Nâng cao năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng

Hoạt động ngân hàng
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) có vai trò quan trọng, đã và đang tham gia tích cực vào quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam trong nhiều năm qua.
aa

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) có vai trò quan trọng, đã và đang tham gia tích cực vào quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc mở rộng phạm vi, đối tượng của bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tham gia vào xử lý các TCTD yếu kém theo Luật Các TCTD năm 2024, đã đặt ra những yêu cầu mới trong việc nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN để tham gia hiệu quả hơn vào quá trình cơ cấu lại các TCTD.


ThS. Nguyễn Đình Việt - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La,
nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội


Vai trò của BHTGVN trong cơ cấu lại các TCTD

BHTG có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống TCTD tại các quốc gia, tạo cơ chế đối chiếu chéo giữa các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài chính. Qua đó, BHTG giúp cảnh báo sớm và tham gia trực tiếp vào quá trình cơ cấu lại các TCTD yếu kém, khắc phục những sự cố, quản lý rủi ro cũng như tối thiểu hóa thiệt hại cho người gửi tiền, hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

Tại Việt Nam, vai trò của BHTG đã được nhấn mạnh tại Luật BHTG năm 2012
1 và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”2, trong đó, xác định một trong các nguồn lực để cơ cấu lại các TCTD là từ quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTG; đồng thời, vai trò này cũng đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng được mở rộng về phạm vi, đối tượng tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD (Luật số 17/2017/QH14 và Luật số 32/2024/QH15). Theo đó, vai trò của BHTGVN được quy định cụ thể như sau: Tham gia đánh giá tính khả thi phương án phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); cho vay đặc biệt đối với ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, QTDND, tổ chức tài chính vi mô theo quy định của pháp luật về BHTG; mua trái phiếu dài hạn của TCTD nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN); tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, phối hợp với TCTD để chi trả BHTG cho người gửi tiền theo phương án phá sản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt…

Trong nhiều năm qua, BHTGVN đã tham gia tích cực vào quá trình cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. BHTGVN đã ban hành Quy chế về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt kèm theo Quyết định số 593/QĐ-BHTG ngày 07/9/2018; hướng dẫn thực hiện Quy chế về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt số 1327/HD-BHTG ngày 29/10/2019; hướng dẫn tạm thời về việc BHTGVN tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với QTDND; quy định tạm thời về Tổ xử lý đột biến đối với QTDND có vấn đề; ban hành Hướng dẫn tạm thời đánh giá tính khả thi phương án phục hồi QTDND và tổ chức tài chính vi mô được kiểm soát đặc biệt...

BHTGVN đã tham gia thực hiện giám sát tình hình hoạt động và thực hiện phương án củng cố, chấn chỉnh QTDND, đặc biệt là giám sát số liệu chi tiết, biến động tài sản của QTDND, số dư tiền gửi, tiền gửi được bảo hiểm, tình hình phân loại nợ, khả năng thu hồi nợ của QTDND để đánh giá khả năng chi trả tiền gửi đến hạn thanh toán; xử lý các tình huống phát sinh, tham gia ý kiến đối với phương án xử lý QTDND được kiểm soát đặc biệt; thực hiện đối chiếu, xác minh, lập danh sách người gửi tiền, tham gia tuyên truyền, hỗ trợ đối với các QTDND…

Hằng năm, BHTGVN đã xây dựng mức vốn dự phòng cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt để chủ động nguồn lực tài chính, sẵn sàng cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt đủ điều kiện vay vốn. Đồng thời, chủ động, tích cực tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi khi được yêu cầu, đề xuất phương án xử lý phù hợp với quy định của Luật Các TCTD.




(Ảnh minh họa, Nguồn: Internet)


Thực trạng năng lực tài chính của BHTGVN

Phí BHTG là nguồn thu chủ yếu của quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN. Hiện nay, mức phí BHTG là 0,15%/năm tính trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm bình quân, áp dụng đồng hạng đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG.

Để chủ động về nguồn lực tài chính bảo vệ cho tiền gửi tại 1.278 tổ chức tham gia BHTG, BHTGVN đã chủ động đôn đốc, hướng dẫn các tổ chức tham gia BHTG gửi bảng kê số dư tiền gửi được bảo hiểm để tính và nộp phí BHTG, thực hiện tính và thu phí BHTG theo quy định; kịp thời giải đáp, xử lý các vấn đề phát sinh nhằm hạn chế tối đa việc nộp muộn, thừa, thiếu phí BHTG.

Tổng số phí BHTG thu được trong năm 2023 là 10.614 tỉ đồng, vượt 10,3% so với kế hoạch NHNN giao; thực hiện miễn nộp phí BHTG cho một số tổ chức tham gia BHTG được kiểm soát đặc biệt theo quy định với tổng số tiền là 755,8 tỉ đồng.

Đến hết tháng 6/2024, tổng nguồn vốn của BHTGVN đạt hơn 117 nghìn tỉ đồng, tăng gần 15% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng hơn 7% so với thời điểm ngày 31/12/2023. Đây là nguồn lực để sẵn sàng chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi cần thiết và tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.

Trong các năm qua, hoạt động đầu tư của BHTGVN được thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm an toàn, phát triển vốn. Số tiền đầu tư lũy kế hằng năm giai đoạn 2015 - 2022 tăng với tốc độ trung bình khoảng 21%. Tỉ trọng số tiền đầu tư lũy kế/tổng nguồn vốn ổn định với mức 93 - 96%. Tổng doanh thu của BHTGVN gồm doanh thu từ hoạt động đầu tư và doanh thu khác (thu cho thuê trụ sở, thu tư vấn, đào tạo cán bộ cho tổ chức tham gia BHTG…), trong đó, doanh thu từ hoạt động đầu tư chiếm trên 99%, doanh thu khác chiếm dưới 1%; bình quân tốc độ tăng doanh thu đầu tư giai đoạn 2015 - 2022 là khoảng 11%, qua đó giúp tích lũy và gia tăng vốn, góp phần nâng cao năng lực tài chính của BHTG Việt Nam, cải thiện vị thế và bảo đảm thực hiện các mục tiêu chính sách công về BHTG.

Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của BHTGVN đã bộc lộ những hạn chế nhất định khi danh mục đầu tư của BHTGVN là trái phiếu Chính phủ (chiếm trên 99% danh mục đầu tư), tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Trong bối cảnh lãi suất gửi tiền tại NHNN thấp, tín phiếu NHNN khó tìm được đối tác giao dịch, trong khi nguyên tắc đầu tư trái phiếu Chính phủ của BHTGVN là “mua - nắm giữ đến ngày đáo hạn” và chỉ được bán trong trường hợp Quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để chi trả BHTG có thể hạn chế tính linh hoạt trong điều phối dòng tiền, phần nào ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, phục vụ chi trả nếu BHTG Việt Nam phát sinh nghĩa vụ này.

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN để tham gia hiệu quả hơn vào cơ cấu lại các TCTD

Về phí BHTG: Sự thay đổi của chính sách liên quan đến phí BHTG thường có tác động lớn tới hệ thống các tổ chức tham gia BHTG, đòi hỏi cần có sự cân nhắc thận trọng trong trường hợp điều chỉnh chính sách về phí BHTG. Do vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định phí BHTG rõ ràng, phù hợp với đặc thù hệ thống TCTD tại Việt Nam.

Luật Các TCTD năm 2024 quy định, BHTGVN xây dựng phương án tăng phí BHTG để bù đắp phần vay đặc biệt NHNN trong trường hợp số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN không đủ để chi trả cho người gửi tiền theo phương án phá sản đã được phê duyệt. Đây là nội dung mới, cần được nghiên cứu, đề xuất bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG liên quan đến xây dựng phương án tăng phí BHTG tại Luật BHTG.

Ngoài ra, để BHTGVN có cơ sở triển khai, cần có quy định cụ thể về trường hợp, điều kiện tăng phí BHTG; thẩm quyền, quy trình, thủ tục tăng phí BHTG và các vấn đề khác có liên quan. Những nội dung này cần thiết đưa vào nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật BHTG và các văn bản hướng dẫn Luật.

Cơ chế vay đặc biệt từ NHNN: Luật Các TCTD năm 2024 quy định BHTGVN được: (i) Vay đặc biệt NHNN trong trường hợp số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTG Việt Nam không đủ để chi trả cho người gửi tiền theo phương án phá sản đã được phê duyệt; (ii) Sử dụng tiền trả nợ vay đặc biệt của tổ chức tín dụng, nguồn thu từ bán giấy tờ có giá do BHTGVN nắm giữ, từ thanh lý tài sản của TCTD vay đặc biệt, phí BHTG để ưu tiên hoàn trả nợ vay đặc biệt cho NHNN. Đây là nội dung mới, để có cơ sở triển khai cần có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của tổ chức BHTG liên quan đến vay đặc biệt NHNN để bảo đảm đồng bộ với Luật Các TCTD năm 2024, đồng thời, quy định rõ trường hợp, điều kiện, trình tự, thủ tục vay đặc biệt NHNN; nguồn tiền trả nợ vay đặc biệt NHNN.

Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước: Cơ chế BHTGVN được tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại khoản 12 Điều 13 của Luật BHTG năm 2012. Mục tiêu của phương án này là nhằm tạo vốn từ tiếp nhận hỗ trợ để thực hiện chi trả và tham gia cơ cấu lại thông qua mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ. Do vậy, có thể nghiên cứu để áp dụng mức lãi suất tiếp nhận hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước để bổ sung thêm nguồn lực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG và tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu.

Phương án vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ: Cơ chế BHTGVN vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ cũng được quy định tại khoản 12 Điều 13 của Luật BHTG năm 2012. Cần nghiên cứu quy định cụ thể tỉ lệ khoản vay của BHTGVN vay của TCTD, tổ chức khác có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đồng thời, BHTGVN có trách nhiệm theo dõi việc sử dụng khoản vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ và báo cáo NHNN tình hình thực hiện. Khi đến hạn hoàn trả, BHTGVN thực hiện phương án hoàn trả nợ vay có bảo lãnh của Chính phủ theo quy định.

Bài viết đã kiến nghị bốn nhóm vấn đề chính để nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN nhằm phát huy vai trò của BHTGVN, tham gia hiệu quả hơn và tích cực hơn vào quá trình cơ cấu lại các TCTD trong thời gian tới. Các kiến nghị này liên quan đến việc sửa đổi Luật BHTG trong thời gian tới, cũng như trong tổ chức triển khai Luật Các TCTD năm 2024. Các đề xuất nêu trên nhằm đưa ra các giải pháp căn cơ nhưng bền vững, giúp giảm thiểu rủi ro của hệ thống các TCTD, hiện thực hóa vai trò tham gia sâu hơn của BHTGVN vào quá trình cơ cấu lại các TCTD.


1 Khoản 13 Điều 13, Luật BHTG năm 2012 quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG như sau: “Tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của NHNN; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ”.
2 Ban hành kèm theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Tài liệu tham khảo:

1. Anh Minh (2020). Nâng vai trò của BHTG trong kiểm soát đặc biệt các TCTD.
https://baochinhphu.vn/nang-vai-tro-cua-bao-hiem-tien-gui-trong-kiem-soat-dac-biet-cac-to-chuc-tin-dung-102278145.htm
2. BHTGVN (2023). Báo cáo thường niên năm 2022.
3. BHTGVN (2024). Bản tin Quý II năm 2024.
4. BHTGVN (2024). Xây dựng cơ chế huy động tài chính để BHTGVN tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại TCTD.
https://p.gov.vn/xay-dung-co-che-huy-dong-tai-chinh-de-bao-hiem-tien-gui-viet-nam-tham-gia-co-hieu-qua-vao-qua-trinh-co-cau-lai-to-chuc-tin-dung
5. Luật BHTG năm 2012.
6. Luật Các TCTD năm 2024.
7. Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025".
8. Tạp chí tài chính (2023). Nâng cao vai trò của BHTGVN trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD.
https://tapchitaichinh.vn/nang-cao-vai-tro-cua-bao-hiem-tien-gui-viet-nam-trong-tai-co-cau-he-thong-cac-to-chuc-tin-dung.html
9. Vĩnh Hoàng (2023). Tăng cường vai trò của BHTG trong phát hiện sớm và can thiệp kịp thời các TCTD yếu, kém. https://tapchinganhang.gov.vn/tang-cuong-vai-tro-cua-bao-hiem-tien-gui-trong-phat-hien-som-va-can-thiep-kip-thoi-cac-to-chuc-tin-d.htm

ThS. Nguyễn Đình Việt
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng