Nâng cao năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng

Hoạt động ngân hàng
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) có vai trò quan trọng, đã và đang tham gia tích cực vào quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam trong nhiều năm qua.
aa

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) có vai trò quan trọng, đã và đang tham gia tích cực vào quá trình cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc mở rộng phạm vi, đối tượng của bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tham gia vào xử lý các TCTD yếu kém theo Luật Các TCTD năm 2024, đã đặt ra những yêu cầu mới trong việc nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN để tham gia hiệu quả hơn vào quá trình cơ cấu lại các TCTD.


ThS. Nguyễn Đình Việt - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La,
nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội


Vai trò của BHTGVN trong cơ cấu lại các TCTD

BHTG có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống TCTD tại các quốc gia, tạo cơ chế đối chiếu chéo giữa các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài chính. Qua đó, BHTG giúp cảnh báo sớm và tham gia trực tiếp vào quá trình cơ cấu lại các TCTD yếu kém, khắc phục những sự cố, quản lý rủi ro cũng như tối thiểu hóa thiệt hại cho người gửi tiền, hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

Tại Việt Nam, vai trò của BHTG đã được nhấn mạnh tại Luật BHTG năm 2012
1 và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025”2, trong đó, xác định một trong các nguồn lực để cơ cấu lại các TCTD là từ quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTG; đồng thời, vai trò này cũng đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng được mở rộng về phạm vi, đối tượng tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD (Luật số 17/2017/QH14 và Luật số 32/2024/QH15). Theo đó, vai trò của BHTGVN được quy định cụ thể như sau: Tham gia đánh giá tính khả thi phương án phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); cho vay đặc biệt đối với ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, QTDND, tổ chức tài chính vi mô theo quy định của pháp luật về BHTG; mua trái phiếu dài hạn của TCTD nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN); tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, phối hợp với TCTD để chi trả BHTG cho người gửi tiền theo phương án phá sản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt…

Trong nhiều năm qua, BHTGVN đã tham gia tích cực vào quá trình cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. BHTGVN đã ban hành Quy chế về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt kèm theo Quyết định số 593/QĐ-BHTG ngày 07/9/2018; hướng dẫn thực hiện Quy chế về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt số 1327/HD-BHTG ngày 29/10/2019; hướng dẫn tạm thời về việc BHTGVN tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với QTDND; quy định tạm thời về Tổ xử lý đột biến đối với QTDND có vấn đề; ban hành Hướng dẫn tạm thời đánh giá tính khả thi phương án phục hồi QTDND và tổ chức tài chính vi mô được kiểm soát đặc biệt...

BHTGVN đã tham gia thực hiện giám sát tình hình hoạt động và thực hiện phương án củng cố, chấn chỉnh QTDND, đặc biệt là giám sát số liệu chi tiết, biến động tài sản của QTDND, số dư tiền gửi, tiền gửi được bảo hiểm, tình hình phân loại nợ, khả năng thu hồi nợ của QTDND để đánh giá khả năng chi trả tiền gửi đến hạn thanh toán; xử lý các tình huống phát sinh, tham gia ý kiến đối với phương án xử lý QTDND được kiểm soát đặc biệt; thực hiện đối chiếu, xác minh, lập danh sách người gửi tiền, tham gia tuyên truyền, hỗ trợ đối với các QTDND…

Hằng năm, BHTGVN đã xây dựng mức vốn dự phòng cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt để chủ động nguồn lực tài chính, sẵn sàng cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt đủ điều kiện vay vốn. Đồng thời, chủ động, tích cực tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi khi được yêu cầu, đề xuất phương án xử lý phù hợp với quy định của Luật Các TCTD.




(Ảnh minh họa, Nguồn: Internet)


Thực trạng năng lực tài chính của BHTGVN

Phí BHTG là nguồn thu chủ yếu của quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN. Hiện nay, mức phí BHTG là 0,15%/năm tính trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm bình quân, áp dụng đồng hạng đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG.

Để chủ động về nguồn lực tài chính bảo vệ cho tiền gửi tại 1.278 tổ chức tham gia BHTG, BHTGVN đã chủ động đôn đốc, hướng dẫn các tổ chức tham gia BHTG gửi bảng kê số dư tiền gửi được bảo hiểm để tính và nộp phí BHTG, thực hiện tính và thu phí BHTG theo quy định; kịp thời giải đáp, xử lý các vấn đề phát sinh nhằm hạn chế tối đa việc nộp muộn, thừa, thiếu phí BHTG.

Tổng số phí BHTG thu được trong năm 2023 là 10.614 tỉ đồng, vượt 10,3% so với kế hoạch NHNN giao; thực hiện miễn nộp phí BHTG cho một số tổ chức tham gia BHTG được kiểm soát đặc biệt theo quy định với tổng số tiền là 755,8 tỉ đồng.

Đến hết tháng 6/2024, tổng nguồn vốn của BHTGVN đạt hơn 117 nghìn tỉ đồng, tăng gần 15% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng hơn 7% so với thời điểm ngày 31/12/2023. Đây là nguồn lực để sẵn sàng chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi cần thiết và tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.

Trong các năm qua, hoạt động đầu tư của BHTGVN được thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm an toàn, phát triển vốn. Số tiền đầu tư lũy kế hằng năm giai đoạn 2015 - 2022 tăng với tốc độ trung bình khoảng 21%. Tỉ trọng số tiền đầu tư lũy kế/tổng nguồn vốn ổn định với mức 93 - 96%. Tổng doanh thu của BHTGVN gồm doanh thu từ hoạt động đầu tư và doanh thu khác (thu cho thuê trụ sở, thu tư vấn, đào tạo cán bộ cho tổ chức tham gia BHTG…), trong đó, doanh thu từ hoạt động đầu tư chiếm trên 99%, doanh thu khác chiếm dưới 1%; bình quân tốc độ tăng doanh thu đầu tư giai đoạn 2015 - 2022 là khoảng 11%, qua đó giúp tích lũy và gia tăng vốn, góp phần nâng cao năng lực tài chính của BHTG Việt Nam, cải thiện vị thế và bảo đảm thực hiện các mục tiêu chính sách công về BHTG.

Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của BHTGVN đã bộc lộ những hạn chế nhất định khi danh mục đầu tư của BHTGVN là trái phiếu Chính phủ (chiếm trên 99% danh mục đầu tư), tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN. Trong bối cảnh lãi suất gửi tiền tại NHNN thấp, tín phiếu NHNN khó tìm được đối tác giao dịch, trong khi nguyên tắc đầu tư trái phiếu Chính phủ của BHTGVN là “mua - nắm giữ đến ngày đáo hạn” và chỉ được bán trong trường hợp Quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để chi trả BHTG có thể hạn chế tính linh hoạt trong điều phối dòng tiền, phần nào ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, phục vụ chi trả nếu BHTG Việt Nam phát sinh nghĩa vụ này.

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN để tham gia hiệu quả hơn vào cơ cấu lại các TCTD

Về phí BHTG: Sự thay đổi của chính sách liên quan đến phí BHTG thường có tác động lớn tới hệ thống các tổ chức tham gia BHTG, đòi hỏi cần có sự cân nhắc thận trọng trong trường hợp điều chỉnh chính sách về phí BHTG. Do vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định phí BHTG rõ ràng, phù hợp với đặc thù hệ thống TCTD tại Việt Nam.

Luật Các TCTD năm 2024 quy định, BHTGVN xây dựng phương án tăng phí BHTG để bù đắp phần vay đặc biệt NHNN trong trường hợp số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTGVN không đủ để chi trả cho người gửi tiền theo phương án phá sản đã được phê duyệt. Đây là nội dung mới, cần được nghiên cứu, đề xuất bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG liên quan đến xây dựng phương án tăng phí BHTG tại Luật BHTG.

Ngoài ra, để BHTGVN có cơ sở triển khai, cần có quy định cụ thể về trường hợp, điều kiện tăng phí BHTG; thẩm quyền, quy trình, thủ tục tăng phí BHTG và các vấn đề khác có liên quan. Những nội dung này cần thiết đưa vào nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật BHTG và các văn bản hướng dẫn Luật.

Cơ chế vay đặc biệt từ NHNN: Luật Các TCTD năm 2024 quy định BHTGVN được: (i) Vay đặc biệt NHNN trong trường hợp số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ của BHTG Việt Nam không đủ để chi trả cho người gửi tiền theo phương án phá sản đã được phê duyệt; (ii) Sử dụng tiền trả nợ vay đặc biệt của tổ chức tín dụng, nguồn thu từ bán giấy tờ có giá do BHTGVN nắm giữ, từ thanh lý tài sản của TCTD vay đặc biệt, phí BHTG để ưu tiên hoàn trả nợ vay đặc biệt cho NHNN. Đây là nội dung mới, để có cơ sở triển khai cần có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của tổ chức BHTG liên quan đến vay đặc biệt NHNN để bảo đảm đồng bộ với Luật Các TCTD năm 2024, đồng thời, quy định rõ trường hợp, điều kiện, trình tự, thủ tục vay đặc biệt NHNN; nguồn tiền trả nợ vay đặc biệt NHNN.

Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước: Cơ chế BHTGVN được tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại khoản 12 Điều 13 của Luật BHTG năm 2012. Mục tiêu của phương án này là nhằm tạo vốn từ tiếp nhận hỗ trợ để thực hiện chi trả và tham gia cơ cấu lại thông qua mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ. Do vậy, có thể nghiên cứu để áp dụng mức lãi suất tiếp nhận hỗ trợ phù hợp từ ngân sách nhà nước để bổ sung thêm nguồn lực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG và tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu.

Phương án vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ: Cơ chế BHTGVN vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ cũng được quy định tại khoản 12 Điều 13 của Luật BHTG năm 2012. Cần nghiên cứu quy định cụ thể tỉ lệ khoản vay của BHTGVN vay của TCTD, tổ chức khác có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đồng thời, BHTGVN có trách nhiệm theo dõi việc sử dụng khoản vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ và báo cáo NHNN tình hình thực hiện. Khi đến hạn hoàn trả, BHTGVN thực hiện phương án hoàn trả nợ vay có bảo lãnh của Chính phủ theo quy định.

Bài viết đã kiến nghị bốn nhóm vấn đề chính để nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN nhằm phát huy vai trò của BHTGVN, tham gia hiệu quả hơn và tích cực hơn vào quá trình cơ cấu lại các TCTD trong thời gian tới. Các kiến nghị này liên quan đến việc sửa đổi Luật BHTG trong thời gian tới, cũng như trong tổ chức triển khai Luật Các TCTD năm 2024. Các đề xuất nêu trên nhằm đưa ra các giải pháp căn cơ nhưng bền vững, giúp giảm thiểu rủi ro của hệ thống các TCTD, hiện thực hóa vai trò tham gia sâu hơn của BHTGVN vào quá trình cơ cấu lại các TCTD.


1 Khoản 13 Điều 13, Luật BHTG năm 2012 quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG như sau: “Tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của NHNN; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ”.
2 Ban hành kèm theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Tài liệu tham khảo:

1. Anh Minh (2020). Nâng vai trò của BHTG trong kiểm soát đặc biệt các TCTD.
https://baochinhphu.vn/nang-vai-tro-cua-bao-hiem-tien-gui-trong-kiem-soat-dac-biet-cac-to-chuc-tin-dung-102278145.htm
2. BHTGVN (2023). Báo cáo thường niên năm 2022.
3. BHTGVN (2024). Bản tin Quý II năm 2024.
4. BHTGVN (2024). Xây dựng cơ chế huy động tài chính để BHTGVN tham gia có hiệu quả vào quá trình cơ cấu lại TCTD.
https://p.gov.vn/xay-dung-co-che-huy-dong-tai-chinh-de-bao-hiem-tien-gui-viet-nam-tham-gia-co-hieu-qua-vao-qua-trinh-co-cau-lai-to-chuc-tin-dung
5. Luật BHTG năm 2012.
6. Luật Các TCTD năm 2024.
7. Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025".
8. Tạp chí tài chính (2023). Nâng cao vai trò của BHTGVN trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD.
https://tapchitaichinh.vn/nang-cao-vai-tro-cua-bao-hiem-tien-gui-viet-nam-trong-tai-co-cau-he-thong-cac-to-chuc-tin-dung.html
9. Vĩnh Hoàng (2023). Tăng cường vai trò của BHTG trong phát hiện sớm và can thiệp kịp thời các TCTD yếu, kém. https://tapchinganhang.gov.vn/tang-cuong-vai-tro-cua-bao-hiem-tien-gui-trong-phat-hien-som-va-can-thiep-kip-thoi-cac-to-chuc-tin-d.htm

ThS. Nguyễn Đình Việt
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô