Lựa chọn mô hình và lộ trình phù hợp khi thành lập Sàn Giao dịch vàng tại Việt Nam

Thị trường tài chính
Với điều kiện và thực trạng thị trường tại Việt Nam, trước mắt, sàn giao dịch vàng vật chất có thể là lựa chọn phù hợp, trở thành kênh phân phối vàng nguyên liệu nhập khẩu đủ tiêu chuẩn, bảo đảm công khai, minh bạch, từ đó tạo niềm tin đối với các thành viên giao dịch trên sàn. Việc triển khai cần theo lộ trình thận trọng, trước mắt cần xây dựng Nghị quyết của Chính phủ về triển khai thí điểm Sàn giao dịch vàng tại Việt Nam.
aa
Lựa chọn mô hình và lộ trình phù hợp khi thành lập Sàn Giao dịch vàng tại Việt Nam
Ảnh minh họa, nguồn: Internet

Một số mô hình sàn giao dịch vàng trên thế giới

Hiện nay, trên thế giới, các sàn giao dịch vàng hoạt động với ba mô hình phổ biến từ giao dịch vàng vật chất đến tài khoản và phái sinh.

Thứ nhất, giao dịch vàng thật - tức người mua và người bán thực sự đổi vàng với nhau, thường là dưới dạng thỏi hoặc miếng chuẩn hóa.

Một trong những nơi điển hình là Thị trường vàng thỏi London (London Bullion Market). Thị trường này do Hiệp hội Thị trường Vàng thỏi London (London Bullion Market Association - LBMA) điều phối, được thành lập vào năm 1987, LBMA có trụ sở tại London, Vương quốc Anh. Thành viên giao dịch là thành viên của LBMA. Việc mua bán thường được thực hiện giữa các tổ chức lớn như ngân hàng hoặc công ty tài chính, dựa trên sự thương lượng giá và khối lượng, thay vì khớp lệnh công khai như trên sàn chính thức. Họ giao dịch các thỏi vàng “chuẩn” thường là nặng khoảng 12kg, có độ tinh khiết cao và lưu trữ tại kho bảo đảm.

Thứ hai, giao dịch vàng qua tài khoản - nơi nhà đầu tư không nắm giữ vàng thật mà chỉ mua bán “quyền sở hữu” số vàng đó, tương tự cách người ta đầu tư ngoại tệ hay cổ phiếu. Mô hình này phổ biến ở các trung tâm tài chính như Singapore, Thụy Sĩ, Hồng Kông (Trung Quốc). Giao dịch chủ yếu qua nền tảng điện tử. Người chơi cần nộp một khoản bảo đảm - gọi là ký quỹ - để được mua số vàng lớn hơn số tiền đang có. Chính vì thế, mô hình này thường bị quản lý rất chặt chẽ. Tại Thụy Sĩ, Sàn giao dịch vàng (Zurich Gold Market) được thiết lập và vận hành bởi UBS (ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ) và Bank of Switzerland (Ngân hàng Thụy Sĩ).

Thứ ba, giao dịch vàng phái sinh - một hình thức tài chính chuyên sâu hơn. Ở đây, nhà đầu tư không mua vàng, mà đặt cược vào việc giá vàng sẽ tăng hay giảm trong tương lai thông qua các hợp đồng.

Tại Mỹ có sàn giao dịch COMEX (Commodity Exchange Inc.), một trong những sàn giao dịch hàng hóa nhóm kim loại lớn nhất và quan trọng nhất thế giới, đặc biệt nổi tiếng với giao dịch vàng. Đây là một bộ phận của CME Group (Chicago Mercantile Exchange Group), tập đoàn tài chính hàng đầu có trụ sở tại Chicago, Illinois, Mỹ.

Sàn giao dịch COMEX được thành lập vào năm 1933. Ban đầu, chuyên về giao dịch vàng vật chất, nhưng sau đó đã mở rộng để bao gồm các loại hàng hóa khác và các sản phẩm tài chính. COMEX đã thiết lập một cơ chế phát hiện giá vàng hiệu quả thông qua các hợp đồng tương lai. Điểm hấp dẫn của nó nằm ở khả năng tạo ra giá tham chiếu ngắn hạn, nhờ tính thanh khoản cao của các hợp đồng tương lai gần tháng. Sàn có hệ thống kho lưu trữ, cơ chế ký quỹ và được giám sát bởi Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ (CFTC).

Tại châu Á, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (SGE) được thành lập vào năm 2002, là nơi giao dịch vàng lớn nhất Trung Quốc, giao dịch bằng đồng Nhân dân tệ và chịu sự kiểm soát sát sao từ Ngân hàng Trung ương. Ngoài giao dịch vàng thật, SGE còn có các công cụ tài chính tương tự COMEX. Hệ thống định giá của SGE được sử dụng làm tham chiếu trong khu vực, góp phần cạnh tranh ảnh hưởng với thị trường phương Tây. Sàn SGE được vận hành theo mô hình giao dịch tập trung, kết hợp cả vàng vật chất lẫn phi vật chất, với sự tham gia của các ngân hàng thương mại (NHTM), doanh nghiệp sản xuất vàng miếng và tổ chức tài chính quốc tế. Trên nền tảng điện tử, lệnh mua bán được khớp tự động theo nguyên tắc ưu tiên giá cao nhất cho người bán và thấp nhất cho người mua.

Nhìn chung, các sàn giao dịch vàng ở các trung tâm tài chính quốc tế phát triển không phù hợp với Việt Nam vì khác biệt về mức độ tự do hóa tài chính (đồng tiền có khả năng chuyển đổi hoàn toàn; không cấp quota nhập khẩu vàng…). Phần lớn các sàn giao dịch vàng do ngân hàng trung ương hoặc ngân hàng lớn nhất, tập đoàn tài chính hàng đầu quản lý, giám sát, vận hành. Một số sàn được vận hành theo mô hình giao dịch tập trung, kết hợp cả vàng vật chất lẫn phi vật chất, có sự tham gia của các NHTM, doanh nghiệp sản xuất vàng miếng và tổ chức tài chính.

Dù mô hình khác nhau, điểm chung giữa các thị trường vàng lớn là yêu cầu về nền tảng pháp lý mạnh, hệ thống kỹ thuật tiên tiến và cơ chế giám sát độc lập. Nhiều thị trường áp dụng quy tắc về nguồn gốc vàng hợp pháp. Tức là vàng giao dịch phải minh bạch về xuất xứ, không dính tới khai thác lậu hay khu vực xung đột. Điều này làm tăng tính uy tín cho thị trường và bảo vệ nhà đầu tư. Cuối cùng, để tham gia được vào các sàn này, tổ chức phải có năng lực tài chính mạnh, minh bạch giao dịch và tuân thủ nghiêm các quy định.

Cần triển khai theo lộ trình thận trọng, đảm bảo an toàn, minh bạch

Tại Việt Nam, việc triển khai thành lập sàn giao dịch vàng có những điều kiện thuận lợi về chủ trương, định hướng, chỉ đạo của Chính phủ, có cơ sở pháp lý, thực tiễn, phù hợp xu thế thế giới.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Thông báo số 211-TB/VPTW ngày 30/5/2025 về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng, trong đó giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN): “Tập trung nghiên cứu một số giải pháp để sớm áp dụng theo lộ trình: nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để đề xuất việc triển khai thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia; hoặc cho phép đưa vàng vào giao dịch trên Sở giao dịch hàng hóa; hoặc lập Sàn giao dịch vàng trong Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam”; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ tại Văn bản số 300/TB-VPCP ngày 11/6/2025 thông báo Kết luận về tình hình và công tác quản lý thị trường vàng, trong đó giao NHNN: “Nghiên cứu việc thành lập các Sàn/Sở giao dịch vàng tập trung; xác định rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng phù hợp, vừa tạo điều kiện cho người dân giao dịch vàng, vừa đảm bảo công tác quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả”.

Về mặt pháp lý, ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 232), bám sát các chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa bỏ cơ chế độc quyền Nhà nước một cách có kiểm soát trên nguyên tắc Nhà nước vẫn quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng. Nghị định 232 có hiệu lực từ ngày 10/10/2025.

Việc chấm dứt cơ chế Nhà nước độc quyền thương hiệu vàng miếng, mở rộng đối tượng sản xuất vàng miếng và nhập khẩu vàng nguyên liệu sẽ giúp nguồn cung vàng trên thị trường đa dạng hơn. Người dân sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn, thị trường cạnh tranh, minh bạch hơn, qua đó góp phần thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới cũng như giữa các thương hiệu vàng.

Theo đó, đối với thị trường vàng miếng, Nghị định 232 quy định NHNN cấp phép cho các doanh nghiệp, NHTM đủ điều kiện tham gia sản xuất vàng miếng, đồng thời cấp phép cho các đơn vị này được nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; đối với thị trường vàng trang sức, mỹ nghệ, quy định NHNN cấp phép cho các doanh nghiệp, NHTM được nhập khẩu vàng nguyên liệu để bán cho doanh nghiệp để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; giao NHNN hướng dẫn quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng; kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Triển khai thi hành Nghị định 232, NHNN đã khẩn trương xây dựng Thông tư số 34/2025/TT-NHNN ngày 09/10/2025 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 232.

Theo quy định tại Nghị định 232, các NHTM, doanh nghiệp được cấp Giấy phép nhập khẩu vàng có thể thực hiện nhập khẩu vàng để bán trong nước. Đây là một trong những cơ sở quan trọng tạo lập nền tảng triển khai sàn/sở giao dịch vàng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tại Việt Nam, khuôn khổ pháp lý và sự phát triển của môi trường đầu tư tài chính hiện đại như sandbox - cơ chế thử nghiệm, mô hình trung tâm tài chính khu vực và quốc tế, sàn giao dịch tài sản mã hóa, hay mô hình sở giao dịch hàng hóa… tạo điều kiện để thử nghiệm mô hình sàn/sở giao dịch vàng trong phạm vi hợp lý, giúp cơ quan quản lý lường trước được các rủi ro có thể có khi thành lập sàn giao dịch vàng. Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống ngân hàng về số lượng và chất lượng dịch vụ có thể đáp ứng các điều kiện về tổ chức, vận hành các sàn giao dịch như tài sản mã hóa, vàng, bảo đảm công nghệ hiện đại.

Tuy nhiên, theo Cục Quản lý ngoại hối (NHNN), việc triển khai thành lập Sàn giao dịch vàng tại Việt Nam cũng đặt ra nhiều thách thức.

Trước hết, kinh doanh vàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư. Do đó hoạt động sàn giao dịch vàng cần phải được thực hiện trên nguyên tắc thận trọng, có lộ trình phù hợp với thực tiễn, an toàn, minh bạch, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên tham gia giao dịch trên sàn. Hơn nữa, Việt Nam không phải là nước khai thác vàng. Từ năm 2014 đến trước năm 2024, để góp phần thực hiện các mục tiêu điều hành tỉ giá, tích lũy dự trữ ngoại hối nhà nước, NHNN không thực hiện nhập khẩu vàng và chưa cấp phép cho doanh nghiệp nhập khẩu vàng. Nguồn cung vàng trong nước đã được bổ sung trong các năm 2014 và 2024 qua các đợt NHNN thực hiện can thiệp vàng miếng với khối lượng không lớn và không thường xuyên.

Chưa kể, bài học trong quá khứ, giai đoạn 2006 - 2010, ở trong nước, các sàn giao dịch vàng tự phát sử dụng đòn bẩy tài chính tạo rủi ro và nguy cơ rất lớn cho thị trường vàng nói riêng, thị trường tài chính nói chung, đặc biệt khi giá vàng biến động mạnh.

Vàng là mặt hàng có giá trị lớn, đòi hỏi có hệ thống kho lưu trữ vàng vật chất đảm bảo an ninh, an toàn tài sản, thậm chí yêu cầu cao hơn so với việc nắm giữ tiền mặt, giấy tờ có giá; đồng thời có trách nhiệm, trung thực trong việc lưu trữ, báo cáo giao dịch vàng. Trong khi đó, Việt Nam chưa có hệ thống kho lưu trữ vàng tập trung, trung tâm kiểm định vàng chuyên biệt.

Với những thuận lợi và thách thức nói trên, trước mắt, giao dịch vàng trên sàn vàng trong nước chỉ nên là giao dịch vàng vật chất.

Tại Tọa đàm về thành lập sàn giao dịch vàng, ông Đào Xuân Tuấn - Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối (NHNN) chia sẻ: Bước đầu là sàn giao dịch vàng vật chất, trở thành kênh phân phối vàng nguyên liệu nhập khẩu đủ tiêu chuẩn, bảo đảm công khai, minh bạch, từ đó tạo niềm tin đối với các thành viên giao dịch trên sàn, đồng thời thực hiện triển khai hiệu quả Nghị định 232. Tiếp đó, từng bước theo lộ trình triển khai các sản phẩm vàng tài khoản, phái sinh. Sau đó trở thành kênh huy động nguồn lực vàng trong dân, giảm tích trữ vàng để chuyển hóa thành nguồn lực đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, giúp ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để người dân mang vàng ra bán trên thị trường.

Về lộ trình thí điểm, lãnh đạo Cục Quản lý ngoại hối cho biết, triển khai thí điểm sàn giao dịch vàng tại Việt Nam với 3 giai đoạn. Trước mắt, cần xây dựng dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về triển khai thí điểm sàn giao dịch vàng tại Việt Nam đối với giai đoạn 1 trong thời gian khoảng hai năm. Lộ trình và các nội dung chi tiết trong từng giai đoạn có thể được điều chỉnh tùy thuộc vào tình hình triển khai thực tế của sàn giao dịch vàng. Trong thời gian thí điểm chưa thực hiện liên thông sàn giao dịch vàng trong nước với các sàn giao dịch vàng quốc tế.

Bảo đảm các yếu tố hạ tầng kỹ thuật, cơ chế vận hành, quản lý, giám sát

Trong tương lai, để có thể thành lập sàn giao dịch vàng chính thức cần hội tụ nhiều yếu tố cả về công nghệ, kết nối hệ thống dữ liệu, cơ chế vận hành, quản lý, giám sát đảm bảo an toàn, minh bạch, hiệu quả.

Trước hết, về hạ tầng công nghệ đòi hỏi hiện đại, an toàn và minh bạch: Việt Nam cần xây dựng hệ thống giao dịch điện tử có khả năng xử lý khối lượng lớn lệnh trong thời gian thực, tương tự các sàn chứng khoán; ứng dụng công nghệ Blockchain để đảm bảo tính xác thực, truy xuất nguồn gốc và phòng chống gian lận; sử dụng mã hóa dữ liệu, xác thực đa lớp và chữ ký số để bảo đảm an toàn giao dịch.

Với hệ thống thanh toán và lưu ký: Cần kết nối trực tiếp với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Tiến tới thiết lập Trung tâm lưu ký vàng để quản lý, lưu trữ, và chuyển quyền sở hữu vàng theo mô hình phi vật chất hóa.

Cần có sự kết nối hạ tầng tài chính - ngân hàng, bảo đảm sự liên thông với NHTM, công ty, doanh nghiệp được cấp phép để làm thành viên của sàn. Ứng dụng API mở (Open API) để tích hợp dữ liệu thị trường, báo giá và thanh toán.

Thứ hai, về cơ chế vận hành: Sàn giao dịch vàng cần do Nhà nước quản lý, không phải của một doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng nào. Mô hình sàn vàng quốc gia tại Việt Nam cũng hoạt động tương tự sàn chứng khoán. NHTM và doanh nghiệp vàng sẽ là thành viên của sàn, đóng vai trò trung gian thực hiện lệnh mua - bán cho nhà đầu tư cá nhân. Về lâu dài, sàn vàng quốc gia cần kết nối với các sàn vàng quốc tế để xử lý tình huống dư mua, dư bán vàng phi vật chất, cũng như bảo đảm nhập khẩu vàng khi cần giao hàng vật chất.

Về sản phẩm giao dịch, ngoài vàng vật chất theo quy định của NHNN, còn có chứng chỉ vàng điện tử (E-gold certificate); tiến tới hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai vàng trong giai đoạn phát triển sau. Việc giao dịch được niêm yết công khai, giá tham chiếu theo thị trường quốc tế (London Bullion Market, COMEX) và cung - cầu trong nước.

Để phòng ngừa rủi ro, cần quy định về cơ chế ký quỹ bắt buộc để hạn chế đầu cơ. Hệ thống tự động ngắt giao dịch khi biến động giá vượt ngưỡng. Việc xây dựng và duy trì quỹ bảo đảm thanh toán và quỹ dự phòng rủi ro là cần thiết.

Thứ ba, về cơ chế quản lý nhà nước: Cơ quan quản lý là Ngân hàng Trung ương cần quy định rõ về cơ chế cấp phép, tiêu chuẩn hoạt động, trách nhiệm của thành viên sàn, nhà đầu tư, quy trình giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm. Tất cả giao dịch phải thông qua tài khoản ngân hàng được định danh. Vàng vật chất lưu trữ tập trung tại Kho quốc gia hoặc đơn vị lưu ký được ủy quyền. Các thông tin về giá, khối lượng giao dịch được công khai, đồng thời giao dịch theo thời gian thực (các giao dịch được thực hiện và hoàn thành gần như ngay lập tức trên thị trường, với người mua và người bán đạt thỏa thuận và hoàn thành việc trao đổi cùng lúc). Phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Bộ Tài chính để bảo đảm tính minh bạch.

Thứ tư, về giám sát và an ninh: Cần xây dựng hệ thống giám sát giao dịch thời gian thực; ứng dụng AI và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) để phát hiện giao dịch bất thường, thao túng giá, hoặc rửa tiền. Yêu cầu các thành viên báo cáo định kỳ về tình hình giao dịch, tồn kho, ký quỹ và thanh toán, thực hiện kiểm toán hệ thống công nghệ và tài chính hằng năm.

Thứ năm, NHNN cần tăng cường kết nối và trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc thành lập và vận hành sàn giao dịch vàng; đồng thời, phối hợp các bộ, ngành liên quan trong việc cấp phép, vận hành, giám sát, xử lý vi phạm.

Thứ sáu, về phía các doanh nghiệp, NHTM: Kinh doanh vàng phải đáp ứng các điều kiện khi tham gia sàn giao dịch vàng, bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất và giao dịch mua, bán vàng; tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền cũng như các quy định pháp luật liên quan.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị định số 232/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

2. Thông tư số 34/2025/TT-NHNN ngày 09/10/2025 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 232/2025/NĐ-CP.

3. Trang Hội đồng Vàng Thế giới (World Gold Council), https://www.gold.org/goldhub/data/gold-trading-volumes

Linh Anh
NHNN

Tin bài khác

Xác định phong cách đầu tư: Góc nhìn tài chính hành vi

Xác định phong cách đầu tư: Góc nhìn tài chính hành vi

Bài viết làm rõ phân loại nhà đầu tư, phong cách đầu tư tương ứng, đồng thời, phân tích ý nghĩa của việc xác định phong cách từ góc độ tài chính hành vi và trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm đánh giá về việc áp dụng các phong cách đầu tư làm gia tăng hiệu quả của danh mục, cũng như hiệu quả quản lý thị trường chứng khoán.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu

Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu

Trong giai đoạn gần 5 năm vừa qua, Việt Nam vẫn giữ ổn định nền kinh tế, nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng, cho thấy khả năng chống chịu và thích ứng với biến động bên ngoài của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Đề án nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ là một dấu mốc kỹ thuật trong phân loại quốc tế, mà còn góp phần tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản ổn định, nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết, củng cố năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng, đồng thời cải thiện vị thế và hình ảnh quốc gia trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục tài chính là rất cần thiết nhằm nâng cao dân trí tài chính, giúp người dân hiểu rõ hơn về các kiến thức liên quan, tiếp cận công cụ tài chính an toàn, quản lý tài chính cá nhân hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ tín dụng đen và các hình thức lừa đảo, đặc biệt là lừa đảo trực tuyến.
Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một mô hình quản trị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Giang, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính minh bạch, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ mua trước trả sau trên sàn thương mại điện tử của khách hàng Gen Z tại Thành phố Hà Nội

Trong kỷ nguyên số hóa toàn diện, hành vi tiêu dùng đang chuyển dịch mạnh mẽ, đặc biệt trong phương thức thanh toán, mô hình mua trước trả sau ngày càng phổ biến nhờ tính linh hoạt, không yêu cầu thẻ tín dụng và không phát sinh lãi suất trong ngắn hạn.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô