Ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả

Công nghệ & ngân hàng số
Blockchain là hệ thống cơ sở dữ liệu cho phép lưu trữ và truyền tải các khối thông tin được liên kết với nhau nhờ mã hóa.
aa

Tóm tắt: Việc ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng mang lại nhiều lợi ích, nhưng hiện nay, việc ứng dụng công nghệ này gặp rất nhiều khó khăn vì những lý do khác nhau. Bài viết này tập trung nghiên cứu, đánh giá, làm rõ những lợi ích của ứng dụng Blockchain mang lại trong hoạt động ngân hàng, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế, khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ này, từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục, hoàn thiện.

Từ khóa: Blockchain, hoạt động ngân hàng, thực trạng, giải pháp.

APPLICATION OF BLOCKCHAIN TECHNOLOGY IN BANKING ACTIVITIES - CURRENT SITUATION
AND SOME SOLUTIONS TO IMPROVE EFFICIENCY


Abstract: Although Blockchain application in banking activities has numerous benefits, the application of this technology faces many difficulties for many different reasons. This article focuses on researching, evaluating to clarify the benefits of blockchain application in banking activities, simultaneously pointing out the limitations and difficulties in applying this technology, thereby making some recommendations for completion.

Keywords: Blockchain, banking activities, current situation, solutions.


1. Đặt vấn đề


Blockchain là hệ thống cơ sở dữ liệu cho phép lưu trữ và truyền tải các khối thông tin được liên kết với nhau nhờ mã hóa. Các khối thông tin này hoạt động một cách độc lập và có thể mở rộng theo thời gian, được quản lý bởi những người tham gia hệ thống, không thông qua bất kì một đơn vị trung gian nào và phải đảm bảo đủ 4 yếu tố: Có giao dịch; giao dịch phải được xác minh; giao dịch phải được lưu trữ trong các khối thông tin; các khối thông tin phải được mã hóa. Hash (băm) là một hàm toán học dùng để chuyển đổi giá trị này sang giá trị khác, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau để mã hóa dữ liệu với một mã số duy nhất. Đối với Blockchain, Hash là một phần không thể thiếu để đảm bảo sự hoàn chỉnh và tính bảo mật tuyệt đối của dữ liệu trong hệ thống. Ứng dụng Blockchain ngày nay xuất hiện tại nhiều lĩnh vực, trong đó có hoạt động ngân hàng với ứng dụng nổi bật là tiền mã hóa (điển hình nhất là Bitcoin). Blockchain có thể chuyển đổi giá trị tiền tệ trên toàn cầu cho bất kì đối tượng nào mà không cần sự xuất hiện của bên trung gian, đồng thời, Blockchain sẽ ghi lại tất cả các giao dịch với sự bảo mật cao và ổn định của mạng Internet.

2. Lợi ích của việc ứng dụng Blockchain trong hoạt động ngân hàng

Với đặc thù và chức năng của mình, việc ứng dụng Blockchain vào hoạt động ngân hàng mang lại những lợi ích nhất định, điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:

Một là, giảm chi phí điều hành và quản lý dữ liệu. Ứng dụng Blockchain vào hoạt động ngân hàng sẽ tạo ra cơ sở dữ liệu phân tán, chia sẻ và đồng bộ về quyền sở hữu bảo mật. Nó cũng đóng một vai trò đặc biệt khi có thể đơn giản hóa và tự động hóa gần như tất cả quy trình thanh toán hay phát hành các khoản vay1. Blockchain cũng cho phép thanh toán ngang hàng 24/7, từ đó tiết kiệm được phần lớn chi phí thanh toán, chi phí cơ sở hạ tầng và các khoản chi phí khác vì không cần thông qua quy trình có sự xuất hiện của bên trung gian hay bất cứ một bên thứ ba nào.


Hai là, bảo mật dữ liệu và hạn chế gian lận. Bằng việc mã hóa các thông tin, ứng dụng Blockchain cho thấy khả năng bảo mật vượt trội của mình so với cách lưu trữ dữ liệu truyền thống. Trước đây, khi lưu trữ dữ liệu không có ứng dụng Blockchain, thông tin rất dễ bị tin tặc đánh cắp, do vậy, tất cả các dữ liệu đã lưu trữ sẽ gặp rủi ro cao. Khác với cách lưu trữ dữ liệu truyền thống trước đây khi tất cả các máy trong hệ thống được kết nối với một máy chủ trung tâm và máy chủ trung tâm sẽ làm nhiệm vụ quản lý dữ liệu, ứng dụng Blockchain hoạt động theo công nghệ sổ cái phân tán. Điều này nghĩa là không tồn tại một máy chủ trung tâm nào cả, các máy trong hệ thống đều sẽ có quyền truy cập vào tất cả dữ liệu, giúp ngăn chặn những thiệt hại xảy ra khi bị tin tặc xâm nhập vào hệ thống. Tính ẩn danh và bảo mật cao kết hợp với khả năng mã hoá thông tin thành mật mã của Blockchain giúp lưu trữ được khối lượng dữ liệu khổng lồ, qua đó, các ngân hàng có thể được phép xem bất kì dữ liệu trên mạng sổ cái phân tán mà các ngân hàng khác nhập vào. Như vậy, ứng dụng Blockchain ngoài việc đảm bảo bảo mật dữ liệu thì còn hạn chế được sự sai sót, giảm rủi ro và gian lận trong các giao dịch vì ngân hàng có thể nhanh chóng thu được dữ liệu, thông tin cần thiết của khách hàng mà không phải thông qua bên thứ ba, đồng thời, người dùng sẽ được toàn quyền kiểm soát tài sản và các giao dịch của họ. Hơn nữa, mỗi máy trong hệ thống đều sẽ có quyền quản lý, kiểm soát dữ liệu như nhau thay vì chỉ có một máy chủ như cách truyền thống trước đây.

Ba là, cải thiện tốc độ giao dịch. Theo cách truyền thống trước đây, ngân hàng có thể mất hàng giờ đồng hồ để giải quyết một giao dịch, trải qua nhiều bước rườm rà để xác nhận giao dịch thành công. Ngày nay, khi khoa học, công nghệ phát triển, ứng dụng Blockchain xuất hiện giúp thực hiện giao dịch liên ngân hàng thành công chỉ trong vài giây. Các giao dịch cũng có độ chính xác gần như tuyệt đối với hệ thống kỹ thuật số, mã hóa thông tin mà không thông qua bên trung gian nào vì dữ liệu của Blockchain luôn có sẵn và kịp thời do hoạt động bằng công nghệ sổ cái phân tán, không có nguồn trung tâm, mạng lưới được phân phối ở tất cả các máy trong hệ thống. Một trong những sản phẩm kỹ thuật số lớn nhất được tạo ra bởi Blockchain là tiền ảo, là bước đệm cho các giao dịch không có sự can thiệp của bên thứ ba hoặc cơ quan trung ương. Mỗi nút đều sẽ được tham gia và có quyền truy cập, quản lý như nhau nên việc truy cập sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn khi thông qua máy chủ như trước đây. Blockchain ngoài việc cải thiện tốc độ giao dịch, không cần qua trung gian, nó còn giúp giảm thiểu rủi ro bảo mật dữ liệu, chi phí và cơ sở hạ tầng cho các ngân hàng, từ đó tính hiệu quả luôn được đảm bảo trong tất cả các giao dịch, đặc biệt là các giao dịch tín dụng.

Bốn là, đảm bảo tính bất biến về thông tin lưu giữ. “Bất biến” ở đây đề cập đến một vấn đề nào đó mang đặc điểm không thay đổi theo thời gian. Đối với ứng dụng công nghệ Blockchain, tính bất biến thể hiện trong việc khi một thông tin đã được đưa vào khối thì việc tiếp theo sẽ là mã hóa chứ không có bước chỉnh sửa sau đó. Chúng ta không thể sửa chữa các thông tin đã đưa vào mà chỉ được bổ sung khi có sự chấp thuận của tất cả người dùng trong mạng lưới, đồng nghĩa dữ liệu là vĩnh viễn. Vì mỗi khối sẽ được xác định bằng giá trị băm và mỗi khối sau sẽ có giá trị băm của khối trước, việc thay đổi dữ liệu của một băm thì giá trị băm của khối trước và sau nó không còn khớp với nhau nữa. Đồng thời, dữ liệu được lưu trữ trong khối cũng không thể bị phá hủy hay hư hỏng. Khi có sự bổ sung dữ liệu, sự thay đổi đó cũng sẽ được lưu lại một cách công khai, mọi người dùng đều biết được về dấu vết đó vì không thể xóa bỏ. Tóm lại, dữ liệu bất biến được tạo nên từ công nghệ sổ cái phân tán và mật mã. Tính bất biến của Blockchain chính là sự nổi bật để phân biệt công nghệ ứng dụng Blockchain với các cách làm truyền thống trước đây, khi có sự can thiệp của công nghệ này thì mọi thứ đều gần như tuyệt đối.

Năm là, truy xuất nguồn gốc và tính minh bạch. Truy xuất nguồn gốc là việc theo dõi và tìm nguồn gốc, xác minh xuất xứ, lịch sử của các hoạt động giao dịch, lưu trữ dữ liệu trong hệ thống. Vì ứng dụng Blockchain hoạt động dựa trên công nghệ sổ cái phân tán và mang đặc trưng bất biến nên tất cả các giao dịch, hoạt động đều được lưu trữ trên hệ thống và không thể xóa bỏ, do đó việc truy xuất nguồn gốc là vô cùng dễ dàng. Đồng thời, tính minh bạch cũng được thể hiện rõ nét và đạt được mức độ cao vì việc ứng dụng công nghệ Blockchain sẽ đúng tuyệt đối trong quá trình truy xét nguồn gốc tại các sổ cái phân tán và cũng không thể có sự nhầm lẫn trong mọi hoạt động khi thực hiện khóa các khối; toàn bộ quyền truy cập, bổ sung, lịch sử đều sẽ được hiển thị công khai. Đây là công nghệ được ứng dụng rất nhiều trong các lĩnh vực mạng lưới chuỗi cung ứng.

Sáu là, thiết lập được “hợp đồng thông minh”. Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Việc thực hiện hợp đồng truyền thống cũng thường xuyên xảy ra các tranh chấp, hiểu lầm và thiếu sự tin cậy giữa các bên. “Hợp đồng thông minh” ra đời để giải quyết những vấn đề này bằng cách tạo ra một hợp đồng an toàn, tự động hóa các thỏa thuận và hoàn toàn bảo mật trong việc thực hiện các giao dịch. Trong Blockchain, “hợp đồng thông minh” được xây dựng là một chương trình tính toán, tự thi hành mà không cần đến bên trung gian và được viết bằng ngôn ngữ lập trình đặc biệt như Sodility (cho Ethereum) hoặc Vyper. “Hợp đồng thông minh”sẽ được kích hoạt khi thực hiện một giao dịch trên Blockchain, sau khi kích hoạt, nó sẽ thực hiện các điều kiện đã định nghĩa ngay từ đầu trong chương trình. “Hợp đồng thông minh” là một công nghệ mới nhưng đầy tiềm năng đối với lĩnh vực pháp lý và tài chính vì nó tạo ra những thỏa thuận mà không cần sự xuất hiện của bên trung gian, giảm thiểu chi phí và thời gian cho các bên. Ngoài ra, nó còn cung cấp môi trường an toàn, bảo mật tuyệt đối trên nền tảng công khai các giao dịch khi hoạt động dựa trên nền tảng Blockchain.

3. Thực trạng ứng dụng Blockchain trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam

Hiện nay, tại Việt Nam, Blockchain được ứng dụng trong hoạt động của nhiều ngân hàng. Cụ thể, năm 2018, Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Công thương Việt Nam (VietinBank), NHTMCP Quốc tế (VIB), NHTMCP Tiên Phong (TPBank) đã thực hiện thử nghiệm chuyển tiền liên ngân hàng bằng Blockchain. TPBank chính là ngân hàng đầu tiên ứng dụng thành công chuyển tiền quốc tế qua Blockchain thông qua RippleNet từ đầu tháng 11/2019. Cũng trong năm 2019, HSBC Việt Nam đã áp dụng thực hiện thử nghiệm ứng dụng công nghệ Blockchain trong thanh toán quốc tế tại thị trường Việt Nam bằng giao dịch thư tín dụng (L/C). Tháng 12/2020, NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã tiên phong ứng dụng Blockchain trong phát hành thư tín dụng tới một ngân hàng thông báo ngoài hệ thống. Tháng 9/2021, NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) lần đầu tiên đã ứng dụng thành công công nghệ Blockchain trên nền tảng Ngân hàng số VCB Digibank và phát triển chương trình tri ân khách hàng cá nhân - Rewards tự động lưu trữ toàn bộ quá trình tích điểm và đổi quà trên VCB Digibank, khách hàng có thể chủ động tra cứu lịch sử tích điểm và thực hiện đổi quà.

Đến nay, các ngân hàng đã công bố ứng dụng công nghệ Blockchain trong giao dịch tài chính có thể kể đến như VietinBank, Vietcombank, NHTMCP Quân đội (MB), NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), NHTMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank)...

Tại Hội thảo “Cơ hội và thách thức ứng dụng Blockchain trong tài chính - ngân hàng” được Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Hiệp hội Blockchain Việt Nam tổ chức ngày 26/10/2022, TPBank đã đưa ra năm định hướng ứng dụng công nghệ Blockchain là: Xác minh danh tính kỹ thuật số, giao dịch liên ngân hàng, mua bán tài sản, tín dụng, cho vay về tài chính thương mại. Những định hướng này cho thấy tiềm năng phát triển to lớn của công nghệ Blockchain trong lĩnh vực ngân hàng, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí, với ưu điểm vượt trội đã thu hút nhiều ngân hàng tham gia thí điểm để đạt được mục tiêu. Do đó, các ngân hàng thương mại đã sớm nghiên cứu Blockchain như một giải pháp công nghệ trong hoạt động ngân hàng.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mang lại, việc ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng cũng tồn tại một số hạn chế, thể hiện qua các khía cạnh sau:

Một là, chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh. Thách thức chủ yếu của việc ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng là về mặt pháp lý. Hiện nay, vì chưa được quy định cụ thể ở bất kì luật nào nên việc triển khai công nghệ Blockchain tại các ngân hàng thương mại vẫn chỉ mang tính chất thí điểm để đánh giá công nghệ. Do không có khung pháp lý rõ ràng ở Việt Nam về Blockchain nên công nghệ này vẫn chưa đủ mạnh và an toàn để thu hút nhiều chuyên gia nghiên cứu, dẫn đến mức độ am hiểu về Blockchain vẫn còn hạn chế. Tính đến nay, chỉ có ba văn bản quy phạm pháp luật đề cập đến việc ứng dụng công nghệ Blockchain là Quyết định số 2117/QĐ-TTg ngày 16/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục công nghệ ưu tiên nghiên cứu, phát triển và ứng dụng để chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, cả ba văn bản trên đều chỉ mới đề cập, giới thiệu liệt kê, khuyến khích phát triển ứng dụng Blockchain trong hoạt động công nghệ số, chưa có một thông báo cụ thể hay khung pháp lý rõ ràng, dẫn đến việc đảm bảo về khung pháp lý của hoạt động này vẫn còn rất mơ hồ.

Hai là, đi kèm với những lợi ích của công nghệ Blockchain là chi phí nghiên cứu, đầu tư hạ tầng cao. Những yêu cầu về tích hợp, chuyển đổi công nghệ Blockchain phải đồng bộ với hệ thống cơ sở hạ tầng khác, đòi hỏi sự đầu tư về thời gian, chi phí để đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh và tính bảo mật, an toàn thông tin trong nghiệp vụ. Chính sách hoạt động và phát triển Blockchain vẫn phụ thuộc vào Nhà nước nên khi chưa có sự đảm bảo về pháp luật thì đây vẫn là một lĩnh vực đầy rủi ro để thu hút các nhà đầu tư.

Ba là, tồn tại nhiều thách thức trong việc phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ thử nghiệm, nghiên cứu và phát triển gắn với với tình huống cụ thể. Từ việc không đảm bảo an toàn và lợi ích của các chủ thể tham gia dẫn đến nhiều rủi ro có thể xảy ra. Việc phát triển nguồn nhân lực cũng gặp nhiều khó khăn, còn thiếu nhiều chuyên gia tham gia nghiên cứu, phát triển vì bản chất Blockchain trong hoạt động ngân hàng chỉ là công cụ hỗ trợ, con người vẫn là chủ thể tạo ra giá trị để phục vụ khách hàng. Nguyên lý hoạt động của Blockchain nổi tiếng với tính ổn định, nghĩa là không thể sửa đổi bất kì dữ liệu nào nếu đã được nhập. Tính năng này vừa là ưu điểm nhưng cũng là một nhược điểm rất khó để cải thiện nếu không có một đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp và đầy đủ chuyên môn để đảm bảo dữ liệu khi được nhập vào là đúng và chuẩn xác nhất.

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng Blockchain trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam

Để có thể nâng cao hiệu quả ứng dụng Blockchain vào hoạt động ngân hàng, trên cơ sở khắc phục được những vấn đề còn hạn chế, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, cần bổ sung cơ sở và khung pháp lý quy định chi tiết về hoạt động của Blockchain trong các hoạt động nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Thực tế hiện nay, một số ngành, nghề đã ứng dụng Blockchain trong quy trình hoạt động nhưng không đòi hỏi cần thay đổi khung pháp lý. Cụ thể như lĩnh vực nông nghiệp với việc truy xuất nguồn gốc nông sản, lĩnh vực y tế với việc truy xuất nguồn gốc bệnh án, hóa đơn điện tử... Tuy nhiên, đối với hoạt động ngân hàng, vì đây là một lĩnh vực mang nhiều tính rủi ro và kéo theo rất nhiều lĩnh vực khác nên cần một khung pháp lý rõ ràng, minh bạch để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể tham gia. Theo đó, cần phải bổ sung cơ sở pháp lý về Blockchain và tiền mã hóa, đây là hai hình thái có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Cần đưa ra những điều luật chi tiết quy định để thực hiện cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox) cho Blockchain. Cần tăng cường tổ chức các tọa đàm, hội thảo để nâng cao nhận thức, kiến thức về việc ứng dụng công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, cần phải quy định chi tiết, đầy đủ các khái niệm về Blockchain như “bảo mật trong Blockchain”, quy định về “lưu trữ thông tin”, “tính bất biến”, “mã hóa thông tin”... Ngoài việc xác định khung pháp lý thì việc quy định chi tiết các thuật ngữ và quy trình thực hiện công nghệ Blockchain trong hoạt động ngân hàng cũng là điều vô cùng cần thiết. Muốn hoạt động ứng dụng Blockchain trong lĩnh vực ngân hàng có hiệu quả lâu dài thì việc xây dựng nền tảng khung pháp lý và xây dựng những quy định chi tiết là vô cùng quan trọng để thực hiện và chấp hành pháp luật, giúp thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ này.

Hai là, tiếp tục tăng cường, nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, tổ chức và cộng đồng về sự phát triển của công nghệ Blockchain cũng như những lợi ích của việc ứng dụng công nghệ này vào hoạt động ngân hàng. Khi nhận thức được nâng cao sẽ là nền tảng để mọi người biết đến và sử dụng công nghệ này nhiều hơn trong các hoạt động liên quan đến lĩnh vực ngân hàng. Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm nhằm giúp các chủ thể có cái nhìn bao quát về xu thế phát triển của Blockchain, cách vận dụng công nghệ mới này nhằm tối ưu hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh trong hoạt động ngân hàng cũng như vận hành, tổ chức một cách hiệu quả trên cơ sở hạn chế những rủi ro có thể phát sinh.

Ba là, cần xem xét, xây dựng những cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể, thiết thực cho các ngân hàng trong việc đầu tư và ứng dụng công nghệ Blockchain; xem xét việc thành lập cơ sở đào tạo, cấp chứng chỉ về Blockchain để bước đầu tạo ra hệ sinh thái cho công nghệ này. Xây dựng chính sách đãi ngộ, góp phần hỗ trợ các ngân hàng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng được nhu cầu về Blockchain trong bối cảnh hiện nay. Việc đảm bảo nguồn nhân lực đầy đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng là rất cần thiết bởi đây là yếu tố cốt lõi nền tảng để giúp vận hành hiệu quả công nghệ Blockchain trên thực tế. Đồng thời, cần đưa ra các chế tài để răn đe và xử phạt đối những thành phần lợi dụng công nghệ Blockchain để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Bốn là, các ngân hàng cần đầu tư và chuẩn bị đầy đủ nền tảng cần thiết để nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ Blockchain vào các hoạt động nghiệp vụ của mình. Theo đó, các ngân hàng cần thiết lập nền tảng ứng dụng Blockchain nhằm mang lại các giá trị thiết thực trong quá trình sử dụng và giải quyết những nhu cầu thiết yếu trong công việc. Phải tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực cho việc ứng dụng Blockchain vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng là căn cứ để các ngân hàng bước đầu áp dụng hợp đồng thông minh, góp phần minh bạch quá trình quản lý và bảo mật dữ liệu khi sử dụng hệ sinh thái Blockchain. Cùng với đó, việc đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng tương xứng với việc ứng dụng Blockchain sẽ là chìa khóa căn bản để có thể vận hành tốt công nghệ này vào các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng.

5. Kết luận

Nhìn chung, Blockchain đã và đang mang đến nhiều lợi ích trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, hoạt động Blockchain còn kém sôi nổi vì chưa được pháp luật bảo hộ, đồng thời, nhận thức của người dân về thuật ngữ “Blockchain” vẫn còn khá xa lạ, chưa có nhiều chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực này. Mặc dù chưa có một khung pháp lý nào quy định nhưng việc ứng dụng Blockchain đã được thí điểm ở nhiều ngân hàng, cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này. Trong tương lai, để các ứng dụng của Blockchain phát triển đúng định hướng trong hoạt động ngân hàng, các bên liên quan cần nâng cao nhận thức, có các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ, nâng cao năng lực công nghệ; đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm bảo phát triển công nghệ Blockchain nhanh và bền vững.

1 Nguyễn Thị Ánh Ngọc (2023), “Blockchain và ứng dụng trong hoạt động tài chính - ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng, https://tapchinganhang.gov.vn/blockchain-va-ung-dung-trong-hoat-dong-tai-chinh-ngan-hang.htm

Tài liệu tham khảo:

1. Hồng Anh (2022), “Thúc đẩy ứng dụng Blockchain trong hoạt động ngân hàng”, Báo Nhân dân, https://nhandan.vn/thuc-day-ung-dung-blockchain-trong-hoat-dong-ngan-hang-post723515.html

2. Huyền Trang (2023), “Blockchain đang tự giải ‘tiếng oan’”, Doanh nhân trẻ, truy cập ngày 25/7/2024, https://doanhnhantrevietnam.vn/blockchain-dang-tu-giai-tieng-oan-d18851.html

3. Minh Phương (2022), “Blockchain đã và đang dần trở thành cột trụ cho công nghệ ở Việt Nam”, https://dangcongsan.vn/kinh-te/blockchain-da-va-dang-dan-tro-thanh-cot-tru-cho-cong-nghe-o-viet-nam-622911.html

4. Nguyễn Thị Ánh Ngọc (2023), “Blockchain và ứng dụng trong hoạt động tài chính - ngân hàng”, https://tapchinganhang.gov.vn/blockchain-va-ung-dung-trong-hoat-dong-tai-chinh-ngan-hang.htm

5. Phan Đức Trung (2023), “Xu hướng ứng dụng blockchain trong lĩnh vực ngân hàng: Thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, số 1-2.

6. Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.

7. Quyết định số 2117/QĐ-TTg ngày 16/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục công nghệ ưu tiên nghiên cứu, phát triển và ứng dụng để chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

8. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

9. Quỳnh Lê (2022), “Cơ hội, thách thức ứng dụng Blockchain vào vận hành trong ngành tài chính - ngân hàng”, https://thitruongtaichinhtiente.vn/co-hoi-thach-thuc-ung-dung-blockchain-vao-van-hanh-trong-nganh-tai-chinh-ngan-hang-42856.html

10. Vũ Anh (2023), “Không gian phát triển mới với Blockchain”, Báo Đầu tư chứng khoán, https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/khong-gian-phat-trien-moi-voi-blockchain-post323459.html


Ths. Trần Linh Huân, Trần Nhật Vy

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Phát triển thị trường tài sản mã hóa trong tiến trình xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - tài chính khiến đồng nội tệ mất giá và niềm tin suy yếu, tiền mã hóa thường nổi lên như lựa chọn bảo toàn sức mua. Các cú sốc vĩ mô có thể đóng vai trò chất xúc tác thúc đẩy mở rộng hệ sinh thái tài sản mã hóa (hay tiền mã hóa).
Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Một số luận điểm về ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý tài sản tại ngân hàng

Trong ngành Ngân hàng, sự hội tụ của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo không chỉ nâng cao hiệu quả vận hành mà còn củng cố quản trị rủi ro từ việc số hóa hồ sơ đến dự báo biến động thị trường. Bài viết sau đây tập trung vào ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong quản lý tài sản tại ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và triển khai tiền kỹ thuật số bán lẻ của ngân hàng trung ương

Việc triển khai rCBDC cũng đặt ra nhiều thách thức, bao gồm nguy cơ phi trung gian hóa ngân hàng, yêu cầu về hạ tầng công nghệ an toàn và bảo mật cao, cũng như vấn đề niềm tin của công chúng. Bên cạnh đó, việc cho phép sử dụng rCBDC trong giao dịch xuyên biên giới có thể tiềm ẩn rủi ro đối với dòng vốn và ổn định tiền tệ quốc gia.
Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC), căn cước công dân (CCCD) là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng thực hiện chuyển đổi số hiệu quả đối với mỗi quốc gia. Việc tích hợp dữ liệu dân cư và dữ liệu ngân hàng mang lại nhiều lợi ích cho cả hệ thống quản lý nhà nước và dịch vụ tài chính - ngân hàng, từ cải thiện tính chính xác trong xác thực, đến nâng cao trải nghiệm khách hàng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế số.
Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Ứng dụng Blockchain trong quản lý và xác thực danh tính số tại ngân hàng

Blockchain không chỉ là một công nghệ hỗ trợ mà còn có thể trở thành hạ tầng cốt lõi cho quá trình chuyển đổi số ngành tài chính - ngân hàng. Trong một thế giới mà giao dịch được thực hiện từ xa, khách hàng không cần đến quầy giao dịch và mọi dữ liệu đều có thể được xác minh tức thời, thì danh tính số là “chìa khóa” mở ra toàn bộ hệ sinh thái tài chính kỹ thuật số.
“Bẫy năng suất AI”: Khi công nghệ thông minh tạo ra áp lực vô tận

“Bẫy năng suất AI”: Khi công nghệ thông minh tạo ra áp lực vô tận

Bài viết này sẽ phân tích chi tiết “bẫy năng suất AI”, từ cơ chế hoạt động và các biểu hiện thực tế trong môi trường doanh nghiệp đến những tác động tâm lý và xã hội mà nó gây ra. Mục tiêu là làm rõ lý do tại sao một công nghệ được thiết kế để giảm tải công việc lại có thể tạo ra những áp lực mới đối với người lao động, và tại sao nhận thức về nghịch lý này lại quan trọng đối với tương lai công việc trong thời đại AI.
Bảo đảm an toàn khi cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trong thời đại số

Bảo đảm an toàn khi cung cấp và sử dụng dịch vụ ngân hàng trong thời đại số

Trước xu hướng gia tăng tội phạm công nghệ với những thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, khó lường, để bảo đảm an toàn trong cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số, bên cạnh sự nỗ lực của ngành Ngân hàng cần sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan trong công tác an ninh, an toàn thông tin và phòng, chống lừa đảo qua mạng; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên không gian mạng.
Trung tâm dữ liệu xanh: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam

Trung tâm dữ liệu xanh: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam

Trên thế giới, phát triển các trung tâm dữ liệu xanh đã và đang trở thành xu hướng chung, nhất là ở các nước phát triển; trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng từng bước định hình và khuyến khích phát triển năng lượng xanh cho các trung tâm dữ liệu của mình…
Xem thêm
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô