ, ngành và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.

Trong giai đoạn này, do công tác dự báo, thống kê về hoạt động tiền tệ - ngân hàng hiệu quả hơn so với giai đoạn trước, nên cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường. NHNN đã triển khai nhiều biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đặc biệt là đối với các lĩnh vực ưu tiên, triển khai hàng loạt chương trình tín dụng với lãi suất ưu đãi. Về điều hành thị trường tiền tệ, các nhóm giải pháp tín dụng được tập trung thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các TCTD. Nhờ tăng cường giám sát và kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động, đồng thời với các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho những ngân hàng yếu kém, tình trạng một số TCTD phải vay mượn lẫn nhau với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng đã được khắc phục đáng kể.

Kết quả nổi bật của hệ thống ngân hàng giai đoạn này là lạm phát được kiểm soát và giảm dần, kinh tế vĩ mô dần ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh từ mức 18,13% năm 2011 xuống còn 0,63% năm 2015, mức thấp nhất trong 15 năm qua; mặt bằng lãi suất giảm từ mức 20 - 25%/năm chỉ còn 6 - 9%/năm; thanh khoản hệ thống ngân hàng từ chỗ thiếu hụt, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống đã cải thiện rõ nét và ổn định bền vững; tín dụng tăng trưởng ở mức hợp lý, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; tỉ giá và thị trường ngoại hối đã cơ bản ổn định, niềm tin vào đồng Việt Nam tăng lên, tình trạng đô la hóa giảm đáng kể, NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ để tăng mạnh dự trữ ngoại hối nhà nước.

Cơ chế quản lý thị trường vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã khắc phục khá triệt để những bất cập của thị trường vàng giai đoạn trước và về cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Thị trường vàng được chấn chỉnh một bước căn bản và đi vào ổn định, dù giá vàng thế giới giai đoạn này có nhiều biến động mạnh, nhưng giá vàng trong nước không có nhiều xáo trộn.

Đáng chú ý, các giải pháp cơ cấu lại và xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ, quyết liệt, công khai, minh bạch theo đúng mục tiêu, định hướng đề ra và theo quy định của pháp luật, các TCTD yếu kém đã được kiểm soát và từng bước được xử lý hiệu quả. Từ năm 2011 - 2015 đã giảm được 19 TCTD yếu kém thông qua hợp nhất, sáp nhập, mua lại, giải thể và thu hồi giấy phép. Đến cuối tháng 11/2015, tỉ lệ nợ xấu giảm còn 2,72% trên tổng dư nợ.

Sự ổn định, an toàn hoạt động và khả năng chi trả của hệ thống các TCTD được giữ vững và cải thiện, không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng ngoài tầm kiểm soát. Hoạt động thanh tra, giám sát được tăng cường; kỷ cương, kỷ luật trên thị trường tiền tệ và trong lĩnh vực ngân hàng được duy trì. Hiệu lực quản lý, điều hành của NHNN trên các lĩnh vực đều được nâng lên rõ rệt, thị trường và xã hội ngày càng tin tưởng vào việc điều hành chính sách của Chính phủ và NHNN.

Giai đoạn 2016 - 2021

Trong giai đoạn này, kinh tế Việt Nam liên tục chịu tác động tiêu cực cả về cung và cầu do kinh tế thế giới diễn biến bất thường, năng suất lao động giảm dần, thiên tai và dịch bệnh ngày càng trầm trọng, căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc và nhiều nền kinh tế chủ chốt khác gia tăng, trào lưu chủ nghĩa dân túy cùng với những thay đổi về chính sách thương mại và hàng loạt vấn đề khác. Đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát và tàn phá hầu hết các nước trên thế giới, nhưng Việt Nam là một trong số ít quốc gia đã thành công trong việc đối phó với đại dịch, không để Covid-19 lây lan phức tạp trong cộng đồng và duy trì được tốc độ tăng trưởng dương với GDP năm 2020 tăng 2,91%, các hoạt động kinh tế nhìn chung ổn định.

Trong lĩnh vực tài chính, thị trường thế giới diễn biến bất thường và đảo chiều nhanh chóng, chính sách tiền tệ nới lỏng tiếp tục chi phối các ngân hàng trung ương, buộc NHNN phải chủ động có giải pháp phù hợp để thích ứng với những thay đổi này. Cụ thể là, NHNN đã điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, đảm bảo thanh khoản thông suốt, ổn định thị trường, góp phần quan trọng thực hiện thành công mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế.

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, NHNN đã điều hành đồng bộ các giải pháp để duy trì ổn định và giảm dần mặt bằng lãi suất. Từ năm 2016 đến nay, NHNN đã điều chỉnh giảm 2 - 2,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,8 - 1,5%/năm trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 2%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên; điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các TCTD, duy trì lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý để tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý; chỉ đạo các TCTD cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay vốn.

Năm 2020, trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, NHNN đã 03 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô cắt giảm khá lớn so với nhiều năm qua3, với tổng mức giảm từ 1,5 - 2%/năm. Việc quyết định giảm các mức lãi suất điều hành của NHNN đã phát tín hiệu mạnh mẽ và nhất quán về chủ trương tiếp tục giảm lãi suất, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. Cùng với các giải pháp chính sách tiền tệ đồng bộ và linh hoạt, các quyết định giảm các mức lãi suất điều hành đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên hiện ở mức 5%/năm, giảm khoảng 2% so với năm 2016.

Về tỉ giá và thị trường ngoại hối, NHNN đã điều hành tỉ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với các cân đối vĩ mô, diễn biến thực tế trên thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn cụ thể. Theo đó, NHNN đã thực hiện công bố tỉ giá trung tâm hàng ngày trên cơ sở tham chiếu diễn biến thị trường trong và ngoài nước, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ, góp phần ổn định tỉ giá và thị trường ngoại tệ trong nước. Từ đầu năm 2020, trong bối cảnh kinh tế - tài chính thế giới biến động mạnh và phức tạp do tác động của đại dịch Covid-19, NHNN đã điều hành tỉ giá linh hoạt, chủ động, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động truyền thông, điều chỉnh giảm tỉ giá bán can thiệp và sẵn sàng bán ngoại tệ để bình ổn thị trường và tình hình kinh tế vĩ mô. Nhờ đó, về cơ bản, tỉ giá và thị trường ngoại hối ổn định, cân đối cung cầu tiếp tục thuận lợi, thanh khoản thông suốt, VND ổn định hơn nhiều so với đồng tiền của nhiều đối tác thương mại.

NHNN đã xây dựng chỉ tiêu định hướng tín dụng và điều hành tín dụng tăng trưởng phù hợp với các cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào khu vực sản xuất kinh doanh và lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực rủi ro.

Các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu4, thanh tra, giám sát ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống, an ninh tiền tệ, tín dụng được đẩy mạnh và đạt được kết quả đáng khích lệ5; các TCTD nghiêm túc thực hiện các quy định Basel II và nâng cấp chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc tế. Cho đến nay, hầu như toàn bộ hệ thống các TCTD đã được chấn chỉnh, củng cố. Các TCTD phi ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, các tổ chức tài chính vi mô cũng đã cơ cấu lại, hoạt động lành mạnh, đã hạn chế được tín dụng đen. Quy mô hệ thống các TCTD tiếp tục tăng6; năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm7; chất lượng quản trị ngân hàng được cải thiện, các NHTM đang thiết lập bộ máy quản trị doanh nghiệp theo phương thức hiện đại. Vai trò và mối quan hệ của ban điều hành, hội đồng quản trị, cổ đông được quy định theo thông lệ quốc tế về quản trị công ty.

Giai đoạn 2016 - 2020 cũng tiếp tục đánh dấu bước tiến vượt bậc trong sự phát triển của hoạt động thanh toán với nhiều sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, tiện ích và hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin. Các chỉ số thanh toán không dùng tiền mặt tăng trưởng ấn tượng; vấn đề đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt được coi trọng và tăng cường; rủi ro và nguy cơ mất an toàn về cơ bản được phát hiện, kiểm soát và xử lý kịp thời; hạ tầng kỹ thuật và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt được đầu tư, nâng cấp, nhất là thanh toán điện tử; xu hướng chuyển dịch rõ nét sang các sản phẩm, dịch vụ có ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, tiện ích và thân thiện với người sử dụng; tiếp tục mở rộng thanh toán điện tử trong khu vực dịch vụ công.

Hiện nay, nhiều ngân hàng trong nước đã ứng dụng công nghệ tiên tiến, giải pháp mới vào hoạt động thanh toán nhằm nâng cao tốc độ thanh toán, tăng cường an toàn, bảo mật dịch vụ cung cấp và thông tin khách hàng.

Mặc dù kinh tế thế giới được dự báo là sẽ phục hồi mạnh mẽ từ năm 2021, sau khi hàng loạt công ty dược phẩm quốc tế bắt đầu sản xuất đại trà các loại vaccine phòng, chống Covid-19 và lập kế hoạch phân phát trên phạm vi toàn cầu, song, diễn biến dịch bệnh trong những tháng đầu năm 2021 vẫn phức tạp với số ca nhiễm và tử vong tiếp tục tăng cao trước sự tấn công của những biến thể virus mới với khả năng kháng thuốc và tốc độ lây nhiễm rất cao. Trong khi đó, thế giới còn chậm trễ trong việc sản xuất và phân phối vaccine. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải theo dõi sát sao diễn biến đại dịch Covid-19 trên thế giới và nguy cơ lan truyền vào đất nước, qua đó có thể đưa ra chính sách và giải pháp phù hợp cho quá trình phục hồi kinh tế quốc gia hậu Covid-19.

Trước tình hình như vậy, NHNN cần tiếp tục thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, theo dõi sát sao các diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong nước và thế giới, làm cơ sở để kịp thời đề xuất các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và những chính sách vĩ mô khác để ổn định giá trị đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đề ra.

Hai là, hoàn thiện thể chế pháp luật ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tăng cường thực thi các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cá nhân và nền kinh tế khôi phục sau đại dịch.

Ba là, kiên trì thực hiện các giải pháp chống đô la hóa và quản lý thị trường vàng theo Nghị định số 24/2012/NĐ-CP, đảm bảo và duy trì ổn định bền vững trên thị trường vàng, hạn chế tác động của giá vàng đến sự ổn định của tỉ giá, thị trường ngoại hối và tình hình kinh tế vĩ mô.

Bốn là, thực hiện các giải pháp về cho vay nhằm kiểm soát quy mô tín dụng ở mức hợp lý, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và quá trình phục hồi kinh tế. Thực hiện các giải pháp hỗ trợ TCTD mở rộng cho vay có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng của đại dịch.

Năm là, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD, nhất là đối với những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt, có hiệu quả Đề án tái cơ cấu gắn với phương án xử lý nợ xấu đã được phê duyệt, tích cực triển khai các giải pháp kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh. Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.

Sáu là, triển khai Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021 - 2025, thúc đẩy thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ và dịch vụ công. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường cạnh tranh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ các kế hoạch của NHNN về cải cách hành chính, tiếp tục hoàn thiện kiến trúc Chính phủ điện tử của NHNN theo phiên bản Chính phủ điện tử 2.0.

Tóm lại, trong 35 năm đổi mới và hội nhập, mặc dù vẫn còn một số khó khăn và hạn chế, song ngành Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, đã có những đóng góp rất lớn cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt thị trường, từng bước chuyển từ cơ chế điều tiết theo khối lượng sang điều hành theo lãi suất. NHNN đã thực hiện công bố định hướng điều hành lãi suất và triển khai đồng bộ các biện pháp để đạt mục tiêu là giảm dần mặt bằng lãi suất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ dân; tiến hành điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất điều hành, kết hợp với áp dụng biện pháp hành chính phù hợp theo diễn biến thị trường.

Chính sách tỉ giá8 được điều hành khá linh hoạt theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên cơ sở rổ tiền tệ, tỉ giá vì thế đã phản ánh tương đối chính xác sức mua của VND và tương quan giữa VND với các loại ngoại tệ của các nước có quan hệ thương mại, đầu tư và tín dụng với Việt Nam. Việc điều chỉnh tỉ giá linh hoạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM và NHNN tăng mua ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng phần lớn các nhu cầu ngoại tệ của khách hàng và đảm bảo mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, giúp bảo đảm an ninh tài chính tiền tệ quốc gia và củng cố mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.

Với những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam liên tục phát triển và ngày càng vững mạnh; phương thức quản lý, điều hành và khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng hoàn thiện dần theo hướng thông thoáng, minh bạch hơn, là nền tảng quan trọng cho sự phát triển lành mạnh, hiệu quả và bền vững hơn của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.


1 Tăng lãi suất tiết kiệm, duy trì lãi suất thực dương cao hơn lạm phát: Tiền gửi không kỳ hạn 9%/tháng (lạm phát 8%/tháng); kỳ hạn tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng; lãi suất cho vay từ 15 - 18%/tháng.

2 Từ 2007 - 2010, CPI tăng bình quân mỗi năm là 12,6%.

3 Vào các ngày 17/3/2020, 13/5/2020 và 01/10/2020.

4Theo Đề án 1058 và Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.

5 Tỉ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD qua các năm 2016 là 2,46%; năm 2017 là 1,99%, năm 2018 là 1,91%, năm 2019 là 1,63% và đến tháng 7/2020 là 1,92%.

6Đến cuối tháng 8/2020, tổng tài sản đạt gần 13 triệu tỉ đồng, tăng 52,1% so với cuối năm 2016.

7Tăng gần 29% so với cuối năm 2016.

8 Từ ngày 04/01/2016, bắt đầu thực hiện theo tỉ giá trung tâm của VND với USD, tỉ giá tính chéo của VND với một số loại ngoại tệ khác.


Tài liệu tham khảo:

1. Cổng thông tin điện tử NHNN.

2. Cổng thông tin điện tử Chính phủ.


Nguyễn Đức Long

Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê, NHNN


Tạp chí Ngân hàng số Chuyên đề đặc biệt 2021


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Công tác xây dựng Đảng góp phần quan trọng hoàn thành nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng năm 2024

Ở trong nước, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng kinh tế trên đà phục hồi, các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024.
Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam vươn lên những tầm cao mới

Agribank là ngân hàng tiên phong dành nguốn vốn 50.000 tỉ đồng để triển khai chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.
Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy để xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững

Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến,...
Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Ký ức không quên về Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán

Chiều một ngày cuối năm 1994, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đỗ Quế Lượng chủ trì một cuộc họp. Tham gia cuộc họp là đại diện một số vụ, cục thuộc NHNN, gồm: Cục Công nghệ tin học; ...
Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Những ngày đầu tham gia xây dựng Nhà máy In tiền Quốc gia

Tôi luôn có những cảm xúc sâu sắc, thiêng liêng, xen lẫn tự hào khi bồi hồi nhớ lại những năm tháng làm việc trong ngành Ngân hàng. Trong quãng thời gian ấy, tôi đã có những kỷ niệm không thể nào quên khi cùng với các anh chị em, các cán bộ, kỹ sư tham gia làm việc tại Ban Quản lý xây dựng công trình K84 (Nhà máy In tiền Quốc gia). Ôn lại những kỷ niệm đã qua thấy thật vinh dự, tự hào là một trong những cán bộ đã từng tham gia xây dựng công trình K84.
Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Hệ thống ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh - Dấu ấn 30 năm đổi mới và phát triển

Ngày 23/5/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)... Trụ sở NHNN...
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng - Điểm nhấn trong 70 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Việt Nam

Năm 2021, ngành Ngân hàng Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập (6/5/1951 - 6/5/2021). Trong 70 năm xây dựng và phát triển, toàn Ngành luôn nỗ lực, vượt qua nhiều gian nan, thử thách, đạt được nhiều thành...
35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

35 năm cải cách Ngân hàng: Thành quả, hạn chế và thách thức, gợi mở các giải pháp

Quá trình cải cách khu vực ngân hàng đi liền với sự đổi mới thể chế kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2021, ngành Ngân hàng...
Xem thêm
Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Tài chính xanh chỉ có thể phát huy hiệu quả khi dòng vốn được phân bổ đúng địa chỉ, đúng nhu cầu và thực chất, nhằm bảo đảm tín dụng xanh không chỉ là trách nhiệm với cộng đồng mà còn trở thành cơ hội chiến lược để các ngân hàng định vị hướng phát triển bền vững của mình.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2025, có hiệu lực từ ngày 01/5/2026, đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng trong khuôn khổ pháp lý bảo vệ người gửi tiền tại Việt Nam. Trong bối cảnh hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển theo chiều sâu và rủi ro lan truyền gia tăng, bảo hiểm tiền gửi đang được tái định vị như một công cụ chính sách chủ động nhằm quản trị rủi ro hệ thống và củng cố niềm tin thị trường.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Luật Thuế Thu nhập cá nhân năm 2025 cho thấy cách tiếp cận mới trong xây dựng chính sách thuế, khi không chỉ tập trung mở rộng diện thu và tăng cường quản lý thu nhập mà còn chủ động sử dụng thuế như một công cụ định hướng phát triển kinh tế bền vững.
Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: Doanh nghiệp cần chủ động, minh bạch thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy, mặc dù nhiều công ty niêm yết đáp ứng đúng quy định về số lượng và tiêu chuẩn của thành viên độc lập, nhưng vẫn tồn tại tình trạng bổ nhiệm hình thức, chưa phát huy hiệu quả giám sát thực chất. Do đó, việc hoàn thiện tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị là cần thiết để nâng cao chất lượng giám sát, đảm bảo tính minh bạch trong quản trị và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của các công ty niêm yết theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến mức độ chủ động vay vốn của doanh nghiệp

Ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến mức độ chủ động vay vốn của doanh nghiệp

Quyết định vay vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố ngoài thị trường tài chính thuần túy, trong đó môi trường thông tin và thể chế ngày càng nổi lên như những biến số quan trọng. Trên cơ sở phân tích định lượng, bài viết đánh giá vai trò của tự do ngôn luận trong mối quan hệ giữa tham nhũng và sự nản lòng vay vốn ngân hàng.
Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh xét theo cả quy mô giao dịch và mức độ phổ cập trong đời sống tài chính, yêu cầu hoàn thiện khung phòng, chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, bởi các chỉ dấu khách quan cho thấy Việt Nam vừa nằm trong nhóm quốc gia có giá trị giao dịch trên chuỗi rất lớn.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.

Thông tư số 43/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2022/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng

Thông tư số 42/2025/TT-NHNN quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng là hợp tác xã

Thông tư số 41/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam