Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Chính sách
Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
aa

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích các yếu tố tác động đến tín dụng bất động sản năm 2025 trong bối cảnh kinh tế vĩ mô còn nhiều thách thức. Với chính sách điều hành linh hoạt của NHNN và xu hướng tái cấu trúc danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại, thị trường bất động sản năm 2025 và các năm tiếp theo được dự báo sẽ chuyển dịch theo hướng an toàn, minh bạch và bền vững hơn. Tuy có thể làm chậm quá trình phục hồi trong ngắn hạn, nhưng đây là nền tảng quan trọng để giảm thiểu rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng tăng trưởng dài hạn. Trên cơ sở số liệu thống kê từ NHNN và các nguồn dữ liệu uy tín, bài viết phân tích các xu hướng chủ đạo như sự phục hồi không đồng đều giữa các phân khúc, áp lực thanh khoản tăng cao, tỉ lệ nợ xấu tiềm ẩn và rủi ro tín dụng năm 2025 và các năm tiếp theo. Từ đó, đề xuất một số định hướng chính sách nhằm tăng cường hiệu quả tín dụng vào lĩnh vực bất động sản, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bền vững.

Từ khóa: Bất động sản, tín dụng, tài chính, nợ xấu, chính sách tiền tệ.

FLEXIBLE CREDIT GOVERNANCE
IS THE FOUNDATION FOR THE SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF REAL ESTATE MARKET

Abstract: This article focuses on analyzing the factors influencing real estate credit in 2025 amid ongoing macroeconomic challenges. With the State Bank of Vietnam’s flexible regulatory policies and commercial banks’ trend of restructuring their loan portfolios, the real estate market in 2025 and the following years is expected to shift toward greater safety, transparency and sustainability. Although this transition may slow short-term recovery, it serves as a crucial foundation for minimizing credit risks and enhancing the credit quality of long-term growth. Based on statistical data from the State Bank of Vietnam and other reputable sources, the article examines key trends such as uneven recovery across real estate segments, heightened liquidity pressures, rising potential non-performing loans and credit risks in 2025 and the following years. Accordingly, the author proposes some policy directions to enhance the effectiveness of credit in the real estate sector and promote the sustainable development of the real estate market.

Keywords: Real estate, credit, finance, non-performing loans, monetary policy.

Thị trường bất động sản: Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho phát triển bền vững
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

1. Tổng quan về tín dụng bất động sản năm 2024 và đầu năm 2025

Năm 2024 đánh dấu giai đoạn phục hồi dần của thị trường bất động sản Việt Nam sau giai đoạn trầm lắng kéo dài từ cuối năm 2022 đến hết năm 2023. Sự phục hồi này chủ yếu đến từ chính sách tiền tệ nới lỏng, động thái giảm lãi suất cho vay mua nhà, cùng với việc tháo gỡ những nút thắt pháp lý cho các dự án nhà ở thương mại và nhà ở xã hội. Nguồn cung bắt đầu được cải thiện, đặc biệt ở các đô thị loại 1 và khu công nghiệp. Phân khúc nhà ở xã hội ghi nhận mức tăng trưởng nổi bật, phản ánh sự nỗ lực phối hợp của khu vực công và tư nhân trước yêu cầu về nhà ở cho người thu nhập thấp. Trong năm 2024, cả nước đã hoàn thành 28 dự án với quy mô 20.284 căn (tăng 46% so với năm 2023); khởi công 23 dự án với quy mô 25.399 căn (tăng 13% so với năm 2023); 113 dự án dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư với tổng cộng 142.450 căn (tăng 101% so với năm 2023). Thực hiện Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1.000.000 căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030, năm 2024 trên địa bàn cả nước đã có 645 dự án nhà ở xã hội đã được triển khai với quy mô 581.218 căn, trong đó có 96 dự án với quy mô 57.652 căn đã hoàn thành, 135 dự án với quy mô 115.630 căn đã khởi công xây dựng, 414 dự án với quy mô 407.936 căn đã được chấp thuận chủ trương đầu tư (Bộ Xây dựng, 2025).

Liên quan đến gói tín dụng 120.000 tỉ đồng hỗ trợ cho vay nhà ở xã hội, đến ngày 31/12/2024, các ngân hàng đã cam kết giải ngân trên 4.000 tỉ đồng, doanh số cho vay đạt 2.360 tỉ đồng (2.162 tỉ đồng cho chủ đầu tư vay tại 17 dự án; 198 tỉ đồng cho người mua nhà tại 15 dự án). Dù vậy, lượng hàng tồn kho bất động sản vẫn ở mức cao, đặc biệt tại phân khúc nhà ở riêng lẻ và đất nền. Trong quý IV/2024, tồn kho toàn thị trường vào khoảng 17.058 căn/nền, bao gồm 1.072 căn hộ chung cư, 11.218 căn nhà ở riêng lẻ và 4.768 nền đất. Việc giá bán vẫn ở mức cao trong khi sức mua còn yếu đang gây áp lực lớn lên thanh khoản thị trường. Một số khu vực ghi nhận hiện tượng tăng giá bất thường, làm dấy lên lo ngại về nguy cơ tái hình thành "bong bóng" bất động sản trong giai đoạn 2025 - 2026. Theo khảo sát của Bộ Xây dựng, trong năm 2024, giá căn hộ chung cư tại nhiều dự án ở Hà Nội đã tăng khoảng 40 - 50% so với năm 2023; tại Thành phố Hồ Chí Minh, mức tăng là 20 - 30%, thậm chí cao hơn ở một số khu vực cụ thể1. Dòng vốn vào bất động sản tuy có sự cải thiện nhưng vẫn thận trọng, chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn, có lịch sử tín dụng tốt và dự án minh bạch về pháp lý. Trong đó, tín dụng cho các dự án khu đô thị và phát triển nhà ở chiếm tỉ trọng cao nhất - khoảng 30,8%2.

Theo NHNN, đến ngày 31/12/2024, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 16,11% so với cuối năm 2023 (cao hơn mức tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế là 15,08%). Trong đó, dư nợ tiêu dùng bất động sản vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất (khoảng 60%), dư nợ kinh doanh bất động sản chiếm khoảng 40%. Tính đến hết quý I/2025, tổng dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản đạt 1.563.481 tỉ đồng, tăng 110.752 tỉ đổng so với quý IV/2024 (Bộ Xây dựng, 2025). Dù tăng trưởng tích cực, tín dụng bất động sản vẫn chịu sự giám sát chặt chẽ do bị tác động bởi nhiều yếu tố rủi ro. Nợ xấu trong lĩnh vực này tiếp tục chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nợ xấu hệ thống ngân hàng, nhiều khoản vay từng được tái cơ cấu đang đến hạn trả gốc và lãi trong năm 2025. Ngoài ra, với tổng giá trị trái phiếu bất động sản đến hạn trong năm 2025 lên đến 111.435 tỉ đồng (chiếm 55% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn), hệ thống tài chính đang đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản cục bộ nếu không có các giải pháp hỗ trợ kịp thời. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp bất động sản, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn phụ thuộc đáng kể vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng do khả năng huy động vốn qua thị trường còn hạn chế. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục có các chính sách điều hành tín dụng linh hoạt và hiệu quả nhằm vừa kiểm soát rủi ro, vừa hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển bền vững trong thời gian tới.

2. Các yếu tố tác động đến tín dụng bất động sản trong năm 2025

Thứ nhất, chính sách tiền tệ và lãi suất

Lộ trình giảm lãi suất điều hành và chính sách tỉ giá linh hoạt của NHNN trong thời gian qua đã tạo hiệu ứng tích cực lên mặt bằng lãi suất thị trường, qua đó góp phần giảm chi phí vốn vay cho doanh nghiệp và người dân. Đặc biệt, lĩnh vực bất động sản, vốn nhạy cảm với biến động lãi suất, đã bắt đầu ghi nhận những dấu hiệu phục hồi về nhu cầu tín dụng. Tính đến hết quý I/2025, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt mức 3,93%, cao gấp khoảng 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2024 (1,42%). Đồng thời, lãi suất cho vay bình quân tiếp tục giảm thêm khoảng 0,4 điểm % so với cuối năm 2024, phản ánh nỗ lực của hệ thống ngân hàng trong việc chia sẻ áp lực tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc lãi suất giảm trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát tạo điều kiện để NHNN linh hoạt điều hành theo hướng hỗ trợ tăng trưởng. Trong thời gian tới, nếu xu hướng lạm phát vẫn ổn định ở mức thấp, NHNN có thể cân nhắc nới lỏng hạn mức tăng trưởng tín dụng nhằm khơi thông dòng vốn trung, dài hạn, đặc biệt đối với lĩnh vực bất động sản đang được kỳ vọng có sự phục hồi mạnh hơn sau giai đoạn trầm lắng kéo dài. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng sẽ tiếp tục được thực hiện có chọn lọc, gắn với giám sát chặt chẽ chất lượng tín dụng và năng lực tài chính của người vay nhằm hạn chế rủi ro phát sinh trong hệ thống.

Thứ hai, hiệu lực của các luật mới từ ngày 01/8/2024

Luật Đất đai năm 2024 đánh dấu bước cải cách quan trọng trong chính sách quản lý và sử dụng đất tại Việt Nam, với nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn pháp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tạo điều kiện thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển minh bạch, bền vững hơn. Một trong những thay đổi mang tính đột phá là việc bãi bỏ khung giá đất để thay thế bằng bảng giá đất được cập nhật hàng năm trên cơ sở sát với diễn biến thị trường. Điều này không chỉ giúp Nhà nước xác định giá trị đất đai một cách linh hoạt, khách quan hơn mà còn góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ, thao túng giá và tránh thất thoát ngân sách trong thu hồi, bồi thường, giao dịch đất đai. Đáng chú ý, các dự án xây dựng nhà lưu trú cho công nhân khu công nghiệp sẽ được miễn hoặc giảm tiền thuê đất, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí và nâng cao đời sống cho người lao động. Về mặt an sinh và công bằng xã hội, quy định bồi thường theo giá thị trường khi thu hồi đất và bảo đảm tái định cư hợp lý là một bước tiến lớn, phản ánh sự tôn trọng quyền lợi hợp pháp của người dân, giúp giảm thiểu khiếu kiện, tranh chấp và nâng cao tính đồng thuận trong thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, Luật Đất đai năm 2024 không chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân về đất đai, mà còn góp phần củng cố niềm tin xã hội cũng như tính chính danh của các chính sách phát triển trong dài hạn.

Bên cạnh đó, các bộ luật như Luật Nhà ở năm 2023, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 chính thức cùng có hiệu lực từ ngày 01/8/2024 đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy dòng vốn tín dụng, đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, đặc biệt là các phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và bất động sản công nghiệp. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, giai đoạn chuyển tiếp giữa luật cũ và luật mới sẽ đòi hỏi các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người dân phải thích nghi dần với những thay đổi về quy trình, thủ tục và tiêu chuẩn pháp lý. Do đó, hiệu quả thực thi sẽ phụ thuộc nhiều vào năng lực tổ chức thi hành, sự hướng dẫn kịp thời của các bộ ngành, cũng như tinh thần chủ động, chuẩn bị của các chủ thể tham gia thị trường.

Thứ ba, định hướng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản

Năm 2025, NHNN tiếp tục duy trì chính sách kiểm soát nghiêm ngặt dòng vốn vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như bất động sản đầu cơ, các dự án thiếu tính khả thi, chậm triển khai, hoặc không phục vụ nhu cầu nhà ở thực. Động thái này nhằm ổn định hệ thống tài chính tiền tệ trong bối cảnh thị trường bất động sản còn nhiều biến động và áp lực nợ trái phiếu doanh nghiệp đang đến hạn gia tăng. Theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các văn bản sửa đổi, NHNN đã áp dụng hệ số rủi ro cao (150 - 200%) cho các khoản cho vay kinh doanh bất động sản, đặc biệt là các khoản vay trung, dài hạn để đầu tư các dự án cao cấp, nghỉ dưỡng.

Tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với các ngân hàng thương mại để tăng tốc, bứt phá, thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát ngày 11/02/2025, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã khẳng định: Ngành Ngân hàng sẽ tập trung tối đa vào việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 8% trở lên. NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% trong năm 2025 và sẽ điều chỉnh linh hoạt tùy theo tình hình thực tế. Nếu lạm phát duy trì ở mức thấp, NHNN có thể tăng tín dụng để kích thích tăng trưởng; ngược lại, nếu có dấu hiệu rủi ro, chính sách tín dụng sẽ được điều chỉnh để bảo đảm ổn định vĩ mô. Điều này thể hiện xu hướng điều hành linh hoạt nhưng thận trọng, giúp tránh hệ quả của chu kỳ bong bóng bất động sản và bảo đảm an toàn hệ thống.

Trong thực tế, nhiều ngân hàng đã bắt đầu siết chặt phê duyệt hồ sơ tín dụng bất động sản, đặc biệt với các dự án chưa có pháp lý hoàn chỉnh hoặc có dấu hiệu đầu cơ, mua đi bán lại lòng vòng. Tuy nhiên, nhu cầu thực về nhà ở, đặc biệt ở phân khúc nhà ở xã hội, trung bình và bình dân, vẫn ở mức cao do tốc độ đô thị hóa nhanh và áp lực dân số lớn tại các đô thị trọng điểm. Theo dự báo của Bộ Xây dựng, Việt Nam cần thêm khoảng 70 triệu m² nhà ở đến năm 2030 để đáp ứng nhu cầu, trong đó riêng nhà ở xã hội cần khoảng 2,4 triệu căn. Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 444/QĐ-TTg ngày 27/02/2025 về việc giao chỉ tiêu hoàn thành nhà ở xã hội trong năm 2025 và các năm tiếp theo đến năm 2030 để các địa phương bổ sung vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, riêng năm 2025 cả nước phấn đấu hoàn thành 100.275 căn nhà ở xã hội. Nếu các chính sách hỗ trợ như ưu đãi lãi suất vay mua nhà lần đầu; miễn, giảm thuế; cung cấp tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp phát triển nhà ở xã hội và nhà ở công nhân được triển khai đồng bộ, sẽ tạo ra cú hích lớn cho phục hồi tín dụng bất động sản theo hướng có chọn lọc, bền vững và gắn với nhu cầu thực của thị trường.

Thứ tư, áp lực đáo hạn trái phiếu - thách thức lớn đối với khả năng thanh khoản và ổn định tín dụng bất động sản trong năm 2025

Trong bối cảnh thị trường bất động sản vẫn đang trong quá trình phục hồi chậm và chưa thực sự ổn định, vấn đề đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là của nhóm bất động sản, đang nổi lên như một rủi ro lớn đối với hệ thống tài chính. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe tài chính của doanh nghiệp mà còn tác động trực tiếp đến chất lượng tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Theo Báo cáo Thị trường trái phiếu Việt Nam, trong năm 2024, tổng giá trị trái phiếu đến hạn đạt khoảng 277,5 nghìn tỉ đồng, trong đó hơn 41% thuộc về nhóm doanh nghiệp bất động sản. Dự kiến, năm 2025 sẽ có khoảng 202,7 nghìn tỉ đồng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn, với gần 55% (tương đương 111,435 nghìn tỉ đồng) cũng đến từ nhóm bất động sản. Năm 2026, con số sẽ này tiếp tục tăng lên 241,8 nghìn tỉ đồng, trong đó bất động sản chiếm khoảng 46,7%. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cũng đang đối mặt với khối lượng trái phiếu lớn sắp đến hạn, lần lượt là 41,666 nghìn đồng vào năm 2025 và 71,536 nghìn tỉ đồng vào năm 2026. Trước áp lực đáo hạn, nhiều doanh nghiệp đã chủ động đàm phán gia hạn trái phiếu với nhà đầu tư nhằm tránh tình trạng chậm trả gốc và lãi. Khoảng 51,6 nghìn tỉ đồng trái phiếu đã được kéo dài thời gian đáo hạn, phổ biến từ 1 đến 2 năm, trong đó, nhóm bất động sản chiếm tỉ trọng lớn nhất với 35,9 nghìn tỉ đồng (69,5%). Để đạt được sự đồng thuận, một số tổ chức phát hành chấp nhận tăng lãi suất hoặc bổ sung tài sản bảo đảm trong thời gian gia hạn.

Thứ năm, diễn biến thị trường và nhu cầu thực tế

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, trong quý I/2025, phân khúc căn hộ chung cư tiếp tục chiếm ưu thế, với hơn 69% nguồn cung nhà ở mở bán mới. Tuy nhiên, căn hộ chung cư thương mại giá bình dân gần như không còn trên thị trường3. Điều này cho thấy nhu cầu về nhà ở trung cấp và bình dân vẫn ở mức cao nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn cung hạn chế và giá bán tăng cao, vượt xa khả năng chi trả của đại đa số người dân. Trong khi đó, phân khúc căn hộ cao cấp đang đối mặt với nhiều thách thức. Tỉ lệ hấp thụ căn hộ cao cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ đạt khoảng 42% trong quý IV/2024, tăng nhẹ so với quý trước nhưng vẫn thấp hơn so với các phân khúc khác4. Tồn kho bất động sản cao cấp tăng nhanh cùng việc giá bán cao hơn mức thu nhập trung bình gấp 20 - 25 lần khiến sức mua yếu nghiêm trọng. Các ngân hàng có xu hướng siết chặt tín dụng đối với các dự án cao cấp do lo ngại rủi ro thanh khoản và khả năng trả nợ thấp. Nếu Nhà nước triển khai mạnh các chính sách hỗ trợ đúng hướng như giảm thuế VAT, miễn tiền sử dụng đất cho dự án nhà ở công nhân, nhà ở xã hội, hỗ trợ thủ tục pháp lý rút ngắn thời gian xin cấp phép… sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp bất động sản đầu tư phát triển phân khúc đại chúng, từ đó giúp ngân hàng giải ngân tín dụng an toàn hơn, vì nhóm này có tính thanh khoản cao và phù hợp với nhu cầu thực tế.

3. Một số khuyến nghị để tín dụng bất động sản phát triển bền vững

Tín dụng bất động sản trong thời gian tới dự báo sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố đan xen, bao gồm áp lực tài chính tích tụ trong doanh nghiệp, định hướng chính sách tiền tệ thận trọng và các thay đổi quan trọng trong khung pháp lý như Luật Đất đai năm 2024, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 và Luật Nhà ở năm 2023. Trong ngắn hạn, tăng trưởng tín dụng bất động sản có thể còn chậm, khi các ngân hàng thận trọng hơn trong xét duyệt hồ sơ, ưu tiên những dự án có pháp lý đầy đủ và nhu cầu ở thực. Tuy nhiên, về trung và dài hạn, nếu môi trường lãi suất tiếp tục ổn định, cùng với việc các chính sách pháp luật mới được triển khai hiệu quả, thị trường tín dụng bất động sản có thể phục hồi theo hướng minh bạch, an toàn và bền vững hơn. Một số kiến nghị cụ thể được đề xuất như sau:

Một là, cần tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để bảo đảm thanh khoản cho hệ thống tài chính - ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp và khoản vay đến hạn trong năm 2025. Việc điều hành tín dụng cần bảo đảm không gây “đứt gãy dòng tiền”, đồng thời tránh bơm vốn tràn lan vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản đầu cơ.

Hai là, NHNN tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng cần được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực, có pháp lý rõ ràng. Ngoài ra, cần triển khai các cơ chế hỗ trợ như ưu đãi lãi suất, bảo lãnh tín dụng hoặc bảo hiểm rủi ro để khuyến khích dòng vốn vào các phân khúc này. Đồng thời, cần thúc đẩy phát triển thị trường vốn thông qua việc đa dạng hóa kênh huy động, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp có xếp hạng tín nhiệm rõ ràng, góp phần giảm áp lực lên hệ thống ngân hàng.

Ba là, đẩy mạnh minh bạch hóa thị trường và khuyến khích tái cấu trúc doanh nghiệp bất động sản. Các cơ quan quản lý cần ban hành quy định bắt buộc về công khai thông tin tài chính, tiến độ pháp lý, dòng tiền dự án… nhằm tạo sự minh bạch và củng cố niềm tin cho nhà đầu tư cũng như tổ chức tín dụng. Song song, việc tái cấu trúc các doanh nghiệp bất động sản thông qua sáp nhập, hợp nhất hay tái cơ cấu danh mục đầu tư nên được thúc đẩy để hình thành các chủ thể có năng lực tài chính vững và quản trị rủi ro tốt hơn.

Bốn là, thúc đẩy số hóa và hiện đại hóa quy trình quản lý tín dụng bất động sản. Việc ứng dụng công nghệ số trong hoạt động cấp tín dụng, đánh giá rủi ro và theo dõi tiến độ dự án sẽ giúp nâng cao hiệu quả giám sát, giảm thiểu sai lệch thông tin và rủi ro đạo đức. Các ngân hàng thương mại cần xây dựng hệ thống dữ liệu lớn (Big Data) kết nối với các cơ quan quản lý đất đai, xây dựng, thuế để xác thực thông tin pháp lý, tài chính của dự án và chủ đầu tư một cách nhanh chóng, minh bạch. Việc này không chỉ hỗ trợ quá trình thẩm định tín dụng chính xác hơn mà còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư và tăng tính cạnh tranh lành mạnh trong Ngành.

Năm là, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm tín dụng xanh và bền vững trong lĩnh vực bất động sản. Trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và phát triển bền vững đang là xu hướng toàn cầu, Việt Nam cần khuyến khích các tổ chức tín dụng phát triển sản phẩm tín dụng ưu đãi cho các dự án bất động sản thân thiện với môi trường như nhà ở tiết kiệm năng lượng, công trình xanh, khu đô thị sinh thái. Đồng thời, cần có các cơ chế ưu đãi cụ thể như miễn/giảm thuế, lãi suất ưu đãi, hoặc hỗ trợ tiếp cận quỹ tín dụng xanh từ trong và ngoài nước. Việc này không chỉ phù hợp với cam kết giảm phát thải ròng mà còn tạo động lực cho các doanh nghiệp đổi mới mô hình phát triển, nâng cao giá trị dài hạn của bất động sản.

1 Nguồn: https://batdongsan.xaydung.gov.vn/ThongBao.aspx?vID=615

2 Nguồn: https://batdongsan.xaydung.gov.vn/TaiChinhBDS_DuNo.aspx?kyid=5277

3 Nguồn: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/thi-truong-bat-dong-san-ty-le-hap-thu-cac-du-an-moi-mo-ban-van-rat-tich-cuc-174451.html

4 Nguồn: https://vn.savills.com.vn/blog/article/220417/vietnam-viet/toan-canh-thi-truong-can-ho-q4-2024.aspx

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo số 21/BC-BXD ngày 24/01/2025 của Bộ Xây dựng về việc công bố thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản trong Quý IV/2024 và cả năm 2024.

2. Cổng Thông tin điện tử Bộ Xây dựng, “Triển khai 655 dự án nhà ở xã hội”, ngày 07/3/2025

3. Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (2024), Báo cáo Thị trường Trái phiếu Việt Nam 2024.

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2023), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) số 29/2023/QH15.

5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2024), Luật Đất đai (sửa đổi), số 31/2024/QH15.

6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2024), Luật Nhà ở (sửa đổi), số 30/2024/QH15.

7. Quyết định số 444/QĐ-TTg ngày 27/02/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao chỉ tiêu hoàn thành nhà ở xã hội.

Ngô Thị Huyền Linh
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước

Tin bài khác

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Bảo đảm tính thống nhất triển khai thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng

Khảo sát nội dung quy định về áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan từ khi chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp đến nay cho thấy, đã có sự thay đổi trong tiếp cận và quy định việc áp dụng Luật Các TCTD và các luật có liên quan. Sự thay đổi này đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng, TCTD và khách hàng sẽ áp dụng luật này, trong tư cách là luật được ban hành sau. Tuy nhiên, Luật số 32/2024/QH15 có phạm vi điều chỉnh rộng...
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Xem thêm
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thực thi Thông tư số 27/2025/TT-NHNN nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa và kỹ thuật hóa công tác phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Thông tư này không chỉ mở rộng phạm vi giám sát giao dịch và nâng chuẩn quản trị rủi ro, mà còn tạo ra những thách thức lớn cho ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo tại Liên minh châu Âu và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thuật toán trí tuệ nhân tạo là bước đi chiến lược, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo lập hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Trong bối cảnh các thuật toán và mô hình học máy đang trở thành “trái tim” của nhiều công nghệ đột phá như xe tự hành, y tế số, hệ thống ra quyết định tự động..., hệ thống pháp luật cần có khả năng phản ứng linh hoạt, đồng thời bảo đảm sự minh bạch, công bằng và cân bằng lợi ích giữa khu vực tư nhân và xã hội.
"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

"Ký ức lạm phát" và chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hậu đại dịch, với những thách thức đan xen giữa phục hồi tăng trưởng, ổn định giá cả và duy trì an toàn tài chính, việc hiểu rõ tác động của “ký ức lạm phát” không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn là chìa khóa cho việc hoạch định chính sách hiệu quả. Sự khác biệt trong phản ứng chính sách tiền tệ giữa các nền kinh tế phát triển và các thị trường mới nổi hiện nay cho thấy tầm quan trọng của yếu tố lịch sử và bối cảnh địa phương.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô