Lựa chọn mô hình và lộ trình phù hợp khi thành lập Sàn Giao dịch vàng tại Việt Nam

Thị trường tài chính
Với điều kiện và thực trạng thị trường tại Việt Nam, trước mắt, sàn giao dịch vàng vật chất có thể là lựa chọn phù hợp, trở thành kênh phân phối vàng nguyên liệu nhập khẩu đủ tiêu chuẩn, bảo đảm công khai, minh bạch, từ đó tạo niềm tin đối với các thành viên giao dịch trên sàn. Việc triển khai cần theo lộ trình thận trọng, trước mắt cần xây dựng Nghị quyết của Chính phủ về triển khai thí điểm Sàn giao dịch vàng tại Việt Nam.
aa
Lựa chọn mô hình và lộ trình phù hợp khi thành lập Sàn Giao dịch vàng tại Việt Nam
Ảnh minh họa, nguồn: Internet

Một số mô hình sàn giao dịch vàng trên thế giới

Hiện nay, trên thế giới, các sàn giao dịch vàng hoạt động với ba mô hình phổ biến từ giao dịch vàng vật chất đến tài khoản và phái sinh.

Thứ nhất, giao dịch vàng thật - tức người mua và người bán thực sự đổi vàng với nhau, thường là dưới dạng thỏi hoặc miếng chuẩn hóa.

Một trong những nơi điển hình là Thị trường vàng thỏi London (London Bullion Market). Thị trường này do Hiệp hội Thị trường Vàng thỏi London (London Bullion Market Association - LBMA) điều phối, được thành lập vào năm 1987, LBMA có trụ sở tại London, Vương quốc Anh. Thành viên giao dịch là thành viên của LBMA. Việc mua bán thường được thực hiện giữa các tổ chức lớn như ngân hàng hoặc công ty tài chính, dựa trên sự thương lượng giá và khối lượng, thay vì khớp lệnh công khai như trên sàn chính thức. Họ giao dịch các thỏi vàng “chuẩn” thường là nặng khoảng 12kg, có độ tinh khiết cao và lưu trữ tại kho bảo đảm.

Thứ hai, giao dịch vàng qua tài khoản - nơi nhà đầu tư không nắm giữ vàng thật mà chỉ mua bán “quyền sở hữu” số vàng đó, tương tự cách người ta đầu tư ngoại tệ hay cổ phiếu. Mô hình này phổ biến ở các trung tâm tài chính như Singapore, Thụy Sĩ, Hồng Kông (Trung Quốc). Giao dịch chủ yếu qua nền tảng điện tử. Người chơi cần nộp một khoản bảo đảm - gọi là ký quỹ - để được mua số vàng lớn hơn số tiền đang có. Chính vì thế, mô hình này thường bị quản lý rất chặt chẽ. Tại Thụy Sĩ, Sàn giao dịch vàng (Zurich Gold Market) được thiết lập và vận hành bởi UBS (ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ) và Bank of Switzerland (Ngân hàng Thụy Sĩ).

Thứ ba, giao dịch vàng phái sinh - một hình thức tài chính chuyên sâu hơn. Ở đây, nhà đầu tư không mua vàng, mà đặt cược vào việc giá vàng sẽ tăng hay giảm trong tương lai thông qua các hợp đồng.

Tại Mỹ có sàn giao dịch COMEX (Commodity Exchange Inc.), một trong những sàn giao dịch hàng hóa nhóm kim loại lớn nhất và quan trọng nhất thế giới, đặc biệt nổi tiếng với giao dịch vàng. Đây là một bộ phận của CME Group (Chicago Mercantile Exchange Group), tập đoàn tài chính hàng đầu có trụ sở tại Chicago, Illinois, Mỹ.

Sàn giao dịch COMEX được thành lập vào năm 1933. Ban đầu, chuyên về giao dịch vàng vật chất, nhưng sau đó đã mở rộng để bao gồm các loại hàng hóa khác và các sản phẩm tài chính. COMEX đã thiết lập một cơ chế phát hiện giá vàng hiệu quả thông qua các hợp đồng tương lai. Điểm hấp dẫn của nó nằm ở khả năng tạo ra giá tham chiếu ngắn hạn, nhờ tính thanh khoản cao của các hợp đồng tương lai gần tháng. Sàn có hệ thống kho lưu trữ, cơ chế ký quỹ và được giám sát bởi Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ (CFTC).

Tại châu Á, Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (SGE) được thành lập vào năm 2002, là nơi giao dịch vàng lớn nhất Trung Quốc, giao dịch bằng đồng Nhân dân tệ và chịu sự kiểm soát sát sao từ Ngân hàng Trung ương. Ngoài giao dịch vàng thật, SGE còn có các công cụ tài chính tương tự COMEX. Hệ thống định giá của SGE được sử dụng làm tham chiếu trong khu vực, góp phần cạnh tranh ảnh hưởng với thị trường phương Tây. Sàn SGE được vận hành theo mô hình giao dịch tập trung, kết hợp cả vàng vật chất lẫn phi vật chất, với sự tham gia của các ngân hàng thương mại (NHTM), doanh nghiệp sản xuất vàng miếng và tổ chức tài chính quốc tế. Trên nền tảng điện tử, lệnh mua bán được khớp tự động theo nguyên tắc ưu tiên giá cao nhất cho người bán và thấp nhất cho người mua.

Nhìn chung, các sàn giao dịch vàng ở các trung tâm tài chính quốc tế phát triển không phù hợp với Việt Nam vì khác biệt về mức độ tự do hóa tài chính (đồng tiền có khả năng chuyển đổi hoàn toàn; không cấp quota nhập khẩu vàng…). Phần lớn các sàn giao dịch vàng do ngân hàng trung ương hoặc ngân hàng lớn nhất, tập đoàn tài chính hàng đầu quản lý, giám sát, vận hành. Một số sàn được vận hành theo mô hình giao dịch tập trung, kết hợp cả vàng vật chất lẫn phi vật chất, có sự tham gia của các NHTM, doanh nghiệp sản xuất vàng miếng và tổ chức tài chính.

Dù mô hình khác nhau, điểm chung giữa các thị trường vàng lớn là yêu cầu về nền tảng pháp lý mạnh, hệ thống kỹ thuật tiên tiến và cơ chế giám sát độc lập. Nhiều thị trường áp dụng quy tắc về nguồn gốc vàng hợp pháp. Tức là vàng giao dịch phải minh bạch về xuất xứ, không dính tới khai thác lậu hay khu vực xung đột. Điều này làm tăng tính uy tín cho thị trường và bảo vệ nhà đầu tư. Cuối cùng, để tham gia được vào các sàn này, tổ chức phải có năng lực tài chính mạnh, minh bạch giao dịch và tuân thủ nghiêm các quy định.

Cần triển khai theo lộ trình thận trọng, đảm bảo an toàn, minh bạch

Tại Việt Nam, việc triển khai thành lập sàn giao dịch vàng có những điều kiện thuận lợi về chủ trương, định hướng, chỉ đạo của Chính phủ, có cơ sở pháp lý, thực tiễn, phù hợp xu thế thế giới.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Thông báo số 211-TB/VPTW ngày 30/5/2025 về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng, trong đó giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN): “Tập trung nghiên cứu một số giải pháp để sớm áp dụng theo lộ trình: nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để đề xuất việc triển khai thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia; hoặc cho phép đưa vàng vào giao dịch trên Sở giao dịch hàng hóa; hoặc lập Sàn giao dịch vàng trong Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam”; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ tại Văn bản số 300/TB-VPCP ngày 11/6/2025 thông báo Kết luận về tình hình và công tác quản lý thị trường vàng, trong đó giao NHNN: “Nghiên cứu việc thành lập các Sàn/Sở giao dịch vàng tập trung; xác định rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng phù hợp, vừa tạo điều kiện cho người dân giao dịch vàng, vừa đảm bảo công tác quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả”.

Về mặt pháp lý, ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định 232), bám sát các chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa bỏ cơ chế độc quyền Nhà nước một cách có kiểm soát trên nguyên tắc Nhà nước vẫn quản lý hoạt động sản xuất vàng miếng. Nghị định 232 có hiệu lực từ ngày 10/10/2025.

Việc chấm dứt cơ chế Nhà nước độc quyền thương hiệu vàng miếng, mở rộng đối tượng sản xuất vàng miếng và nhập khẩu vàng nguyên liệu sẽ giúp nguồn cung vàng trên thị trường đa dạng hơn. Người dân sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn, thị trường cạnh tranh, minh bạch hơn, qua đó góp phần thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới cũng như giữa các thương hiệu vàng.

Theo đó, đối với thị trường vàng miếng, Nghị định 232 quy định NHNN cấp phép cho các doanh nghiệp, NHTM đủ điều kiện tham gia sản xuất vàng miếng, đồng thời cấp phép cho các đơn vị này được nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; đối với thị trường vàng trang sức, mỹ nghệ, quy định NHNN cấp phép cho các doanh nghiệp, NHTM được nhập khẩu vàng nguyên liệu để bán cho doanh nghiệp để sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; giao NHNN hướng dẫn quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng; kinh doanh mua, bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Triển khai thi hành Nghị định 232, NHNN đã khẩn trương xây dựng Thông tư số 34/2025/TT-NHNN ngày 09/10/2025 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 232.

Theo quy định tại Nghị định 232, các NHTM, doanh nghiệp được cấp Giấy phép nhập khẩu vàng có thể thực hiện nhập khẩu vàng để bán trong nước. Đây là một trong những cơ sở quan trọng tạo lập nền tảng triển khai sàn/sở giao dịch vàng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tại Việt Nam, khuôn khổ pháp lý và sự phát triển của môi trường đầu tư tài chính hiện đại như sandbox - cơ chế thử nghiệm, mô hình trung tâm tài chính khu vực và quốc tế, sàn giao dịch tài sản mã hóa, hay mô hình sở giao dịch hàng hóa… tạo điều kiện để thử nghiệm mô hình sàn/sở giao dịch vàng trong phạm vi hợp lý, giúp cơ quan quản lý lường trước được các rủi ro có thể có khi thành lập sàn giao dịch vàng. Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống ngân hàng về số lượng và chất lượng dịch vụ có thể đáp ứng các điều kiện về tổ chức, vận hành các sàn giao dịch như tài sản mã hóa, vàng, bảo đảm công nghệ hiện đại.

Tuy nhiên, theo Cục Quản lý ngoại hối (NHNN), việc triển khai thành lập Sàn giao dịch vàng tại Việt Nam cũng đặt ra nhiều thách thức.

Trước hết, kinh doanh vàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư. Do đó hoạt động sàn giao dịch vàng cần phải được thực hiện trên nguyên tắc thận trọng, có lộ trình phù hợp với thực tiễn, an toàn, minh bạch, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên tham gia giao dịch trên sàn. Hơn nữa, Việt Nam không phải là nước khai thác vàng. Từ năm 2014 đến trước năm 2024, để góp phần thực hiện các mục tiêu điều hành tỉ giá, tích lũy dự trữ ngoại hối nhà nước, NHNN không thực hiện nhập khẩu vàng và chưa cấp phép cho doanh nghiệp nhập khẩu vàng. Nguồn cung vàng trong nước đã được bổ sung trong các năm 2014 và 2024 qua các đợt NHNN thực hiện can thiệp vàng miếng với khối lượng không lớn và không thường xuyên.

Chưa kể, bài học trong quá khứ, giai đoạn 2006 - 2010, ở trong nước, các sàn giao dịch vàng tự phát sử dụng đòn bẩy tài chính tạo rủi ro và nguy cơ rất lớn cho thị trường vàng nói riêng, thị trường tài chính nói chung, đặc biệt khi giá vàng biến động mạnh.

Vàng là mặt hàng có giá trị lớn, đòi hỏi có hệ thống kho lưu trữ vàng vật chất đảm bảo an ninh, an toàn tài sản, thậm chí yêu cầu cao hơn so với việc nắm giữ tiền mặt, giấy tờ có giá; đồng thời có trách nhiệm, trung thực trong việc lưu trữ, báo cáo giao dịch vàng. Trong khi đó, Việt Nam chưa có hệ thống kho lưu trữ vàng tập trung, trung tâm kiểm định vàng chuyên biệt.

Với những thuận lợi và thách thức nói trên, trước mắt, giao dịch vàng trên sàn vàng trong nước chỉ nên là giao dịch vàng vật chất.

Tại Tọa đàm về thành lập sàn giao dịch vàng, ông Đào Xuân Tuấn - Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối (NHNN) chia sẻ: Bước đầu là sàn giao dịch vàng vật chất, trở thành kênh phân phối vàng nguyên liệu nhập khẩu đủ tiêu chuẩn, bảo đảm công khai, minh bạch, từ đó tạo niềm tin đối với các thành viên giao dịch trên sàn, đồng thời thực hiện triển khai hiệu quả Nghị định 232. Tiếp đó, từng bước theo lộ trình triển khai các sản phẩm vàng tài khoản, phái sinh. Sau đó trở thành kênh huy động nguồn lực vàng trong dân, giảm tích trữ vàng để chuyển hóa thành nguồn lực đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, giúp ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để người dân mang vàng ra bán trên thị trường.

Về lộ trình thí điểm, lãnh đạo Cục Quản lý ngoại hối cho biết, triển khai thí điểm sàn giao dịch vàng tại Việt Nam với 3 giai đoạn. Trước mắt, cần xây dựng dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về triển khai thí điểm sàn giao dịch vàng tại Việt Nam đối với giai đoạn 1 trong thời gian khoảng hai năm. Lộ trình và các nội dung chi tiết trong từng giai đoạn có thể được điều chỉnh tùy thuộc vào tình hình triển khai thực tế của sàn giao dịch vàng. Trong thời gian thí điểm chưa thực hiện liên thông sàn giao dịch vàng trong nước với các sàn giao dịch vàng quốc tế.

Bảo đảm các yếu tố hạ tầng kỹ thuật, cơ chế vận hành, quản lý, giám sát

Trong tương lai, để có thể thành lập sàn giao dịch vàng chính thức cần hội tụ nhiều yếu tố cả về công nghệ, kết nối hệ thống dữ liệu, cơ chế vận hành, quản lý, giám sát đảm bảo an toàn, minh bạch, hiệu quả.

Trước hết, về hạ tầng công nghệ đòi hỏi hiện đại, an toàn và minh bạch: Việt Nam cần xây dựng hệ thống giao dịch điện tử có khả năng xử lý khối lượng lớn lệnh trong thời gian thực, tương tự các sàn chứng khoán; ứng dụng công nghệ Blockchain để đảm bảo tính xác thực, truy xuất nguồn gốc và phòng chống gian lận; sử dụng mã hóa dữ liệu, xác thực đa lớp và chữ ký số để bảo đảm an toàn giao dịch.

Với hệ thống thanh toán và lưu ký: Cần kết nối trực tiếp với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Tiến tới thiết lập Trung tâm lưu ký vàng để quản lý, lưu trữ, và chuyển quyền sở hữu vàng theo mô hình phi vật chất hóa.

Cần có sự kết nối hạ tầng tài chính - ngân hàng, bảo đảm sự liên thông với NHTM, công ty, doanh nghiệp được cấp phép để làm thành viên của sàn. Ứng dụng API mở (Open API) để tích hợp dữ liệu thị trường, báo giá và thanh toán.

Thứ hai, về cơ chế vận hành: Sàn giao dịch vàng cần do Nhà nước quản lý, không phải của một doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng nào. Mô hình sàn vàng quốc gia tại Việt Nam cũng hoạt động tương tự sàn chứng khoán. NHTM và doanh nghiệp vàng sẽ là thành viên của sàn, đóng vai trò trung gian thực hiện lệnh mua - bán cho nhà đầu tư cá nhân. Về lâu dài, sàn vàng quốc gia cần kết nối với các sàn vàng quốc tế để xử lý tình huống dư mua, dư bán vàng phi vật chất, cũng như bảo đảm nhập khẩu vàng khi cần giao hàng vật chất.

Về sản phẩm giao dịch, ngoài vàng vật chất theo quy định của NHNN, còn có chứng chỉ vàng điện tử (E-gold certificate); tiến tới hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai vàng trong giai đoạn phát triển sau. Việc giao dịch được niêm yết công khai, giá tham chiếu theo thị trường quốc tế (London Bullion Market, COMEX) và cung - cầu trong nước.

Để phòng ngừa rủi ro, cần quy định về cơ chế ký quỹ bắt buộc để hạn chế đầu cơ. Hệ thống tự động ngắt giao dịch khi biến động giá vượt ngưỡng. Việc xây dựng và duy trì quỹ bảo đảm thanh toán và quỹ dự phòng rủi ro là cần thiết.

Thứ ba, về cơ chế quản lý nhà nước: Cơ quan quản lý là Ngân hàng Trung ương cần quy định rõ về cơ chế cấp phép, tiêu chuẩn hoạt động, trách nhiệm của thành viên sàn, nhà đầu tư, quy trình giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm. Tất cả giao dịch phải thông qua tài khoản ngân hàng được định danh. Vàng vật chất lưu trữ tập trung tại Kho quốc gia hoặc đơn vị lưu ký được ủy quyền. Các thông tin về giá, khối lượng giao dịch được công khai, đồng thời giao dịch theo thời gian thực (các giao dịch được thực hiện và hoàn thành gần như ngay lập tức trên thị trường, với người mua và người bán đạt thỏa thuận và hoàn thành việc trao đổi cùng lúc). Phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Bộ Tài chính để bảo đảm tính minh bạch.

Thứ tư, về giám sát và an ninh: Cần xây dựng hệ thống giám sát giao dịch thời gian thực; ứng dụng AI và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) để phát hiện giao dịch bất thường, thao túng giá, hoặc rửa tiền. Yêu cầu các thành viên báo cáo định kỳ về tình hình giao dịch, tồn kho, ký quỹ và thanh toán, thực hiện kiểm toán hệ thống công nghệ và tài chính hằng năm.

Thứ năm, NHNN cần tăng cường kết nối và trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc thành lập và vận hành sàn giao dịch vàng; đồng thời, phối hợp các bộ, ngành liên quan trong việc cấp phép, vận hành, giám sát, xử lý vi phạm.

Thứ sáu, về phía các doanh nghiệp, NHTM: Kinh doanh vàng phải đáp ứng các điều kiện khi tham gia sàn giao dịch vàng, bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh mua, bán vàng; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất và giao dịch mua, bán vàng; tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền cũng như các quy định pháp luật liên quan.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị định số 232/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

2. Thông tư số 34/2025/TT-NHNN ngày 09/10/2025 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 232/2025/NĐ-CP.

3. Trang Hội đồng Vàng Thế giới (World Gold Council), https://www.gold.org/goldhub/data/gold-trading-volumes

Linh Anh
NHNN

Tin bài khác

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách

Việt Nam quyết tâm xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế theo chủ trương và định hướng nêu tại Nghị quyết số 222/2025/QH15 của Quốc hội là một bước đi đúng đắn và mang tầm nhìn chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế là cần thiết để lựa chọn các trường hợp mang tính tham chiếu cao và phản ánh đa dạng cách tiếp cận phù hợp với thực tiễn của đất nước...
Tác động của tài chính toàn diện đến thích ứng với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Tác động của tài chính toàn diện đến thích ứng với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Bài viết này nhằm tổng hợp cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm quốc tế và đề xuất hàm ý chính sách đối với Việt Nam.
Xây dựng hệ sinh thái tài chính an toàn:  Cân bằng lợi ích và rủi ro giữa ngân hàng và chứng khoán

Xây dựng hệ sinh thái tài chính an toàn: Cân bằng lợi ích và rủi ro giữa ngân hàng và chứng khoán

Thị trường tài chính Việt Nam phát triển nhanh đòi hỏi các ngân hàng phải đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái tài chính tích hợp nhiều dịch vụ. Tuy nhiên, thách thức lớn đặt ra là bảo đảm quản trị minh bạch và kiểm soát rủi ro để phát triển bền vững.
Tín dụng tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất và hàm ý chính sách

Tín dụng tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất và hàm ý chính sách

Trong bối cảnh lãi suất cho vay tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất thị trường, các biện pháp tăng hoặc giảm lãi suất điều hành khó có thể kìm hãm “vòng xoáy” tín dụng tiêu dùng. Người vay tiêu dùng thường không quan tâm đến lãi suất danh nghĩa, mà chủ yếu nhìn vào khoản trả hằng tháng; đồng thời thị trường cho vay ngày càng phân mảnh với sự tham gia của ngân hàng, công ty tài chính, ví điện tử và các nền tảng "mua trước - trả sau". Điều này khiến kênh tín dụng tiêu dùng vừa trở nên khó can thiệp bằng công cụ lãi suất, vừa tiềm ẩn nguy cơ “đếm trùng” nghĩa vụ nợ và tích tụ rủi ro hệ thống.
FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam và con đường hội nhập tài chính toàn cầu

FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam và con đường hội nhập tài chính toàn cầu

Lợi ích kinh tế từ việc thị trường chứng khoán Việt Nam được FTSE Russell nâng hạng không chỉ thể hiện ở quy mô dòng vốn gia tăng mà còn ở sự chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam.
Pháp luật về giám sát thị trường tài chính tại một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật về giám sát thị trường tài chính tại một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật về giám sát thị trường tài chính trên thế giới đều hướng tới mục tiêu tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc hoàn thiện mô hình giám sát và nâng cao năng lực quản lý rủi ro.
Hiện tượng tẩy xanh trong lĩnh vực tài chính - Góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà nước

Hiện tượng tẩy xanh trong lĩnh vực tài chính - Góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà nước

Tẩy xanh được hiểu là hành vi doanh nghiệp hoặc tổ chức tạo dựng hình ảnh thân thiện với môi trường một cách giả tạo thông qua việc công bố hoặc quảng bá những thông tin sai lệch, mơ hồ và phóng đại về hoạt động phát triển bền vững của mình. Hành vi tẩy xanh không chỉ gây sai lệch thông tin thị trường, làm méo mó dòng vốn đầu tư, mà còn suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư, cản trở quá trình chuyển đổi sang tài chính bền vững.
Đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để phát triển bền vững

Đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để phát triển bền vững

Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính, việc tiết kiệm trong nước gắn liền với khả năng chống chịu trước rủi ro chu kỳ vốn quốc tế. Khi dòng vốn nước ngoài suy giảm do biến động địa chính trị hoặc thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế lớn, quốc gia có tỉ lệ tiết kiệm nội địa cao sẽ có khả năng duy trì đầu tư ổn định.
Xem thêm
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Tác động của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh chuyển đổi số

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được thiết kế với nhiều đột phá về cấu trúc thuế suất, phạm vi đối tượng chịu thuế và chính sách ưu đãi, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đồng thời đảm bảo công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp và hài hòa với các chuẩn mực thuế quốc tế.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô