Bàn về hạn mức trả tiền bảo hiểm

Hoạt động ngân hàng
Vũ Thùy Dương Hạn mức trả tiền bảo hiểm được coi là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách bảo vệ người gửi tiền, từ đó góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảm...
aa

Vũ Thùy Dương

Hạn mức trả tiền bảo hiểm được coi là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách bảo vệ người gửi tiền, từ đó góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảm bảo phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Để hiểu rõ hơn về hạn mức trả tiền bảo hiểm được coi là công cụ quan trọng trong việc thực thi chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG), bài viết đề cập kinh nghiệm quốc tế về hạn mức trả tiền bảo hiểm, nguyên tắc xác định hạn mức và một số khuyến nghị chính sách về hạn mức trả tiền bảo hiểm tại Việt Nam.

Hạn mức trả tiền bảo hiểm - kinh nghiệm quốc tế
Theo báo cáo của Hội đồng ổn định tài chính (FSB), việc xác định hạn mức cần đảm bảo cân bằng giữa việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần ổn định tài chính và duy trì kỷ luật thị trường. Hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp phải thỏa mãn đồng thời hai yếu tố: Một là, hạn mức phải đủ cao để bảo vệ đại đa số người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, có hiểu biết hạn chế. Hai là, hạn mức phải đủ thấp để những người gửi tiền lớn không chạy theo các hành vi rủi ro, chạy đua tìm kiếm ngân hàng trả lãi suất cao nhất mặc dù bản thân người gửi tiền biết ngân hàng đó có rủi ro cao hơn.
Chính sách BHTG nói chung và chính sách hạn mức BHTG nói riêng có tác động rất lớn tới sự ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng. Chính vì vậy, nhiều quốc gia điều chỉnh hạn mức linh hoạt theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã khiến cho nhiều nước phải tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm, tiêu biểu như Mỹ đã tăng từ 100.000 USD lên 250.000 USD, EU từ 50.000 Euro lên 100.000 Euro, trong đó một số nước áp dụng bảo đảm toàn bộ (Đức, Áo, Thái Lan, Singapore…).
Trên thế giới, ở thời kỳ khủng hoảng, khi niềm tin vào hệ thống ngân hàng bị suy giảm, các nước đều đồng loạt nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm như một sự phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả. Trong giai đoạn khủng hoảng, hầu hết các nước đều lựa chọn tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm hoặc bảo đảm toàn bộ vì một số lý do sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn khủng hoảng, sự thay đổi của tỉ lệ lạm phát ảnh hưởng đến giá trị thực của hạn mức và khiến nó không còn phù hợp với mục tiêu chính sách công.
Thứ hai, việc tăng hạn mức sẽ giúp củng cố niềm tin của người gửi tiền vào các ngân hàng, qua đó ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt và tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng, tránh làm trầm trọng thêm khủng hoảng.
Thứ ba, mục tiêu quan trọng nhất của BHTG cũng như chính sách hạn mức trả tiền bảo hiểm là bảo vệ số đông người gửi tiền. Bởi thế, trong thời kỳ khủng hoảng, nhiều quốc gia áp dụng bảo đảm toàn bộ để có thể bảo vệ người gửi tiền tốt nhất.
Như vậy, hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp có thể hỗ trợ duy trì kỷ luật thị trường, cũng như hỗ trợ hoạt động của các cơ quan quản lý, giám sát trong nỗ lực xây dựng hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh.
Nguyên tắc xác định hạn mức BHTG
Nhằm đạt được sự cân bằng hợp lý giữa bảo vệ người gửi tiền, ổn định tài chính và kỷ luật thị trường, Nguyên tắc 8 về Hạn mức Bảo hiểm trong Bộ nguyên tắc cơ bản sửa đổi của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) năm 2014 và Hướng dẫn nâng cao về phát triển hệ thống BHTG hiệu quả tháng 3/2013 đưa ra khuyến nghị với các tổ chức BHTG như sau: Các nhà hoạch định chính sách phải xác định rõ ràng mức độ và phạm vi BHTG. Hạn mức nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiền nhưng phải đảm bảo có một tỷ lệ đáng kể giá trị tiền gửi không được bảo hiểm để tuân theo kỷ luật
thị trường.
Hạn mức BHTG cần phù hợp với các mục tiêu chính sách công và các đặc điểm thiết kế có liên quan của hệ thống BHTG, bao gồm quá trình trả tiền bảo hiểm và các nỗ lực về nhận thức công chúng.
IADI hướng dẫn cụ thể cách thức thiết lập hạn mức BHTG như sau:
Thứ nhất, việc xác định hạn mức trả tiền phù hợp có thể liên quan đến một quá trình cân bằng các mục tiêu chính sách của các nước với chi phí của chính sách đó. Điều được IADI lưu ý trong hướng dẫn nâng cao của mình là hạn mức trả tiền bảo hiểm phải được thiết lập phù hợp với các mục tiêu chính sách, theo đó phần lớn người gửi tiền tại các ngân hàng có nguy cơ bị xử lý được bảo vệ toàn bộ, trong khi phần lớn giá trị các khoản tiền gửi có xu hướng tuân theo kỷ luật thị trường. Với việc sử dụng dữ liệu về số lượng người gửi tiền được bảo hiểm và tỷ lệ tổng giá trị tiền gửi được bảo hiểm theo các hạn mức bảo hiểm khác nhau (tất cả các khoản tiền gửi/người gửi tiền đủ điều kiện được bảo hiểm), các cơ quan có thẩm quyền có thể thiết lập hạn mức bảo hiểm để bảo vệ nhiều người gửi tiền nhất có thể, trong khi để lại một lượng lớn giá trị tiền gửi không được bảo hiểm. Hạn mức bảo hiểm mục tiêu có thể dao động khoảng 90 - 95% tổng số người gửi tiền.
Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn hạn mức bảo hiểm, chẳng hạn như nguồn quỹ sẵn có, giai đoạn phát triển kinh tế, mối liên kết với các nước láng giềng, hoặc sự tồn tại của nhiều hệ thống BHTG trong một quốc gia.
Tính hợp lý của hạn mức bảo hiểm có thể được xác định trong bối cảnh của mạng an toàn tổng thể. Nếu ở mức quá thấp, những người gửi tiền tương đối nhỏ có thể rút tiền ồ ạt khi xảy ra sự cố đối với ngân hàng của họ. Nếu hạn mức là quá cao, những người gửi tiền qui mô lớn sẽ không quan tâm đến rủi ro của ngân hàng, do đó không duy trì được kỷ luật thị trường và các ngân hàng sẽ chấp nhận những hoạt động có rủi ro cao hơn, gây nên rủi ro đạo đức. Trong cả hai trường hợp, khuôn khổ xử lý ngân hàng hiệu quả và giám sát vững mạnh có thể giúp hạn chế một số tác động tiêu cực của hạn mức.
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền ước lượng giá trị tiền gửi có nguy cơ rủi ro và khả năng đổ vỡ. Các phương pháp ước lượng có thể mang tính kỹ thuật (chẳng hạn như giá trị chịu rủi ro hoặc xác suất đổ vỡ ngân hàng) hoặc trực tiếp hơn (như bảo hiểm được một số lượng nào đó các ngân hàng có quy mô nhỏ và vừa).
Thứ ba, sau khi xác định số tiền tối đa của các khoản tiền gửi có nguy cơ rủi ro, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định xem có một cơ chế cấp vốn đáng tin cậy để chi trả không. Nếu cần, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phát triển cơ chế cấp vốn để đảm bảo đủ nguồn chi trả sẵn có. Hầu hết các cấu trúc xây dựng quỹ bao gồm sự kết hợp giữa cơ chế cấp vốn trước, cấp vốn sau và cấp vốn dự phòng khẩn cấp. Theo cơ chế cấp vốn trước, quy mô phù hợp của quỹ và các mức phí cần thiết để xây dựng quỹ theo thời gian phải được xác định. Theo cơ chế cấp vốn sau, việc xây dựng quỹ đảm bảo cần có tính thanh khoản. Tất cả các cơ chế cấp vốn cần phải tính đến các kế hoạch cấp vốn dự phòng khẩn cấp.
Nếu nguồn quỹ không có sẵn hoặc quá nhỏ đối với một đất nước, hạn mức bảo hiểm cần phải giảm xuống hoặc thu hẹp lại. Giảm hạn mức bảo hiểm hoặc phạm vi bảo hiểm có thể làm giảm các yêu cầu góp vốn. Tuy nhiên, hạn mức bảo hiểm thấp hơn cũng có thể dẫn đến nguy cơ cao hơn về việc rút tiền hàng loạt của người gửi tiền khi xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
Ngoài ra, hạn mức bảo hiểm thực tế hiệu quả có thể giảm theo thời gian và phải được xem xét thường xuyên. Theo thời gian, lạm phát có thể làm giảm giá trị thực của hạn mức BHTG, cấu phần và quy mô của các khoản tiền gửi có thể thay đổi và các công cụ tiền gửi mới có thể được cung cấp. Do đó, việc đánh giá mức độ phù hợp của phạm vi và hạn mức bảo hiểm định kỳ là cần thiết.
Hạn mức BHTG tại Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách
Những năm qua, trong bối cảnh nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam có những bước phát triển đáng kể, thu nhập của người dân tăng lên, hạn mức trả tiền bảo hiểm cũng nhiều lần được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế. Cụ thể, tại Nghị định 89/1999/NÐ-CP của Chính phủ về BHTG ngày 01/9/1999 đã quy định số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia BHTG, tối đa là 30 triệu đồng. Sau 5 năm hoạt động, đến năm 2005, tại Nghị định 109/2005/NÐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi Nghị định 89/1999/NÐ-CP, Chính phủ đã nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm lên 50 triệu đồng để phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Và mới đây nhất, theo Quyết định số 21/2017/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 05/8/2017, hạn mức trả tiền bảo hiểm đã được nâng từ 50 triệu đồng Việt Nam lên mức 75 triệu đồng Việt Nam. Việc điều chỉnh này được đánh giá là cần thiết nhằm phát huy hiệu quả của chính sách BHTG, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền.
Hiện nay, BHTGVN là thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia, một trong những công cụ của Chính phủ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tính đến cuối năm 2016, đã có 1.267 tổ chức tham gia BHTG (tăng 12,4% so với 2008), bao gồm 96 ngân hàng, 1.168 quỹ tín dụng nhân dân và 3 tổ chức tài chính vi mô. Số người gửi tiền được bảo hiểm là hơn 47,86 triệu người, với số tiền gửi được bảo hiểm lên tới trên 3,5 triệu tỷ đồng. Tại các phòng giao dịch, chi nhánh của các TCTD, đều được gắn thông điệp “Quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền được Chính phủ cam kết bảo vệ” đặt cùng với Giấy chứng nhận tham gia BHTG.
Quy định về chi trả được phản ảnh ở Luật BHTG và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể trong Luật BHTG được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 nêu rõ, quyền và nghĩa vụ của người được BHTG, tổ chức tham gia BHTG và tổ chức BHTG được quy định tại Điều 11, 12, 13. Các nội dung về trả tiền bảo hiểm như thời điểm phát sinh nghĩa vụ, thời hạn hạn mức, thủ tục trả tiền bảo hiểm, số tiền bảo hiểm được trả và xử lý số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền được quy định từ Điều 22 - 27. Trong đó, Điều 27 nêu rõ quy định xử lý số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm: “Số tiền gửi của người được bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm sẽ được giải quyết trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, mới đây, có một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề xuất, kiến nghị Quốc hội xem xét và có các quy định cụ thể hơn trong luật, trong đó hàm ý là biện pháp đặc biệt, có thể là chi trả tiền gửi cao hơn mức quy định để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống trong từng trường hợp đặc biệt và tùy vào điều kiện ngân sách trong từng trường hợp cụ thể.
Việc điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm từ 50 triệu đồng lên 75 triệu đồng là một trong số các động thái chính sách nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người gửi tiền. Ðây cũng được coi như một cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Trong giai đoạn hiện nay, mức chi trả BHTG nâng lên 75 triệu đồng là tương đối hợp lý. Tuy nhiên, xét trong dài hạn, hạn mức trả tiền bảo hiểm cần được tiếp tục xem xét xây dựng được một lộ trình thích hợp hơn để điều chỉnh tương xứng với các khuyến nghị của IADI và điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Thứ nhất, định kỳ đánh giá và điều chỉnh hạn mức BHTG trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc 8
với các tiêu chí cơ bản về hạn mức trong Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển mô hình BHTG hiệu quả của IADI. IADI cho rằng, hạn mức bảo hiểm thực tế hiệu quả có thể giảm theo thời gian và phải được xem xét thường xuyên. Theo thời gian, lạm phát có thể làm giảm giá trị thực của hạn mức BHTG, cấu phần và quy mô của các khoản tiền gửi có thể thay đổi và các công cụ tiền gửi mới có thể được cung cấp. Do đó, việc đánh giá mức độ phù hợp của phạm vi và hạn mức bảo hiểm định kỳ là cần thiết. Những điều chỉnh này có thể tiến hành mà không dự tính trước hoặc có thể được thực hiện tự động, chẳng hạn như thông qua các chỉ số. Các quốc gia có lịch sử lạm phát cao có thể xác định hạn mức bảo hiểm theo các đơn vị chỉ số nhằm duy trì giá trị thực của hạn mức BHTG.
Thứ hai, tăng cường vai trò của BHTGVN trong mạng an toàn tài chính quốc gia, góp phần thúc đẩy hiệu quả quá trình tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2016 - 2020
Trong hơn hai thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến hàng loạt các cuộc khủng hoảng tài chính, qua đó chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng của mạng an toàn tài chính. Một trong những cơ sở quan trọng hình thành mạng an toàn tài chính là thực tế các chính phủ có xu hướng phải gánh chịu những khoản chi phí rất lớn để giải cứu các ngân hàng và đảm bảo ổn định hệ thống tài chính. Nhằm giảm thiểu nguy cơ cho hệ thống và hạn chế tối đa chi phí xử lý khủng hoảng, các quốc gia trên thế giới đã tích cực thành lập và triển khai hoạt động mạng an toàn tài chính.
Mạng an toàn tài chính là hệ thống các cơ quan có trách nhiệm giám sát, duy trì ổn định hệ thống tài chính, ngăn ngừa khủng hoảng tại các nước và các cơ chế, công cụ được các cơ quan thực hiện nhằm đạt được mục tiêu trên. Theo thông lệ quốc tế, mạng an toàn tài chính của các nước thường bao gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương, Cơ quan giám sát tài chính, Tổ chức BHTG và một số cơ quan khác.
Trong mạng an toàn tài chính, BHTG có chức năng đảm bảo duy trì niềm tin của người gửi tiền với vai trò giám sát, cảnh báo sớm, xử lý ngân hàng đổ vỡ góp phần đảm bảo an toàn hệ thống, qua đó đóng góp tích cực và chủ động vào việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng. Như vậy, tổ chức BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền (vi mô) và ổn định hệ thống tài chính (vĩ mô).
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để tăng cường hiểu biết về BHTG, đặc biệt là tuyên truyền tới các đối tượng ở vùng nông thôn. Tại chi nhánh, phòng giao dịch của các thành viên phải có đầy đủ thông tin cơ bản về chính sách BHTG thông qua chứng nhận BHTG được niêm yết công khai để người gửi tiền hiểu rõ quyền lợi của mình được bảo đảm. Đặc biệt là tuyên truyền, giải thích để ổn định tâm lý người dân, không gây xáo trộn an ninh, trật tự trên các địa bàn. Công tác tuyên truyền về vai trò và trách nhiệm của BHTG có ý nghĩa rất quan trọng đến việc nâng cao nhận thức của dân chúng nói chung và người gửi tiền nói riêng, phổ biến kiến thức cho người gửi tiền và kiến thức chung về tài chính cá nhân sẽ góp phần đưa các chính sách về BHTG vào cuộc sống.

Tài liệu tham khảo:
1. IADI (2014), Core Principles for effective Deposit Insurance Systems;
2. IADI (2014, 2015), Surveys on Deposit Insurance;
3. Quốc hội Việt Nam (2012), Luật số 06/2012/QH13 về BHTG;
4. Nghị định 68/2013/NÐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG;
5. Quyết định số 21/2017/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm;
6. BHTGVN (01/2017), Báo cáo tổng kết của BHTGVN năm 2016;
7. www.iadi.org; www.fsb.org.

(Tạp chí Ngân hàng số 22, tháng 11/2017)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc