Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế - Nhìn lại năm 2024 và định hướng năm 2025

Nghiên cứu - Trao đổi
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6 - 6,5% và lạm phát khoảng 4 - 4,5% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế.
aa

Tăng trưởng tín dụng và công tác điều hành tín dụng ngân hàng trong năm 2024 diễn ra trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen. Các yếu tố tích cực đến từ xu hướng phục hồi của nền kinh tế với các động lực tăng trưởng chính như sản xuất công nghiệp, thu hút và giải ngân FDI, xuất khẩu, du lịch… đạt kết quả khả quan, lạm phát được kiểm soát phù hợp với mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, Việt Nam có độ mở lớn nên gặp nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chưa bền vững, rủi ro lạm phát vẫn hiện hữu, lãi suất USD giảm nhưng vẫn ở mức cao, đồng USD vẫn diễn biến phức tạp... Những khó khăn, thách thức này cộng hưởng với khó khăn, thách thức do thiên tai, bão lũ và các vấn đề còn tồn tại trước đó có tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng.

Trước tình hình đó, bám sát chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đã phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai quyết liệt nhiều giải pháp tín dụng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng, phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế và góp phần quan trọng vừa kiểm soát lạm phát ở mức thấp hơn mục tiêu đề ra, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao.

1. Triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế trong năm 2024

Thứ nhất, tiếp tục duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp trong năm 2024 để định hướng thị trường giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân

Đây là bước đi thể hiện sự chủ động của NHNN, phù hợp với diễn biến, tình hình trong và ngoài nước, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với kiểm soát lạm phát. Thực tế, mặt bằng lãi suất cho vay bình quân đối với những khoản mới ở mức khoảng 6,65%/năm, giảm 0,59%/năm bằng cả hệ thống, riêng 4 ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn nhà nước (Big 4) giảm khoảng 1% so với cuối năm 2023, trong khi lãi suất tiền gửi bình quân đối với những khoản mới là 4,03%/năm, tăng 0,71%/năm.

Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế - Nhìn lại năm 2024 và định hướng năm 2025
Trụ sở NHNN

Có thể nói, lãi suất tiền gửi tăng nhưng lãi suất cho vay giảm cho thấy, các TCTD sẵn sàng chủ động đồng hành, chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và khách hàng vay vốn. Bởi khi lãi suất tiền gửi tăng lên thì TCTD phải trả lãi suất cao hơn cho người gửi, trong khi lãi suất cho vay giảm thì nguồn thu của các TCTD sẽ giảm và chênh lệch thu - chi của các TCTD sẽ bị thu hẹp hơn.

Thứ hai, đổi mới cách thức điều hành tăng trưởng tín dụng, tạo sự chủ động cho các TCTD trong tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm 2024

Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6 - 6,5% và lạm phát khoảng 4 - 4,5% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Theo đó, các giải pháp điều hành tín dụng được thực hiện chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD cung ứng nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế, ngày 31/12/2023, NHNN đã giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng. Đồng thời, NHNN chủ động theo dõi và điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ mà không cần các TCTD phải đề nghị điều chỉnh; tiếp tục triển khai chủ trương của Quốc hội, Chính phủ về thực hiện lộ trình giảm dần và gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD. Thực tế với diễn biến lạm phát được kiểm soát tốt dưới mức mục tiêu, NHNN đã hai lần chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD (vào ngày 28/8/2024 và ngày 28/11/2024) để kịp thời đáp ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm túc chỉ đạo về hoạt động tiền tệ, tín dụng, quy định về cấp tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ, trong đó bảo đảm tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh; hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Thứ ba, triển khai nhiều giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng của người dân, doanh nghiệp

- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động cấp tín dụng với nhiều quy định mới nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của các TCTD, cũng như nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của người dân, doanh nghiệp. Khách hàng có thể thực hiện vay vốn trên môi trường số mà không cần trực tiếp đến ngân hàng (cho vay bằng phương tiện điện tử), đơn giản hóa thủ tục vay vốn đối với các khoản cho vay có mức giá trị nhỏ bao gồm cả việc cấp tín dụng qua thẻ… tạo điều kiện thúc đẩy nhanh hơn quá trình thẩm định, phê duyệt tín dụng, giúp khách hàng tiếp cận các khoản vay nhanh chóng, thuận lợi hơn.

- Tổ chức các hội nghị trực tuyến toàn Ngành về đẩy mạnh tín dụng ngân hàng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2024 (vào ngày 20/02/2024 và ngày 19/6/2024); làm việc trực tiếp với lãnh đạo chính quyền địa phương tại nhiều tỉnh, thành phố về công tác tín dụng năm 2024 nhằm đánh giá kết quả hoạt động tín dụng, bàn biện pháp tháo gỡ, xử lý khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận, hấp thụ vốn tín dụng trên địa bàn và đưa ra giải pháp triển khai trong thời gian tới.

- Triển khai mạnh mẽ, sâu rộng Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp bằng nhiều hình thức phù hợp (hội nghị, buổi làm việc, trao đổi…) để đối thoại trực tiếp giữa ngân hàng với doanh nghiệp nhằm nắm bắt những khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc tiếp cận vốn vay ngân hàng; kịp thời xử lý, tháo gỡ, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ và các lĩnh vực là thế mạnh của địa phương1.

- Chỉ đạo các TCTD tiếp tục rà soát, đơn giản hóa quy trình và thủ tục cấp tín dụng, tối ưu hóa áp dụng chuyển đổi số vào quy trình cấp tín dụng; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt qua các kênh bán hàng, sản phẩm, dịch vụ được số hóa; phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng, ngân hàng phù hợp từng loại hình, nhu cầu sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, nhất là đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã và nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp, phục vụ đời sống, tiêu dùng của người dân; triển khai theo thẩm quyền các giải pháp ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong hoạt động cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tiêu dùng.

- Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng nhằm nâng cao khả năng thu thập, cung cấp thông tin tín dụng khách hàng vay, góp phần tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng.

- Tăng cường hoạt động truyền thông về cơ chế, chính sách cho vay; xây dựng, triển khai các chương trình giáo dục tài chính trên truyền hình và các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao nhận thức của người dân về các sản phẩm, dịch vụ tài chính; cảnh báo những hệ lụy để người dân phòng, tránh “tín dụng đen”.

Thứ tư, triển khai mạnh mẽ các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng, tháo gỡ khó khăn, bảo đảm sinh kế, tạo công ăn việc làm cho người dân

- Chương trình 120.000 tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư được NHNN phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng chỉ đạo triển khai quyết liệt thông qua nhiều hội nghị, văn bản chỉ đạo nhằm giảm lãi suất cho vay, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn từ Chương trình; trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi quy định mức lãi suất ưu đãi hơn cho người mua nhà. Thực tế, đã có 9 ngân hàng2 đăng ký tham gia Chương trình với tổng số tiền đăng ký là 145.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân pháp lý trong việc triển khai dự án còn vướng mắc, nên đến nay, chương trình mới giải ngân được 1.903 tỉ đồng bao gồm: 1.727 tỉ đồng cho chủ đầu tư tại 16 dự án; 176 tỉ đồng cho người mua nhà tại 14 dự án.

- Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản được các TCTD triển khai tích cực, hiệu quả với quy mô ban đầu là 15.000 tỉ đồng và hai lần nâng quy mô lên 30.000 tỉ đồng và 60.000 tỉ đồng. Đến tháng 11/2024, doanh số giải ngân lũy kế đạt khoảng 50.000 tỉ đồng với trên 12.000 lượt khách hàng vay vốn, đạt 83% doanh số cam kết.

- Chương trình tín dụng hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long được NHNN phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân (UBND) 12 tỉnh, thành phố trong vùng chỉ đạo triển khai khẩn trương, quyết liệt, bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực.

- Hỗ trợ khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi cơn bão Yagi (cơn bão số 3): Trước những ảnh hưởng, thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 gây ra với tổng mức thiệt hại lên đến 81.703 tỉ đồng (có khoảng 124 nghìn khách hàng bị ảnh hưởng với dư nợ khoảng 192 nghìn tỉ đồng, chiếm 3,1% tổng dư nợ trên địa bàn), ngành Ngân hàng đã chủ động triển khai quyết liệt, kịp thời các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Trong đó, NHNN đã khẩn trương ban hành và trình cấp có thẩm quyền ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 như: Cơ cấu thời hạn trả nợ, phân loại tài sản có, mức trích lập dự phòng rủi ro, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro đối với khoản nợ của khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của cơn bão số 3... Đồng thời, phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 chỉ đạo các TCTD triển khai ngay cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại và triển khai các chương trình tín dụng mới với lãi suất phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho người vay tiếp cận tín dụng... Theo đó, đã có 35 ngân hàng đăng ký hỗ trợ 405.000 tỉ đồng cho vay mới và hạ lãi suất, trong đó dành khoảng 300.000 tỉ đồng cho vay mới khôi phục sản xuất, kinh doanh. Mức giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu từ 0,5 - 2%/năm, mức lãi suất cho vay đối với các khoản giải ngân mới ngắn hạn từ 5 - 6,7%, trung, dài hạn từ 5,5 - 8%/năm.

Đến nay, doanh số lũy kế cho vay mới đạt khoảng 43 nghìn tỉ đồng; thực hiện hạ lãi suất cho những khoản vay hiện hữu với dư nợ khoảng 102 nghìn tỉ đồng.​ Có thể nói, các giải pháp hỗ trợ của ngành Ngân hàng đã phát huy hiệu quả, giúp giảm bớt tác động tiêu cực của cơn bão số 3 đối với đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp và thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế sau thiên tai.

Thứ năm, tích cực triển khai các chương trình tín dụng chính sách xã hội

Đến cuối tháng 11/2024, tổng dư nợ 27 chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đạt 365.165 tỉ đồng, tăng 10,01% so với năm 2023, tập trung ở một số chương trình như: Cho vay hộ nghèo đạt 33.895 tỉ đồng; cho vay hộ cận nghèo đạt 41.355 tỉ đồng; cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 46.033 tỉ đồng; cho vay học sinh, sinh viên đạt 20.030 tỉ đồng; cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn đạt 24.334 tỉ đồng; cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đạt 61.624 tỉ đồng; cho vay giải quyết việc làm đạt 107.857 tỉ đồng.

Nhờ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp quyết liệt, mạnh mẽ nên mặc dù trong những tháng đầu năm 2024, tín dụng tăng trưởng khá thấp do yếu tố mùa vụ đầu năm và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn còn yếu, có thời điểm âm tới 2% trong 3 tháng đầu năm. Tuy nhiên, từ tháng 4/2024 trở đi, tăng trưởng tín dụng đã chứng kiến xu hướng phục hồi khá tích cực, tháng sau cao hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước và cải thiện rõ rệt so với cùng kỳ năm 2023. Đến cuối năm 2024, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 15,8%, đạt mục tiêu đề ra. Trong đó: Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; một số lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao (công nghiệp hỗ trợ tăng trên 21%, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng gần 30%). Tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát (trong đó, tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán chiếm tỉ trọng nhỏ, khoảng 1%; tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông giảm). Tín dụng xanh tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và nông nghiệp xanh. Giải ngân đối với một số chương trình, chính sách tín dụng đạt kết quả tích cực (chương trình cho vay lâm sản, thủy sản đạt 86% cam kết theo quy mô lần 3). Các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH đạt mục tiêu đề ra từ đầu năm 2024.

Kết quả tích cực này đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nước ta đạt mức khá cao và là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2024.

2. Định hướng điều hành tín dụng năm 2025

Năm 2025 là năm có ý nghĩa quan trọng, quyết định việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, tạo động lực, nền tảng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặt ra mục tiêu tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng đạt 8% trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (bình quân khoảng 4,5%), bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Năm 2025 cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước như: Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI, Đại hội Thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IX; kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9...

Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, trong đó có ngành Ngân hàng rất nặng nề.

Đối với công tác tín dụng năm 2025, NHNN và các TCTD tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: Mặt bằng lãi suất có nhiều sức ép tăng trong thời gian tới do lãi suất cho vay đã có xu hướng giảm sâu thời gian qua và đang có dấu hiệu tạo đáy, lãi suất tiền gửi đã có xu hướng tăng trở lại. Vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh vẫn dựa nhiều vào hệ thống các TCTD trong bối cảnh huy động vốn từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán gặp nhiều khó khăn sẽ tạo áp lực tăng lãi suất và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Tình hình tài chính và hoạt động của doanh nghiệp và người dân còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Lạm phát giảm chưa bền vững và tiềm ẩn áp lực tăng trong bối cảnh độ mở nền kinh tế Việt Nam rất lớn, giá cả hàng hóa thế giới nhiều biến động do tác động của diễn biến địa chính trị phức tạp, xu hướng gia tăng về an ninh lương thực tại các quốc gia, thời tiết cực đoan. Các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) nhận định, dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện rất hạn hẹp, khuyến nghị Việt Nam cần tận dụng dư địa tài khóa còn nhiều để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế...

Trong bối cảnh đó, bám sát mục tiêu, định hướng của Đảng, Chính phủ, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành hoạt động tín dụng chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm ưu tiên hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đồng thời góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Một số giải pháp trọng tâm trong điều hành tín dụng cụ thể như sau:

Một là, tiếp tục đổi mới công tác điều hành tăng trưởng tín dụng và thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế; chủ động rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng, tín dụng ngành, lĩnh vực...

Hai là, tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành, lĩnh vực theo chủ trương Chính phủ; đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán...

Khuyến khích các TCTD tối ưu hóa chi phí, đơn giản hóa thủ tục cấp tín dụng và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số nhằm giảm lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn, thúc đẩy tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng an toàn, hạn chế “tín dụng đen”.

Ba là, phối hợp với các bộ, ngành kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động tín dụng. Chỉ đạo các đơn vị thuộc NHNN và các TCTD phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và chính quyền địa phương tăng cường kết nối ngân hàng - doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau; khuyến khích các TCTD tổ chức hội nghị khách hàng để lắng nghe, chia sẻ khó khăn và tìm giải pháp tháo gỡ vướng mắc, giúp doanh nghiệp phát triển ổn định, hiệu quả, bền vững.

Bốn là, tập trung triển khai quyết liệt các kế hoạch, chương trình hành động để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu; các nghị quyết của Đảng, Chính phủ về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới; về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045... Những nỗ lực này không chỉ nhằm hỗ trợ kinh tế trong ngắn hạn mà còn hướng tới sự phát triển bền vững và lâu dài.

1 Đến quý III/2024, đã có gần 1.300 buổi gặp gỡ, đối thoại giữa ngân hàng và doanh nghiệp được tổ chức trên toàn quốc. Thông qua chương trình, các TCTD đã cho vay được gần 1.594 nghìn tỉ đồng cho hơn 237.000 doanh nghiệp, 13.000 đối tượng khác; cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 616 doanh nghiệp, 653 đối tượng khác với dư nợ gần 16.240 tỉ đồng; ngoài ra các TCTD còn thực hiện hỗ trợ bằng các hình thức khác như giảm lãi, phí...

2 NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NHTM cổ phần Quân đội (MB), NHTM cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), NHTM cổ phần Tiên Phong (TPBank), NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), NHTM cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank).

TS. Đào Minh Tú
Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tin bài khác

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn lực đầu tư phát triển mô hình du lịch nông nghiệp: Nghiên cứu vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam

Du lịch nông nghiệp có nhiều tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, đặc biệt là khu vực nông thôn và các tỉnh đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghiên cứu này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển mô hình du lịch nông nghiệp tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và đề xuất một số kiến nghị phù hợp.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô