Thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên: Phát triển về quy mô và chất lượng dịch vụ

Hoạt động ngân hàng
Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) có vai trò hết sức quan trọng đối với từng người dân, doanh nghiệp và đối với toàn bộ nền kinh tế.
aa



Cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh Thái Nguyên hướng dẫn dịch vụ thu hộ học phí qua ngân hàng

Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) có vai trò hết sức quan trọng đối với từng người dân, doanh nghiệp và đối với toàn bộ nền kinh tế. TTKDTM góp phần hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông hàng hóa, giảm thiểu chi phí xã hội, mở rộng không gian, rút ngắn thời gian cho quá trình mua, bán hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Đồng thời, phát triển các dịch vụ chuyên nghiệp về thu, chi, thẻ ngân hàng, thanh toán trực tuyến, thanh toán điện tử mà không làm thay đổi giá trị tiền mặt quy đổi. TTKDTM giúp cho nền kinh tế trở nên minh bạch hơn, góp phần vào chuyển đổi số; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tội phạm kinh tế; phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố…

TTKDTM tại Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ thời gian gần đây, với sự cạnh tranh sôi động về phát triển dịch vụ bán lẻ phi tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM), các công ty công nghệ hỗ trợ dịch vụ thanh toán và tổ chức trung gian thanh toán.

Năm 2021 là năm chuyển giao giữa hai giai đoạn phát triển TTKDTM tại Việt Nam theo Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025. Nhìn chung, hoạt động TTKDTM của nước ta đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản đạt được mục tiêu đề ra, thể hiện ở một số nội dung sau: (i) Khuôn khổ pháp lý và chính sách trong hoạt động thanh toán tiếp tục được hoàn thiện; (ii) Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả; (iii) Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống chuyển mạch, bù trừ tiếp tục được nâng cấp, hoàn thiện, hoạt động an toàn, hiệu quả và thông suốt; tiếp tục phát huy vai trò là hệ thống thanh toán xương sống của quốc gia; (iv) Thanh toán qua điện thoại di động và Internet phát triển mạnh; (v) Thanh toán điện tử khu vực dịch vụ công tiếp tục được triển khai rộng rãi.

1. Kết quả hoạt động TTKDTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thời gian qua

Nhận thức được vai trò của TTKDTM đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, bám sát chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thái Nguyên, NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 20/7/2018 về triển khai thực hiện Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công: Thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội; Kế hoạch số 55/KH-UBND ngày 27/4/2020 về thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; Kế hoạch số 55/KH-UBND ngày 30/3/2021 về thực hiện thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công: Thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Theo đó, NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn nghiên cứu chính sách phí phù hợp, các chương trình ưu đãi để khuyến khích các đơn vị cung ứng dịch vụ công và khách hàng sử dụng dịch vụ TTKDTM; phối hợp với các đơn vị chức năng, các đơn vị cung cấp dịch vụ công trong và ngoài địa bàn (Kho bạc, Hải quan, Thuế, Bảo hiểm xã hội; các cơ quan: Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Công ty Điện lực, Công ty cổ phần Nước sạch, Công ty Viễn thông...) ký kết thỏa thuận phối hợp để thực hiện đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công.

Hoạt động TTKDTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên những năm gần đây ngày càng phát triển cả về quy mô, chất lượng dịch vụ và trở nên gần gũi với doanh nghiệp, người dân, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19. Một số kết quả nổi bật trong phát triển TTKDTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên như sau:

Hạ tầng kỹ thuật, công nghệ phục vụ TTKDTM của các ngân hàng trên địa bàn

Đến nay, trên địa bàn có 34 chi nhánh cấp 1 của TCTD; 09 chi nhánh ngân hàng huyện, thành phố, thị xã trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 106 phòng giao dịch trực thuộc các ngân hàng có trụ sở trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

Cơ sở hạ tầng phục vụ TTKDTM gồm 275 ATM, gần 3.000 thiết bị chấp nhận thẻ (POS) được lắp đặt tại 2.015 địa điểm là các nhà hàng, khách sạn, siêu thị, trung tâm thương mại… thanh toán online qua Internet Banking, Mobile Banking, ví điện tử. Với số lượng trên 1.100.000 tài khoản cá nhân, trung bình mỗi người trưởng thành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 1,15 tài khoản thanh toán. Số lượng giao dịch không dùng tiền mặt trên địa bàn chiếm khoảng 80%/tổng số giao dịch.

Các ngân hàng trên địa bàn đã triển khai đồng bộ, phát triển các sản phẩm thanh toán mới với công nghệ ngân hàng số, công nghệ định danh và nhận biết khách hàng điện tử (eKYC) như xác thực sinh trắc học (vân tay, khuôn mặt); thanh toán trên nền mã phản hồi nhanh (QR Code), mã hóa thông tin thẻ, thanh toán phi tiếp xúc, thanh toán trên thiết bị di động (mPOS)… nghiên cứu tìm hiểu công nghệ Blockchain ứng dụng trong lĩnh vực thanh toán, ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) vào một số lĩnh vực ngân hàng… Tăng cường công tác thông tin và truyền thông nhằm tạo sự chuyển biến tích cực về TTKDTM trong nền kinh tế với mức tăng trưởng cao, giúp chu chuyển vốn nhanh, đảm bảo an toàn và giảm chi phí xã hội liên quan đến tiền mặt, đưa việc sử dụng các phương tiện TTKDTM trong xã hội thành thói quen của người dân ở khu vực đô thị và từng bước phát triển ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tiến tới minh bạch dòng tiền. Hệ thống thanh toán được vận hành ổn định, thông suốt; tình hình thanh khoản của các ngân hàng đảm bảo, phục vụ tốt nhu cầu thanh toán của người dân, doanh nghiệp.


Hiện nay, cơ sở hạ tầng phục vụ TTKDTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên gồm 275 ATM, gần 3.000 thiết bị chấp nhận thẻ (POS) được lắp đặt tại 2.015 địa điểm là các nhà hàng, khách sạn, siêu thị, trung tâm thương mại… Với số lượng trên 1.100.000 tài khoản cá nhân, trung bình mỗi người trưởng thành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 1,15 tài khoản thanh toán. Số lượng giao dịch không dùng tiền mặt trên địa bàn chiếm khoảng 80%/tổng số giao dịch.


Về thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công

Tính đến cuối năm 2021, 100% giao dịch nộp thuế của người nộp thuế được thực hiện qua ngân hàng (năm 2021, số tiền thu ngân sách Nhà nước của tỉnh Thái Nguyên là 16.750 tỷ đồng). Ngành Thuế đã tích cực triển khai chuyển đổi số trong công tác thu ngân sách, phối hợp với các ngân hàng để cung cấp dịch vụ nộp thuế điện tử, đồng thời, bổ sung hình thức cho phép người nộp thuế lập giấy nộp tiền điện tử vào ngân sách Nhà nước trực tiếp trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan Thuế và Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Kho bạc Nhà nước (KBNN) Thái Nguyên đã tham mưu cho UBND tỉnh Thái Nguyên ban hành văn bản chỉ đạo các đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước trên địa bàn dừng thu, chi tiền mặt trực tiếp tại trụ sở KBNN, chuyển sang giao dịch không dùng tiền mặt tại hệ thống NHTM kể từ ngày 01/6/2021, kết quả 100% chứng từ thu ngân sách được thực hiện qua hệ thống NHTM. KBNN phối hợp với các đơn vị đẩy mạnh việc thanh toán cá nhân qua tài khoản, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi tiền mặt, duy trì hoạt động ổn định các chương trình thanh toán, xử lý kịp thời các vướng mắc, sai sót qua quá trình trao đổi thông tin, thanh toán với hệ thống ngân hàng và trong nội bộ KBNN. Số khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt là 303.100/382.700 khách hàng, đạt 79,2% so với tổng số khách hàng; số tiền điện thu được từ TTKDTM đạt 743/771 tỷ đồng; chiếm 96,4% trên tổng số tiền thu được hàng tháng. Dịch vụ thanh toán tiền nước qua hệ thống ngân hàng và qua các tài khoản cá nhân của nhân viên thu ngân tiền nước được trên 12.000 hộ khách hàng sử dụng.

Bên cạnh đó, 100% các cơ sở giáo dục, đào tạo đã thực hiện thanh toán tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức qua tài khoản ngân hàng và đang triển khai thu hộ học phí cho trên 100 trường học trên địa bàn (trong đó có 50% trường đại học, cao đẳng và 20% trường phổ thông trung học đã thực hiện thu học phí qua ngân hàng). Đối với dịch vụ thanh toán tiền viện phí, 100% các bệnh viện trong tỉnh đã thực hiện chi trả lương cho cán bộ, công nhân viên qua tài khoản ngân hàng. 100% bệnh viện tuyến tỉnh nộp tiền viện phí thu được từ người khám, chữa bệnh qua tài khoản ngân hàng để nộp về KBNN. Đối với việc thu tiền viện phí từ người đến khám, chữa bệnh của các bệnh viện, cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, hiện nay, một số ngân hàng đã triển khai lắp đặt các thiết bị thanh toán thẻ (POS), mã QR Code tại các bệnh viện nhưng kết quả thanh toán tiền viện phí của người dân qua ngân hàng chưa cao, do phần lớn người đến khám, chữa bệnh là những người dân có thu nhập thấp hoặc ở vùng nông thôn chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Về dịch vụ chi trả an sinh xã hội: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chưa thực hiện chi trả các chương trình an sinh xã hội qua hệ thống ngân hàng. Bảo hiểm xã hội (BHXH) ủy quyền cho NHTM cổ phần Bưu điện Liên Việt thực hiện chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng, tuy nhiên, tỷ lệ trả lương qua tài khoản ngân hàng còn thấp, do đối tượng hưởng lương là những người cao tuổi, việc tiếp cận công nghệ hạn chế và vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt là chính. Theo cơ quan BHXH, trên địa bàn tỉnh có 76.381 đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng, trong đó, số tiền chi trả qua tài khoản ngân hàng chiếm 21,1%. Về chi trả trợ cấp thất nghiệp trên địa bàn, đến nay, có 82,01% số người hưởng được chi trả qua tài khoản với số tiền thanh toán qua ngân hàng chiếm 83,85% trên tổng số tiền chi trợ cấp thất nghiệp.

Dịch vụ thanh toán của các doanh nghiệp viễn thông

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, các doanh nghiệp viễn thông như VNPT, Mobifone và Viettel đang tích cực phát triển cài đặt và hỗ trợ sử dụng các dịch vụ ngân hàng số, thanh toán trên di động.

Dịch vụ VNPT Pay

VNPT đã cung cấp 50.758 tài khoản VNPT Pay và phát sinh giao dịch thường xuyên với 500 điểm chấp nhận thanh toán. Dịch vụ thanh toán qua VNPT Pay được sử dụng trong các giao dịch thanh toán cước viễn thông (đạt trên 90%); thanh toán mua sắm sim/thẻ điện thoại, vé máy bay và các hàng hóa mua sắm trực tuyến; thanh toán tiền điện; thanh toán học phí qua Hệ thống quản lý nhà trường VnEdu với trên 15.000 phụ huynh trên địa bàn.

Dịch vụ ViettelPay

Đến nay, Viettel Thái Nguyên đã cấp hơn 220.000 tài khoản ViettelPay, trong đó, số tài khoản có lịch sử giao dịch trong 06 tháng cuối năm 2021 là 120.000 và số tài khoản phát sinh giao dịch thường xuyên là 50.000 tài khoản. Số điểm giao dịch với hơn 10 cửa hàng giao dịch, 05 cửa hàng ủy quyền và hơn 2.000 điểm ViettelPay Pro hỗ trợ. Dịch vụ Viettel Pay được sử dụng trong các giao dịch như: Thanh toán tiền điện sinh hoạt hàng tháng cho trên 45.000 thuê bao; chi trả lương và phụ cấp cho người lao động trong doanh nghiệp với trên 80 doanh nghiệp cho trên 5.000 người lao động; chi trả lương và phụ cấp cho cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan hành chính cho 120 UBND cấp xã, phường với khoảng 10.000 cán bộ; chi trả lương và thu học phí cho 38 trường Trung học phổ thông và 03 trường Đại học.

Thí điểm dịch vụ thanh toán di động Mobile-Money

Tỉnh Thái Nguyên có tỷ lệ thuê bao di động đạt 95 thuê bao/100 người dân, trong đó, 79% là thuê bao Internet băng rộng di động (3G/4G/5G) và tỷ lệ phủ sóng di động 3G/4G/5G đạt 99% khu vực dân cư trên phạm vi toàn tỉnh. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, NHNN Việt Nam đã cấp phép cho 03 doanh nghiệp viễn thông là VNPT, Mobifone và Viettel cung cấp thí điểm dịch vụ Mobile-Money. Dịch vụ Mobile-Money cho phép khách hàng dùng tài khoản viễn thông để thực hiện nhiều giao dịch như thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ, chuyển tiền, nạp/rút tiền trực tiếp tại hệ thống cửa hàng, điểm giao dịch của các nhà mạng không yêu cầu phải có tài khoản ngân hàng, không yêu cầu phải sử dụng smartphone, không cần kết nối Internet. Hạn mức tối đa là 10 triệu đồng/tháng.

Cùng với các giải pháp TTKDTM của các ngân hàng, các dịch vụ VNPT Pay, Viettel Pay, Mobile-Money là những giải pháp hết sức thuận tiện, thiết thực và hiệu quả cho phép phổ cập dịch vụ TTKDTM đến tất cả người dân trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các đối tượng người dân chưa có tài khoản thanh toán ngân hàng hoặc cư trú, sinh hoạt ở vùng sâu, vùng xa.

2. Một số khó khăn và định hướng giải pháp thời gian tới

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động TTKDTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn còn gặp khó khăn, hạn chế như: Thói quen sử dụng tiền mặt của người dân còn phổ biến, nhất là ở địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tâm lý e ngại khi tiếp cận các công nghệ thanh toán mới; việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công chưa thật sự hiệu quả như dịch vụ thu hộ tiền học phí, viện phí và chi trả chương trình an sinh xã hội chưa cao…

Để phát triển hơn nữa TTKDTM trên địa bàn tỉnh, trong thời gian tới, NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên tập trung thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành, địa phương tham mưu cho UBND ban hành Kế hoạch phát triển TTKDTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 - 2025, là cơ sở đẩy mạnh hoạt động TTKDTM đối với dịch vụ công và chi trả an sinh xã hội, góp phần xây dựng Chính quyền số tỉnh Thái Nguyên theo tinh thần Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 31/12/2020 của Tỉnh ủy Thái Nguyên về Chương trình chuyển đổi số tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.

Thứ hai, chỉ đạo các TCTD mở rộng mạng lưới hoạt động tới vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán, dịch vụ TTKDTM, đáp ứng nhu cầu thanh toán một cách thuận tiện, hiệu quả của tổ chức, cá nhân. Áp dụng các chính sách miễn, giảm phí trong hoạt động thanh toán để gia tăng số lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ TTKDTM góp phần thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.

Thứ ba, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, đào tạo, hướng dẫn về TTKDTM, thanh toán điện tử tạo sự chuyển biến tích cực về TTKDTM trong nền kinh tế với mức tăng trưởng cao, đưa việc sử dụng các phương tiện TTKDTM trong xã hội thành thói quen của người dân ở khu vực đô thị và từng bước phát triển ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; giảm chi phí xã hội liên quan đến tiền mặt.

Thứ tư, vận động, khuyến khích các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ có các hình thức miễn, giảm phí, khuyến mãi, giảm giá... đối với khách hàng khi sử dụng các phương thức TTKDTM để thanh toán hàng hóa, dịch vụ.

Thứ năm, chỉ đạo các TCTD, trung gian thanh toán đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong TTKDTM, thanh toán điện tử đối với người sử dụng dịch vụ; phối hợp giải đáp thắc mắc, xử lý khiếu nại nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người

tiêu dùng.

TS. Bùi Văn Khoa

Giám đốc NHNN Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc