Dấu ấn công nghệ ngân hàng năm 2024: An ninh, an toàn trong cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trên không gian mạng

Công nghệ & ngân hàng số
Để phòng, chống các hoạt động lừa đảo trên không gian mạng, trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã và đang tổ chức triển khai nhiều giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ.
aa

Hoàn thiện pháp lý tạo điều kiện cho thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) và chuyển đổi số ngân hàng

Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã trình cấp thẩm quyền ban hành và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách về thanh toán, như: (i) Quốc hội thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày 18/01/2024; Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 về TTKDTM; (ii) NHNN đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng; nghiên cứu, dự thảo hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định về dịch vụ Mobile-Money và trình Chính phủ đề xuất gia hạn thời gian thực hiện thí điểm dịch vụ này; (iii) NHNN đã ban hành 07 thông tư quy định chi tiết, hướng dẫn Luật Các TCTD và Nghị định số 52/2024/NĐ-CP về: Hoạt động đại lý thanh toán1; việc quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng Quốc gia2; cung ứng dịch vụ TTKDTM3; việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán4 (TCCUDVTT); hoạt động thẻ ngân hàng5; hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán6 (TGTT); giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng, hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT7; (iv) Thống đốc NHNN ký Quyết định số 2525/QĐ-NHNN ngày 15/11/2024 ban hành Tiêu chuẩn cơ sở đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía khách hàng tại Việt Nam.

Năm 2024, cùng với hoàn thiện hành lang pháp lý và hạ tầng công nghệ tạo nền móng cho phát triển TTKDTM và chuyển đổi số ngân hàng, ngành Ngân hàng đặc biệt chú trọng công tác an ninh, an toàn đối với các hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử cũng như bảo đảm quyền lợi hợp pháp của khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng trên không gian mạng trong bối cảnh tội phạm sử dụng công nghệ cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền và tài khoản ngân hàng của người dân có xu hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, phức tạp.

Các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách về thanh toán được ban hành đã tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ và điều kiện thuận lợi cho phát triển TTKDTM, thúc đẩy hoạt động ngân hàng số, ứng dụng công nghệ mới và bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán góp phần tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nhiều dịch vụ, phương thức thanh toán mới, tiện ích, hiện đại.

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục tổ chức triển khai tích cực các đề án, chương trình, kế hoạch, chính sách nhằm thúc đẩy TTKDTM và hoạt động ngân hàng số, Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030); Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNN ngày 24/4/2023 phối hợp giữa NHNN với Bộ Công an về thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06 nhằm thúc đẩy, tạo thuận lợi cho các TCCUDVTT, tổ chức TGTT cung ứng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán an toàn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng; tiếp tục chỉ đạo các TCCUDVTT, tổ chức TGTT triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ ngân hàng theo quy định tại Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023 của Thống đốc NHNN; đồng thời, thực hiện tốt công tác giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng và giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán.

NHNN khuyến khích các TCTD triển khai chuyển đổi số, kết nối, hợp tác với các ngành, lĩnh vực khác nhau để hình thành và mở rộng hệ sinh thái số, cung ứng sản phẩm, dịch vụ, lấy khách hàng làm trung tâm, cung cấp trải nghiệm giao dịch liền mạch, cá nhân hóa. Nhiều ngân hàng đã và đang ứng dụng các công nghệ mới (như trí tuệ nhân tạo, học máy, dữ liệu lớn…) trong các hoạt động nghiệp vụ, phân tích hành vi, nhu cầu, đánh giá khách hàng giúp tối ưu hóa, cá nhân hóa việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ cũng như tự động hóa quy trình, nâng cao hiệu quả hoạt động.

Hạ tầng công nghệ ngân hàng thường xuyên được đầu tư nâng cấp, phát triển, bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt, an toàn; hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng xử lý bình quân 830 nghìn tỉ VND/ngày (tương đương 40 tỉ USD), hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử xử lý bình quân 20 - 25 triệu giao dịch/ngày. Các công nghệ số mới là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng được ứng dụng mạnh mẽ để phục vụ nhu cầu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của người dân, doanh nghiệp. Việt Nam đã hoàn thành kết nối thanh toán xuyên biên giới qua QR Code với Thái Lan, Campuchia và đang triển khai với Lào, dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng ra các nước trong và ngoài khu vực Asean.

Hoạt động TTKDTM và hoạt động ngân hàng số trong năm 2024 tiếp tục có sự tăng trưởng tích cực. Theo NHNN, trong 11 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đạt 15,92 tỉ giao dịch với giá trị đạt 263,82 triệu tỉ đồng (tăng 56,94% về số lượng và 33,76% về giá trị); qua kênh Internet đạt 2,92 tỉ giao dịch với giá trị đạt 69,46 triệu tỉ đồng (tăng 50,67% về số lượng và 33% về giá trị); qua kênh điện thoại di động đạt 11,01 tỉ giao dịch với giá trị đạt 66,48 triệu tỉ đồng (tăng 54,62% về số lượng và 34,47% về giá trị), giao dịch qua QR Code đạt 271,58 triệu giao dịch với giá trị đạt 152,55 nghìn tỉ đồng (tăng 106,68% về số lượng và 84,77% về giá trị); qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 6,82% về số lượng và 33,09% về giá trị; qua Hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 30,73% về số lượng và 15,92% về giá trị. Đến cuối tháng 11/2024, thị trường có 21.089 ATM và 733.456 POS tăng tương ứng 0,36% và 42,82% so với cùng kỳ năm 2023. Trong 11 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm 2023, giao dịch qua ATM tiếp tục giảm 12,87% về số lượng và giảm 4,68% về giá trị, cho thấy nhu cầu rút tiền mặt của người dân đang có xu hướng giảm và được thay thế bởi các phương thức, thói quen TTKDTM.

Theo NHNN, tính đến cuối năm 2024 hơn 87% người trưởng thành đã có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và nhiều ngân hàng có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Ngoài ra, số lượng giao dịch thanh toán qua thiết bị di động và QR Code cũng có sự tăng trưởng nhanh chóng trong thời gian qua (bình quân qua các năm từ 2017 - 2023 đạt trên 100%/năm); đã có 85 TCCUDVTT triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 52 tổ chức thực hiện qua thiết bị di động.

Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngành Ngân hàng cũng phải đối mặt với những rủi ro, thách thức không nhỏ về an ninh, an toàn thông tin trước nguy cơ bị tấn công mạng, đặc biệt là tình trạng sử dụng công nghệ cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền và tài khoản ngân hàng của người dân có xu hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, phức tạp.

Tăng cường an ninh, an toàn thông tin trong cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử

Để phòng, chống các hoạt động lừa đảo trên không gian mạng, trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã và đang tổ chức triển khai nhiều giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ. Năm 2024, NHNN đã ban hành được một hệ thống các văn bản quy định về an ninh, an toàn thông tin đối với các hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử.

Trong công tác chỉ đạo, ban hành văn bản

Ngay từ đầu năm 2024, bên cạnh việc ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/01/2024 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 15/01/2024 về đẩy mạnh chuyển đổi số và bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng để quán triệt, chỉ đạo toàn Ngành thực hiện đầy đủ, nghiêm túc công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Ngoài ra, các đơn vị chức năng của NHNN cũng thường xuyên có các văn bản chỉ đạo, cảnh báo đến các TCTD, TGTT về tình hình tội phạm lừa đảo trên không gian mạng liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.

Thực hiện Kế hoạch của ngành Ngân hàng8 triển khai Đề án 06 và Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNN với Bộ Công an triển khai các nhiệm vụ tại Đề án 06 nhằm ứng dụng dữ liệu dân cư, căn cước công dân (CCCD), tài khoản định danh và xác thực điện tử đối với các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, góp phần chuyển đổi số, tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023 về triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng (thay thế Quyết định số 630/QĐ-NHNN ngày 31/3/2017). Theo đó từ ngày 01/7/2024, các TCTD, TGTT bên cạnh các giải pháp xác thực đa thành tố như đã quy định tại Quyết định số 630/QĐ-NHNN phải triển khai các giải pháp để giảm thiểu rủi ro trong giao dịch trực tuyến đối với khách hàng cá nhân: (i) Xác thực sinh trắc học (qua dữ liệu CCCD gắn chíp, VNeID) cho các giao dịch có giá trị > 10 triệu đồng hoặc giao dịch có giá trị ≤ 10 triệu đồng nhưng có tổng giá trị giao dịch/ngày > 20 triệu đồng; khi thay đổi thiết bị thực hiện giao dịch Mobile Banking; (ii) Gửi thông báo tới khách hàng về việc đăng nhập ứng dụng Internet Banking/Mobile Banking trên thiết bị khác; lưu trữ thông tin về thiết bị thực hiện các giao dịch trực tuyến của khách hàng và nhật ký (log) xác thực giao dịch tối thiểu trong vòng 3 tháng. Việc triển khai quyết định này góp phần bảo đảm các giao dịch thanh toán trực tuyến chỉ được thực hiện bởi chính chủ tài khoản, qua đó giúp nâng cao an ninh, an toàn, bảo mật cho các giao dịch thanh toán trực tuyến, giảm thiểu rủi ro gian lận, lừa đảo trong giao dịch thanh toán trực tuyến.

Ngoài ra, NHNN đã ban hành một số quy định mới bắt buộc khách hàng chỉ được thực hiện rút tiền, giao dịch thanh toán bằng phương tiện điện tử trên tài khoản thanh toán khi đã hoàn thành việc đối chiếu khớp đúng giấy tờ tùy thân và thông tin sinh trắc học của chủ tài khoản hoặc người đại diện (đối với khách hàng cá nhân) hoặc người đại diện hợp pháp (đối với khách hàng tổ chức) với: (i) Dữ liệu sinh trắc học được lưu trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước của người đó đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử của người đó do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập; hoặc (ii) Dữ liệu sinh trắc học được thu thập thông qua gặp mặt trực tiếp người đó đối với trường hợp là người nước ngoài không sử dụng danh tính điện tử, người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch; hoặc (iii) Dữ liệu sinh trắc học đã được thu thập và kiểm tra (đảm bảo sự khớp đúng giữa dữ liệu sinh trắc học của người đó với dữ liệu sinh trắc học trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc với dữ liệu sinh trắc học của người đó thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập); hoặc (iv) Dữ liệu sinh trắc học của người đó được lưu trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong trường hợp sử dụng thẻ CCCD không có bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa. Đối với khách hàng cá nhân áp dụng từ ngày 01/01/2025; đối với khách hàng tổ chức áp dụng từ ngày 01/7/2025 (theo Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại TCTD cung ứng dịch vụ thanh toán).

Trước ngày 01/01/2025, chủ tài khoản, chủ thẻ đều phải hoàn thành đối chiếu, xác thực thông tin sinh trắc học; cập nhật, bổ sung thông tin mới thay thế cho giấy tờ tùy thân đã hết hạn. Từ năm 2025, tất cả chủ thẻ, chủ tài khoản đều phải hoàn tất đối chiếu sinh trắc học thì mới thực hiện được giao dịch bằng phương tiện điện tử. Từ ngày 01/01/2025, các ngân hàng sẽ tạm dừng giao dịch thanh toán, rút tiền trên tài khoản thanh toán đối với các trường hợp giấy tờ tùy thân của khách hàng hết hiệu lực hoặc hết thời hạn sử dụng. Trường hợp có nhu cầu thì chỉ có thể trực tiếp đến ngân hàng để thực hiện giao dịch.

Các quy định trên nhằm kiểm tra xác minh thông tin chủ thẻ bảo đảm “chính chủ”, góp phần hạn chế việc sử dụng giấy tờ tùy thân giả mạo để mở thẻ ngân hàng. Việc kiểm tra, xác minh thông tin sinh trắc học của khách hàng theo quy định này chỉ cần thực hiện một lần trước khi thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử; không yêu cầu khách hàng phải xác thực thông tin sinh trắc học đối với từng giao dịch bằng phương tiện điện tử. Điều kiện cần để đăng ký Mobile Banking, Internet Banking là khách hàng phải hoàn tất đối chiếu sinh trắc học. Việc triển khai xác thực sinh trắc học trong giao dịch ngân hàng góp phần bảo đảm giao dịch thanh toán trực tuyến được thực hiện bởi chính chủ tài khoản, qua đó sẽ nâng cao an ninh, an toàn, bảo mật cho các giao dịch thanh toán trực tuyến, giảm thiểu rủi ro gian lận, lừa đảo trong giao dịch thanh toán trực tuyến.

Ngoài ra, ngày 17/7/2024, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành Thông tư số 40/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT (Thông tư 40), trong đó quy định mở ví điện tử bằng phương tiện điện tử (Điều 22) có hiệu lực từ ngày 01/10/2024. Theo đó: “Tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử: Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu, thông tin, dữ liệu xác minh thông tin nhận biết khách hàng và phải thực hiện đối chiếu khớp đúng thông tin sinh trắc học của chủ ví điện tử (đối với khách hàng cá nhân), người đại diện hợp pháp (đối với khách hàng tổ chức) với: (i) Dữ liệu sinh trắc học được lưu trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử của người đó do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập; hoặc (ii) Dữ liệu sinh trắc học đã được thu thập và kiểm tra (đảm bảo sự khớp đúng giữa dữ liệu sinh trắc học của người đó với dữ liệu sinh trắc học trong bộ phận lưu trữ thông tin được mã hóa của thẻ CCCD hoặc thẻ căn cước đã được xác thực chính xác là do cơ quan Công an cấp hoặc với dữ liệu sinh trắc học của người đó thông qua xác thực tài khoản định danh điện tử do Hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập”.

Đồng thời, NHNN đã chỉ đạo các TCTD phối hợp với đơn vị chức năng Bộ Công an triển khai các giải pháp công nghệ ứng dụng dữ liệu dân cư theo định hướng tại Đề án 06 của Chính phủ nhằm làm sạch dữ liệu khách hàng, loại bỏ các tài khoản ngân hàng không chính chủ.

Theo NHNN, đến ngày 08/01/2025, đã có hơn 87,6 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân được thu thập, đối chiếu thông tin sinh trắc học. Qua theo dõi số liệu báo cáo của các TCTD, số lượng vụ việc lừa đảo mất tiền của khách hàng cá nhân và số lượng tài khoản khách hàng cá nhân có phát sinh nhận tiền lừa đảo ở các đơn vị đã giảm đáng kể, cụ thể: Số lượng vụ việc khách hàng bị lừa đảo mất tiền từ ngày 01/7/2024 đến ngày 30/11/2024 giảm khoảng 68% so với số vụ việc trung bình 6 tháng đầu năm 2024; số lượng tài khoản nhận tiền lừa đảo từ ngày 01/7/2024 đến ngày 30/11/2024 giảm khoảng 64% so với trung bình 6 tháng đầu năm 2024. Đặc biệt, một số TCTD đã không phát sinh vụ việc trong thời gian vừa qua.

Triển khai các giải pháp về quy trình, công nghệ

Về phía các TCTD, công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin luôn được quan tâm, coi trọng và đưa vào nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tổ chức hoạt động. Các TCTD đã và đang triển khai nhiều giải pháp về mặt quy trình và công nghệ nhằm phòng, chống lừa đảo, gian lận trong lĩnh vực ngân hàng như: Làm sạch dữ liệu khách hàng, loại bỏ các tài khoản ngân hàng không chính chủ; phối hợp với các đơn vị của Bộ Công an triển khai các giải pháp công nghệ ứng dụng dữ liệu dân cư theo định hướng tại Đề án 06 của Chính phủ nhằm làm sạch dữ liệu khách hàng, loại bỏ các tài khoản ngân hàng không chính chủ; tăng cường các giải pháp xác thực mạnh.

Đồng thời, các ngân hàng thương mại đang triển khai tích hợp nhiều biện pháp bảo vệ tăng cường như: Áp dụng các cơ chế giám sát, phòng chống giao dịch bất thường, giao dịch gian lận đối với kênh ngân hàng điện tử để có cảnh báo sớm và biện pháp ngăn chặn kịp thời với các giao dịch đáng ngờ của khách hàng. Nghiên cứu áp dụng cơ chế phát hiện, cảnh báo và ngăn chặn sử dụng ứng dụng Mobile Banking đối với các thiết bị bị phá khóa hoặc thiết bị đã kích hoạt quyền trợ năng. Áp dụng các cơ chế phát hiện đăng nhập trên thiết bị lạ. Việc kích hoạt thiết bị điện tử giao dịch Internet Banking cũng được áp dụng các biện pháp xác thực mạnh với quy trình xác thực lại chặt chẽ đòi hỏi sự tương tác chủ động của khách hàng thay vì các yếu tố xác thực tĩnh. Tăng cường sử dụng dịch vụ, công nghệ mới như Threat Intelligence để sớm phát hiện các vụ việc lộ, lọt thông tin tài khoản, xác thực của khách hàng trên mạng Internet cũng như có cơ chế nhanh chóng gỡ bỏ các website giả mạo...

Từ năm 2023 đến nay, NHNN và các TCTD đã nghiên cứu, xây dựng và thử nghiệm thành công về mặt kỹ thuật hệ thống giám sát các tài khoản thanh toán, ví điện tử nghi ngờ gian lận, giả mạo (SIMO). Hệ thống SIMO cho phép các tổ chức thành viên tham gia thực hiện báo cáo thông tin về các tài khoản đáng ngờ khi phát hiện và chia sẻ thông tin tới các thành viên khác. Trên cơ sở nguồn dữ liệu tập trung của hệ thống SIMO và nguồn dữ liệu về danh sách tài khoản đã tham gia vào quá trình luân chuyển dòng tiền lừa đảo đã được Bộ Công an thu thập, các TCTD có thể đưa ra quyết định thực hiện ngăn chặn giao dịch ngay lập tức hoặc yêu cầu xác thực, định danh tài khoản trước thực hiện giao dịch trực tuyến.

Phối hợp các bộ, ngành liên quan

Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng thiết lập cơ chế trao đổi, phản ứng nhanh với các đơn vị chức năng. Cụ thể, từ năm 2021, NHNN đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thiết lập kênh phản ứng nhanh để ngăn chặn kịp thời website giả mạo các tổ chức trong ngành Ngân hàng. Khi phát hiện có website giả mạo, các ngân hàng sẽ cung cấp thông tin cho Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông thông qua kênh phản ứng nhanh để chỉ đạo nhà cung cấp dịch vụ Internet thiết lập chính sách an ninh mạng ngăn chặn truy cập.

Trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông và các tổ chức liên quan trong công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin; phòng, chống lừa đảo qua mạng trong ngành Ngân hàng, cụ thể như: Phối hợp cung cấp thông tin trong điều tra, xử lý các vụ việc lừa đảo liên quan đến khách hàng của ngân hàng, bảo đảm lợi ích chính đáng của khách hàng; phối hợp tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức, kỹ năng về an ninh, an toàn thông tin tới nhân viên và khách hàng của ngân hàng để phòng, chống lừa đảo qua mạng.

Ngành Ngân hàng đã và đang phối hợp với các cơ quan báo chí truyền thông, giáo dục tài chính với nhiều hình thức đa dạng, nhằm phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức, cảnh báo cho người dân về những rủi ro an ninh, an toàn thông tin, các thủ đoạn, hành vi tội phạm, lừa đảo phổ biến mới xuất hiện liên quan đến hoạt động ngân hàng; truyền thông tới khách hàng về các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thông tin khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử.

Định hướng, giải pháp trong thời gian tới

Để thúc đẩy TTKDTM và chuyển đổi số ngân hàng, đồng thời bảo đảm an ninh, bảo mật cho việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ ngân hàng trên không gian mạng, thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai các nhiệm vụ sau:

(i) Tập trung triển khai thực hiện Nghị định số 52/2024/NĐ-CP; các thông tư quy định chi tiết, hướng dẫn Luật Các TCTD; xây dựng, tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau khi được ban hành); nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định về dịch vụ Mobile-Money; tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, ban hành kịp thời các văn bản, thông tư thay thế, sửa đổi, bổ sung quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet.

(ii) Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung tại Kế hoạch triển khai Đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2021 - 2025, Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Kế hoạch số 01/KHPH-BCA-NHNN về thực hiện các nhiệm vụ tại Đề án 06.

(iii) Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin của các TCTD, TCCUDVTT, tổ chức TGTT; đồng thời nâng cấp, phát triển các hạ tầng thanh toán bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt, an toàn, kết nối liền mạch, xuyên suốt với các ngành, lĩnh vực khác (như dịch vụ công, y tế, giáo dục, thương mại điện tử...) và kết nối thanh toán xuyên biên giới nhằm đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng đa dạng, ngày càng tăng nhanh của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.

(iv) Tiếp tục phối hợp với Bộ Công an triển khai hiệu quả Đề án 06, trong đó chú trọng khai thác thông tin CCCD gắn chíp và tài khoản VNeID để định danh, xác thực chính xác thông tin khách hàng và phối hợp, hỗ trợ trong quá trình cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng một cách tiện lợi, an toàn, bảo đảm phòng ngừa rủi ro, tội phạm lợi dụng dịch vụ thanh toán cho mục đích gian lận, lừa đảo.

(v) Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn và bảo mật hoạt động thanh toán, ngân hàng; chỉ đạo các đơn vị cung ứng dịch vụ tích cực triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ ngân hàng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.

(vi) Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, giáo dục tài chính nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho công chúng; tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức thể hiện, ứng dụng công nghệ 4.0 và phương tiện truyền thông hiện đại để tăng tính lan tỏa, đồng thời cách thể hiện bảo đảm dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện với công chúng, đặc biệt hướng đến người dân khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, giới trẻ, học sinh, sinh viên...

Về phía các bộ, ngành liên quan, cần nghiên cứu, xây dựng mô hình phối hợp liên ngành để xử lý nhanh, kịp thời các vụ, việc có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng công nghệ cao, trên không gian mạng; xây dựng cơ sở dữ liệu về tài khoản thanh toán, ví điện tử có nghi vấn liên quan đến hoạt động vi phạm pháp luật để kịp thời cảnh báo, phòng, ngừa, ngăn chặn, thu hồi tài sản.

Bộ Công an chỉ đạo công an các đơn vị, địa phương nâng cao chất lượng công tác phòng ngừa tội phạm, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra khám phá các vụ án, vụ việc liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản; mở đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm sử dụng công nghệ cao, lợi dụng không gian mạng hoạt động phạm tội, trong đó có tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tăng cường đàm phán, ký kết bản ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác về phòng, chống tội phạm với các nước trên thế giới, nhất là các nước chung đường biên giới với Việt Nam.

Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực viễn thông, an toàn thông tin; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xóa bỏ các nội dung, trang web, đường dẫn, ứng dụng, hội, nhóm, tài khoản trên không gian mạng liên quan đến hoạt động lừa đảo; phối hợp với NHNN để có phương án đối khớp thông tin chủ tài khoản, người đại diện hợp pháp với thông tin chủ thuê bao di động theo số điện thoại di động đã đăng ký trong hồ sơ mở tài khoản thanh toán, ví điện tử: Chỉ đạo doanh nghiệp viễn thông thực hiện xác thực, lưu giữ, sử dụng thông tin thuê bao viễn thông và xử lý SIM có thông tin thuê bao viễn thông không đầy đủ, không chính xác theo quy định; nghiên cứu giải pháp kỹ thuật để ngăn chặn có hiệu quả các cuộc gọi, tin nhắn nghi vấn lừa đảo, nhất là các cuộc gọi từ nước ngoài, cuộc gọi sử dụng công nghệ VoiIP, ứng dụng OTT...; tăng cường công tác phối hợp với Bộ Công an, kịp thời cung cấp thông tin thuê bao, thông tin chủ thể tên miền được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khi được yêu cầu.

1 Thông tư số 07/2024/TT-NHNN ngày 21/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động đại lý thanh toán.

2 Thông tư số 08/2024/TT-NHNN ngày 25/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về việc quản lý, vận hành và sử dụng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng quốc gia.

3 Thông tư số 15/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về cung ứng dịch vụ TTKDTM.

4 Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại TCCUDVTT.

5 Thông tư số 18/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng.

6 Thông tư số 40/2024/TT-NHNN ngày 17/7/2024 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT.

7 Thông tư số 41/2024/TT-NHNN ngày 17/7/2024 của Thống đốc NHNN quy định về giám sát và thực hiện giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng, hoạt động cung ứng dịch vụ TGTT.

8 Quyết định số 171/QĐ-NHNN ngày 18/02/2022 của Thống đốc NHNN ban hành Kế hoạch của ngành Ngân hàng năm 2022 triển khai Đề án 06; Quyết định 264/QĐ-NHNN ngày 02/3/2023 của Thống đốc NHNN ban hành Kế hoạch năm 2023 của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị định số 52/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2024 của Chính phủ về TTKDTM.

2. Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

3. Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023 của Thống đốc NHNN về triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng.

Lan Chi
NHNN

Tin bài khác

Đảm bảo an toàn và hiệu quả giao dịch cho vay trên nền tảng số

Đảm bảo an toàn và hiệu quả giao dịch cho vay trên nền tảng số

Với nhiều ưu thế, cho vay trực tuyến đang trở thành một công cụ chiến lược giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả vận hành và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng trong bối cảnh chuyển đổi số.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Ngân hàng xanh: Phân tích trắc lượng thư mục và xu hướng nghiên cứu tiềm năng

Ngân hàng xanh: Phân tích trắc lượng thư mục và xu hướng nghiên cứu tiềm năng

Ngân hàng xanh đã trở thành một xu hướng quan trọng trong ngành Ngân hàng hiện đại, phản ánh cam kết của các tổ chức tài chính đối với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và áp lực từ các bên liên quan, ngân hàng xanh không chỉ là một trách nhiệm xã hội mà còn là cơ hội kinh doanh chiến lược...
Cơ chế tác động của công nghệ tài chính đến phát triển kinh tế số tại Việt Nam: Một số phân tích chính yếu

Cơ chế tác động của công nghệ tài chính đến phát triển kinh tế số tại Việt Nam: Một số phân tích chính yếu

Bài viết đánh giá về sự phát triển của Fintech tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, đồng thời dự báo Fintech đã, đang và sẽ trở thành một yếu tố quan trọng trong việc định hình nền kinh tế số của Việt Nam. Việc triển khai Fintech đã dẫn đến giảm đáng kể chi phí giao dịch, tăng tốc độ giao dịch tài chính và cải thiện hiệu quả hoạt động tổng thể, từ đó củng cố nền kinh tế số.
Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Chuyển đổi số ngân hàng: Góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu. Ngân hàng là ngành tiên phong đi đầu trong chuyển đổi số...
Ứng dụng AI và Big Data trong phát hiện và cảnh báo sớm gian lận tín dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Ứng dụng AI và Big Data trong phát hiện và cảnh báo sớm gian lận tín dụng tại Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Trong bối cảnh gian lận tín dụng ngày càng tinh vi, gây thiệt hại lớn cho các tổ chức tín dụng và đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng, việc ứng dụng công nghệ trong phát hiện, cảnh báo sớm là yêu cầu cấp thiết. Với vai trò trung tâm lưu trữ và phân tích dữ liệu tín dụng quốc gia, Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam cần triển khai các mô hình cảnh báo hiện đại nhằm nâng cao năng lực giám sát và phòng ngừa rủi ro.
Phát triển ngân hàng mở tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và một số giải pháp, khuyến nghị

Phát triển ngân hàng mở tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và một số giải pháp, khuyến nghị

Ngành tài chính - ngân hàng đang chứng kiến những thay đổi mang tính cách mạng dưới tác động của công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của mô hình ngân hàng mở. Trước đây, hoạt động ngân hàng chủ yếu diễn ra trong môi trường “đóng”, nơi các sản phẩm, dịch vụ và dữ liệu khách hàng được kiểm soát chặt chẽ trong nội bộ ngân hàng, thì hiện nay, với sự ra đời của Open API, mô hình ngân hàng mở đang từng bước phá vỡ rào cản này, tạo ra không gian tài chính linh hoạt, kết nối và cá nhân hóa hơn.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô