Tín dụng bất động sản hướng đến đáp ứng nhu cầu thực về nhà ở

Thị trường tài chính
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực bất động sản, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, bảo đảm tính pháp lý, các dự án có khả năng hoàn thành, sớm đi vào sử dụng, có khả năng tiêu thụ tốt, trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực về nhà ở.
aa

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực bất động sản, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, bảo đảm tính pháp lý, các dự án có khả năng hoàn thành, sớm đi vào sử dụng, có khả năng tiêu thụ tốt, trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực về nhà ở.

Cho vay thị trường bất động sản phải dựa trên nguyên tắc an toàn


Liên quan đến tín dụng bất động sản, tại phiên chất vấn sáng 11/11/2024 trong chương trình Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, việc các ngân hàng cấp tín dụng vào lĩnh vực nào, tỉ lệ bao nhiêu hoàn toàn phụ thuộc vào sự quyết định của từng ngân hàng, dựa trên cơ sở nguồn vốn huy động. Mỗi ngân hàng huy động vốn của người dân để cho vay, huy động với những kỳ hạn khác nhau. Do đó, khi cấp tín dụng bất động sản - tín dụng trung dài hạn thì các ngân hàng phải cân đối nguồn vốn. Hiện nay, phần lớn các khoản cho vay trung và dài hạn tập trung trong lĩnh vực bất động sản. Trong khi đó, toàn hệ thống ngân hàng, tiền gửi huy động khoảng 80% là vốn ngắn hạn, nên khả năng cho vay thị trường bất động sản phải dựa trên nguyên tắc an toàn, để bảo đảm khi người dân rút tiền thì các ngân hàng có khả năng chi trả.

Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, NHNN đã chỉ đạo các ngân hàng thương mại (NHTM) nâng cao chất lượng tín dụng, trong đó kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (trong đó có bất động sản, chứng khoán...). NHNN có những quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như: Giới hạn cho vay; trọng số rủi ro; an toàn hoạt động. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 1 Thông tư số 08/2020/TT-NHNN ngày 14/8/2020 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tỉ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của các ngân hàng chính thức giảm từ ngày 01/10/2023 chỉ còn 30%. Trong dài hạn, với chủ trương lành mạnh hóa hoạt động tín dụng và bảo đảm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, việc áp dụng quy định này được kỳ vọng sẽ giúp các ngân hàng kiểm soát tốt hơn rủi ro thanh khoản, ổn định hoạt động trước những thay đổi trong và ngoài nước, đồng thời thúc đẩy phát triển nền kinh tế bền vững.



Ảnh minh họa; Nguồn: Internet

Ngoài ra, NHNN cũng đã yêu cầu các NHTM ban hành quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý vay đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số phân khúc rủi ro như phân khúc có tỉ lệ đầu cơ lớn… để bảo đảm an toàn hệ thống. Còn đối với tín dụng phục vụ mục đích chính đáng của người mua nhà đều được bảo đảm công bằng như các lĩnh vực khác.

Theo NHNN, đến cuối tháng 8/2024, dư nợ tín dụng bất động sản tăng 9,15% so với cuối năm 2023. Đến cuối tháng 9/2024, dư nợ tín dụng bất động sản tăng trên 11% so với cuối năm 2023, chiếm trên 21% tổng dư nợ nền kinh tế, trong đó chiếm tỉ trọng lớn là tín dụng bất động sản phục vụ mục đích tự sử dụng (chiếm 58,85% dư nợ tín dụng bất động sản, tăng 5,97% so với cuối năm 2023). Như vậy, tín dụng cho nhu cầu thực như mua nhà để ở, sửa chữa nhà… của người dân vẫn chiếm tỉ trọng cao.

Thị trường bất động sản nhà ở quý III/2024 ghi nhận những dấu hiệu thể hiện sự “tăng nhiệt" cả ở phân khúc đất nền và phân khúc căn hộ chung cư. Nguồn cung quý III/2024 sôi động hơn nhờ sự xuất hiện một số
dự án mới. Một số ý kiến cho rằng, thị trường náo nhiệt hơn không hoàn toàn do cầu phục hồi, mà một phần do đầu cơ tạo nhiệt. Đây cũng là lý do khiến cầu vay mua nhà của cá nhân tăng mạnh hơn so với 6 tháng đầu năm, song vẫn ở mức thấp. Thực tế, cũng có một tỉ lệ không nhỏ người dân e ngại vay mua nhà còn bởi giá nhà leo thang dù lãi suất cho vay được nhiều NHTM điều chỉnh giảm.

Từ đầu tháng 11/2024, lãi suất cho vay mua nhà duy trì ở mức từ 4,6 - 9,5%/năm. Sau thời gian ưu đãi, lãi suất thả nổi cho các khoản vay đã ký trước đó tại nhiều ngân hàng thường vượt mức 11,7%/năm. Chẳng hạn, tại NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, khách hàng được hưởng lãi suất ưu đãi 5,2%/năm trong 6 tháng đầu hoặc 6%/năm trong 24 tháng đầu. Sau thời gian ưu đãi, lãi suất thả nổi sẽ được tính theo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng cộng thêm biên độ 4%. Bên cạnh đó, NHTM cổ phần Công thương Việt Nam cung cấp các gói vay xây dựng và sửa chữa nhà với mức lãi suất cố định như sau: 6%/năm trong 12 tháng đầu; 6,5%/năm trong 18 tháng đầu; 6,7%/năm trong 24 tháng đầu, và 8,2%/năm trong 36 tháng đầu. NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam cũng đưa ra các gói vay mua nhà với mức lãi suất hấp dẫn: Từ 5,5%/năm cho 6 tháng đầu đối với khoản vay dưới 24 tháng; từ 5,7%/năm cho 12 tháng đầu với khoản vay trên 24 tháng; và 6,5%/năm cố định trong 2 năm đầu tiên.

Cho vay nhà ở xã hội còn những “rào cản”

Đối với cho vay nhà ở xã hội, triển khai chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngân hàng đã triển khai tích cực Chương trình 120.000 tỉ đồng cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ. NHNN đã ban hành công văn hướng dẫn các nội dung chính về lãi suất, thời gian ưu đãi để bảo đảm triển khai thống nhất cho các NHTM và các khách hàng thuộc đối tượng vay vốn; Chương trình triển khai từ ngày 01/4/2023 bằng nguồn lực của các NHTM, có tính chất dài hạn và được triển khai tối đa đến năm 2030 (hoặc kết thúc sớm hơn nếu doanh số giải ngân đạt 120.000 tỉ đồng). Hiện nay, ngoài 4 NHTM Nhà nước, các NHTM khác như: NHTM cổ phần Tiên Phong, NHTM cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh và
NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam cũng đăng ký tham gia Chương trình với số tiền 25.000 tỉ đồng (mỗi ngân hàng là 5.000 tỉ đồng).

Về lãi suất cho vay hỗ trợ: Mức lãi suất thấp hơn từ 1,5% đến 2% so với lãi suất cho bình quân trung, dài hạn bằng VND của 4 NHTM Nhà nước trong từng thời kỳ; định kỳ 6 tháng, NHNN thông báo lãi suất cho vay trong thời gian hỗ trợ cho các NHTM. Sau 2 lần điều chỉnh, lãi suất hiện nay đang áp dụng là 7%/năm đối với chủ đầu tư và 6,5%/năm đối với người mua nhà (áp dụng cho giai đoạn từ ngày 01/7/2024 đến ngày 31/12/2024), giảm 1% so với kỳ công bố trước đây. Thời gian áp dụng lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư là 3 năm, đối với người mua nhà là 5 năm.

Trong năm 2023 - 2024, NHNN đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo NHNN chi nhánh, TCTD tiếp tục quán triệt, thực hiện nội dung chỉ đạo tại các Nghị quyết của Chính phủ, Chỉ thị, Công điện của Thủ tướng Chính phủ và công văn chỉ đạo của Thống đốc NHNN về triển khai và đẩy mạnh Chương trình. Mới đây, NHNN đã đề xuất Chính phủ cho phép điều chỉnh nâng mức giảm lãi suất cho vay đối với người mua nhà từ 2% lên 3% trong 5 năm đầu cho vay, 5 năm tiếp theo áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn từ 1% đến 2% so với lãi suất cho vay bình quân trung dài hạn bằng VND của 4 NHTM Nhà nước.

Theo NHNN, đến nay, có 35/63 UBND tỉnh, thành phố gửi văn bản tới NHNN và Bộ Xây dựng hoặc công bố công khai trên cổng thông tin điện tử với 84 dự án thuộc danh mục vay vốn Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ. Doanh số giải ngân của Chương trình đạt 1.629 tỉ đồng bao gồm: 1.511 tỉ đồng cho chủ đầu tư tại 14 dự án; 118 tỉ đồng cho người mua nhà tại 11 dự án.

Thực tế, có một số khó khăn, vướng mắc khiến kết quả triển khai Chương trình chưa được như kỳ vọng. Trước hết, về nguồn cung nhà ở xã hội còn hạn chế do: (i) Số lượng căn nhà theo Đề án 1 triệu căn nhà ở xã hội được hoàn thành tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2025 - 2030; (ii) Một số dự án chưa giải phóng xong mặt bằng, chưa hoàn thiện chủ trương đầu tư; (iii) Nhiều địa phương chưa ban hành Kế hoạch triển khai Đề án 1 triệu căn nhà ở xã hội bảo đảm hoàn thành mục tiêu đề ra và chưa đưa các chỉ tiêu phát triển nhà ở (đặc biệt là chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân) vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm; (iv) Các quy định pháp luật trước kia về nhà ở và kinh doanh bất động sản đã phát sinh bất cập liên quan đến nhà ở xã hội (thủ tục đầu tư nhà ở xã hội kéo dài hơn so với các dự án bất động sản thông thường, nhiều vướng mắc pháp lý về đất đai, thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng nhà ở xã hội) trong khi lợi nhuận đầu tư nhà ở xã hội thấp nên cũng chưa thu hút đầu tư nhà ở xã hội.

Trong khi đó, một số dự án đủ điều kiện đưa vào danh mục của Chương trình đã chủ động được nguồn vốn (qua tiếp cận được tín dụng thương mại thông thường, huy động được vốn của người mua nhà và các nguồn vốn khác).

Về phía nhu cầu mua nhà, người có nhu cầu về nhà ở xã hội năng lực tài chính còn hạn chế, khả năng trả nợ chưa cao do thu nhập thấp, trong bối cảnh kinh tế khó khăn; người mua không có nhiều lựa chọn đối với nhà ở xã hội phù hợp với nhu cầu của mình.

Bên cạnh đó, nhà ở tại các khu công nghiệp cần phù hợp với đặc điểm lao động của công nhân thường là không ổn định trong dài hạn, vì vậy, xây dựng nhà ở xã hội để bán thì có khả năng khó tiêu thụ hơn đối với công nhân do đó khó cho vay đối với các đối tượng này.

Kiểm soát rủi ro cấp tín dụng đối với kinh doanh bất động sản có tính đầu cơ

Thời gian tới, nhằm hỗ trợ cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, bền vững, đồng thời bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng, cung ứng vốn đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng; tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan tới cho vay; rà soát và phối hợp với các bộ, ngành để hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển bền vững, đồng thời kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD. NHNN tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các công cụ chỉ số an toàn vĩ mô đối với lĩnh vực bất động sản phù hợp với tình hình hiện tại; tăng cường công tác thanh tra, giám sát các TCTD có tỉ trọng cho vay bất động sản lớn trong tổng dư nợ tín dụng của TCTD, tỉ lệ cho vay bất động sản tăng nhanh, có mức độ tập trung tín dụng vào các dự án bất động sản lớn, các doanh nghiệp và người có liên quan.

Đồng thời, NHNN tiếp tục chỉ đạo TCTD: (i) Kiểm soát rủi ro cấp tín dụng đối với phân khúc bất động sản cao cấp đang dư thừa nguồn cung; kinh doanh có tính đầu cơ, làm giá, lũng đoạn thị trường; kiểm soát mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, khách hàng có liên quan đến cổ đông lớn, người có liên quan của cổ đông của TCTD... bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng; (ii) Tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực bất động sản, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, bảo đảm tính pháp lý, các dự án có khả năng hoàn thành, sớm đi vào sử dụng, có khả năng tiêu thụ tốt, trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực về nhà ở; (iii) Tiết giảm chi phí hoạt động, thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng tín dụng, không nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh.

Song song với đó, các bộ, ngành có liên quan cần triển khai, thực hiện hiệu quả các chính sách, pháp luật liên quan lĩnh vực bất động sản mới được ban hành như Luật Đất đai năm 2024, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023, Luật Các TCTD năm 2024... và các văn bản quy định chi tiết.

Bộ Xây dựng cần phối hợp chính quyền các địa phương và các cơ quan liên quan hoàn thiện quy định liên quan đến đấu giá quyền sử dụng đất bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, theo hướng: Tăng tiền đặt cọc, xác định giá đất khởi điểm đem đấu giá sát tình hình thực tế khu vực, rút ngắn thời gian nộp tiền trúng đấu giá, hạn chế người tham gia đấu giá với mục đích đầu cơ. Cùng với việc nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, cần rà soát khâu tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án, triển khai thực hiện các dự án bất động sản, hoạt động kinh doanh bất động sản, từ đó, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo thẩm quyền, quy định của pháp luật. Song song với việc tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản, dịch vụ sàn giao dịch bất động sản, dịch vụ môi giới bất động sản... cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản.

Ở tầm vĩ mô, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan đánh giá hiệu quả của Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. Việc đánh giá nhằm mục đích có chính sách tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện Chương trình, đồng thời có chính sách thu hút nhiều hơn các NHTM tham gia.

Đối với nguồn vốn cho thị trường bất động sản, về lâu dài, cần đa dạng nguồn vốn cho thị trường này. Các NHTM đang gặp khó khăn về cơ cấu kỳ hạn khi các dự án bất động sản thường kéo dài 5 - 10 năm, trong khi vốn huy động của các ngân hàng có tới 80% là ngắn hạn. Do đó, việc phát triển các kênh huy động vốn ngoài hệ thống ngân hàng như đầu tư tư nhân, quỹ tín thác bất động sản sẽ giúp gia tăng thêm nguồn vốn cho thị trường bất động sản Việt Nam để hỗ trợ cho các chính sách phát triển bất động sản trong tương lai.

Tài liệu tham khảo:


1. Thông tư số 08/2020/TT-NHNN ngày 14/8/2020 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15/11/2019 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.


Minh Thư

NHNN


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Lựa chọn mô hình và lộ trình phù hợp khi thành lập Sàn Giao dịch vàng tại Việt Nam

Lựa chọn mô hình và lộ trình phù hợp khi thành lập Sàn Giao dịch vàng tại Việt Nam

Với điều kiện và thực trạng thị trường tại Việt Nam, trước mắt, sàn giao dịch vàng vật chất có thể là lựa chọn phù hợp, trở thành kênh phân phối vàng nguyên liệu nhập khẩu đủ tiêu chuẩn, bảo đảm công khai, minh bạch, từ đó tạo niềm tin đối với các thành viên giao dịch trên sàn. Việc triển khai cần theo lộ trình thận trọng, trước mắt cần xây dựng Nghị quyết của Chính phủ về triển khai thí điểm Sàn giao dịch vàng tại Việt Nam.
Xác định phong cách đầu tư: Góc nhìn tài chính hành vi

Xác định phong cách đầu tư: Góc nhìn tài chính hành vi

Bài viết làm rõ phân loại nhà đầu tư, phong cách đầu tư tương ứng, đồng thời, phân tích ý nghĩa của việc xác định phong cách từ góc độ tài chính hành vi và trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm đánh giá về việc áp dụng các phong cách đầu tư làm gia tăng hiệu quả của danh mục, cũng như hiệu quả quản lý thị trường chứng khoán.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu

Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong bối cảnh bất định toàn cầu

Trong giai đoạn gần 5 năm vừa qua, Việt Nam vẫn giữ ổn định nền kinh tế, nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng, cho thấy khả năng chống chịu và thích ứng với biến động bên ngoài của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Bước đột phá quan trọng trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế

Đề án nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ là một dấu mốc kỹ thuật trong phân loại quốc tế, mà còn góp phần tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản ổn định, nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết, củng cố năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng, đồng thời cải thiện vị thế và hình ảnh quốc gia trên bản đồ tài chính toàn cầu.
Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Vai trò của giáo dục tài chính trong giảm thiểu rủi ro tài chính và phòng ngừa tín dụng đen

Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục tài chính là rất cần thiết nhằm nâng cao dân trí tài chính, giúp người dân hiểu rõ hơn về các kiến thức liên quan, tiếp cận công cụ tài chính an toàn, quản lý tài chính cá nhân hiệu quả và giảm thiểu rủi ro từ tín dụng đen và các hình thức lừa đảo, đặc biệt là lừa đảo trực tuyến.
Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Mô hình quản trị phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu tại tỉnh Hà Giang trước thời điểm sáp nhập và một số khuyến nghị

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một mô hình quản trị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Giang, giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính minh bạch, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới: Hàm ý đối với Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi xanh

Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon là cơ chế áp thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu vào EU, với mục đích bảo đảm rằng hàng hóa sản xuất bên ngoài EU không được hưởng lợi từ việc phát thải cao hơn tiêu chuẩn của EU, được đề xuất chính thức vào tháng 7/2021 và bắt đầu áp dụng thử nghiệm vào năm 2023, với việc triển khai toàn diện dự kiến từ năm 2026.
Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế

Bài viết này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò như một nền tảng khởi đầu, góp phần đặt ra vấn đề triển khai bước đầu cho cơ chế giao dịch đa tiền tệ tại Trung tâm tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn tiếp tục mở rộng đối thoại học thuật và thực tiễn, thu hút sự tham gia của cộng đồng nghiên cứu, giới chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng trao đổi, làm rõ và phát triển các yếu tố pháp lý - công nghệ - vận hành cần thiết cho việc hiện thực hóa cơ chế này trong thời gian tới.
Xem thêm
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô