Sử dụng công cụ SWOT cho xây dựng chiến lược hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam trong điều kiện hội nhập và phát triển công nghệ hiện nay

Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (NHCSXH) sau 15 năm hoạt động, đang ngày càng lớn mạnh và chứng tỏ vai trò quan trọng đối với công cuộc giảm nghèo và phát triển bền vững của Việt Nam. Trong điều...
aa

Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (NHCSXH) sau 15 năm hoạt động, đang ngày càng lớn mạnh và chứng tỏ vai trò quan trọng đối với công cuộc giảm nghèo và phát triển bền vững của Việt Nam. Trong điều kiện hội nhập, với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4G) đang diễn ra hết sức sôi nổi, ảnh hưởng tới mọi hoạt động, trong đó có hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng nói chung và của NHCSXH nói riêng. Bài viết này sử dụng công cụ SWOT1 để phân tích nội lực và các điều kiện môi trường của NHCSXH, từ đó đưa ra các chiến lược hoạt động trong điều kiện mới.

PGS., TS. Lê Thanh Tâm, Nguyễn Hải Yến

1. Giới thiệu về công cụ SWOT

Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm bắt và ra quyết định trong mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh nào (Humprey, 2005). SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định hướng của một doanh nghiệp. Phương pháp phân tích SWOT cùng với ứng dụng của nó để phân tích chiến lược doanh nghiệp bao gồm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Phân tích tình trạng hiện tại của doanh nghiệp và dự đoán các điều kiện hoạt động trong tương lai. Giai đoạn này gồm 4 bước cụ thể như sau:
Bước 1: Trả lời cụ thể từng câu hỏi liên quan đến hình ảnh hoạt động của doanh nghiệp, phạm vi hoạt động của nó, xác định về khách hàng và những đòi hỏi của họ (xác định các khu vực thị trường phục vụ) đồng thời là các định hướng của lãnh đạo doanh nghiệp.
Bước 2: Nhận biết các ngoại cảnh của doanh nghiệp, nhất là ngoại cảnh vĩ mô, cũng như ngoại cảnh cạnh tranh; đồng thời đánh giá các cơ hội và các nguy cơ.
Bước 3: Sắp xếp các phân tích tình trạnh hiện hữu của doanh nghiệp và dự báo tương lai về các cơ hội và nguy cơ diễn ra ở ngoại cảnh.
Bước 4: Xác định mặt mạnh - yếu của doanh nghiệp và tập trung vào các tiềm lực bên trong doanh nghiệp.
Giai đoạn 2: Thiết kế chiến lược cho 4 nhóm tình huống, bao gồm 3 bước cụ thể như sau:
Bước 5: Soạn thảo ra các phương án chiến lược cho doanh nghiệp.
Bước 6: Xác định các hành động và chiến thuật cần phải thực hiện để đạt được mục tiêu chiến lược. Phân tích lại một lần nữa các bước từ 1 đến 6, tổng hợp lại để đánh giá, xác định các mối quan hệ tương tác, loại bỏ những mâu thuẫn đối kháng.
Bước 7: Chuẩn bị kế hoạch chiến lược trên cơ sở các phân tích các mặt mạnh - yếu gắn kết với các cơ hội, nguy cơ diễn ra bên ngoài doanh nghiệp. Phần này sẽ tạo thành 4 nhóm chiến lược mẫu: Chiến lược SO - maxi - maxi; chiến lược WO - mini - maxi; Chiến lược ST - maxi - mini; và Chiến lược WT - mini - mini.
2. Sử dụng SWOT cho phân tích thực trạng và các điều kiện hoạt động trong tương lai đối với NHCSXH Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam
NHCSXH được thành lập lại trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo theo Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài việc tập trung giải quyết nhu cầu vốn cho người nghèo, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, NHCSXH còn giúp tái cơ cấu các ngân hàng thương mại nhà nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của kênh cho vay chính sách, đảm bảo sự tập trung vào tín dụng thương mại đối với các ngân hàng này. NHCSXH tiếp tục đảm trách các chức năng của Ngân hàng Phục vụ người nghèo, trở thành kênh cung cấp tín dụng nhỏ do Chính phủ trợ cấp vốn trước đây được thực hiện qua các Bộ theo các chương trình và dự án chính sách xã hội và giảm nghèo.
NHCSXH ngay từ những ngày đầu hoạt động đã định hướng tập trung tăng cường sự hợp tác có hiệu quả với các Bộ, ban, ngành, các tổ chức hội đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh..., tạo cơ sở tiếp cận được với các hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên phạm vi cả nước.
Hiện tại, NHCSXH có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, là một pháp nhân có vốn điều lệ và hệ thống giao dịch từ trung ương đến địa phương, với 63 chi nhánh cấp tỉnh, một sở giao dịch, các phòng giao dịch cấp huyện với 9-12 cán bộ/phòng. Đặc biệt, hoạt động của NHCSXH có sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện dịch vụ ủy thác một số công đoạn trên cơ sở thiết lập hàng trăm nghìn tổ tiết kiệm và vay vốn (TKVV) làm nhiệm vụ giám sát, quản lý hộ nghèo sử dụng vốn vay (NHCSXH Việt Nam, 2017).
Các điểm mạnh của NHCSXH
Qua quá trình hoạt động từ Ngân hàng Phục vụ người nghèo chính thức chuyển thành NHCSXH 15 năm vừa qua, NHCSXH đã đạt được những thành công lớn lao, đặc biệt về quy mô hoạt động. Có thể tổng kết lại những điểm mạnh của NHCSXH Việt Nam như sau:
Thứ nhất, mạng lưới hoạt động rộng khắp. NHCSXH là tổ chức tín dụng chính thức duy nhất ở Việt Nam có mạng lưới điểm giao dịch tới 99% số xã với hơn 200 ngàn tổ tiết kiệm - vay vốn trên toàn quốc kể cả ở các vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo. Hiện tại, chưa tổ chức nào khác có mạng lưới nối kết với khách hàng rộng lớn như NHCSXH. Điều này tạo điều kiện cho khách hàng hiện tại và tiềm năng ở tất cả các vùng miền đều có cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ NHCSXH, và cũng là cơ hội để NHCSXH trở thành đại lý hoặc đơn vị phối hợp hoạt động cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức khác.
Thứ hai, NHCSXH là tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô lớn nhất trên thị trường. So với các tổ chức khác, NHCSXH chiếm tới trên 70% cả về số lượng khách hàng tín dụng và tiết kiệm. Duy chỉ có quy mô tiết kiệm của NHCSXH là chưa đạt thị phần lớn như mong đợi. (Bảng 1)


Thứ ba, mô hình hoạt động hợp tác gắn kết chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội địa phương. NHCSXH là tổ chức tín dụng duy nhất mà Hội đồng quản trị gồm 14 thành viên, trong đó 12 thành viên là các lãnh đạo cao cấp của các Bộ, ban, ngành có liên quan, và 2 thành viên chuyên trách. Đặc biệt, tất cả các tổ chức chính trị - xã hội (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh) đều là thành viên trong Hội đồng quản trị. Do vậy, khi thực hiện các hoạt động, các cán bộ ở các tổ chức chính trị - xã hội địa phương có trách nhiệm hơn, có tính sở hữu cao hơn so với các tổ chức tín dụng khác. Đây chính là điểm mạnh lớn nhất, mang tính chất dài hạn của NHCSXH và cần được phát huy trong thời gian tới.
Thứ tư, chi phí giao dịch đối với khách hàng của NHCSXH nói chung thấp, thủ tục đơn giản hơn so với các tổ chức tài chính chính thức khác. Do các giao dịch thực hiện tại điểm giao dịch nằm ở trung tâm xã/phường, thông qua các tổ tiết kiệm vay vốn, thời gian thực hiện giao dịch nhanh chóng và được xác định trước. Do sử dụng nhân lực hỗ trợ là các cán bộ thuộc các tổ chức chính trị - xã hội ngay tại địa bàn xã, hiểu rõ tâm lý nhu cầu dân chúng, các NHCSXH đã sử dụng tối đa các biện pháp thế chấp phi truyền thống nhằm giải quyết vấn đề khó khăn này của các đối tượng chính sách tại địa phương. Do vậy, có thể nói điểm mạnh này là kết quả của sức mạnh mô hình tổ chức liên kết.
Thứ năm, thời gian giao dịch được xác định trước => chủ động cho khách hàng. Tất cả các điểm giao dịch NHCSXH đều công khai thời gian giao dịch cho khách hàng, và các lịch giao dịch cố định này tạo điều kiện cho khách hàng dễ nhớ, dễ tiếp xúc với cán bộ ngân hàng khi cần thiết.
Thứ sáu, lãi suất cho vay thấp => có lợi cho khách hàng. Hầu hết các chương trình cho vay của NHCSXH đều có lãi suất ưu đãi, thấp hơn so với lãi suất thị trường. Điều này xuất phát từ cách tiếp cận của các nhà quản lý trong việc hình thành và phát triển ngân hàng, bắt nguồn từ Nghị định 78/2002, Điều 18 “ Lãi suất cho vay ưu đãi do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho từng thời kỳ theo đề nghị của Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội, thống nhất một mức trong phạm vi cả nước, trừ các tổ chức kinh tế thuộc đối tượng được quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều 2 Nghị định này do Hội đồng Quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội quyết định có phân biệt lãi suất giữa khu vực II và khu vực III”. Điều này có lợi cho khách hàng vì lãi trả thấp hơn so với cho vay các tổ chức khác và tín dụng tư nhân. Tuy nhiên điểm mạnh này chỉ mang tính chất ngắn hạn, khi NHCSXH đổi mới và đa dạng hóa hoạt động, giảm ưu đãi về lãi suất. Hơn nữa, chính sách lãi suất thấp có thể gây ra một số hạn chế thể hiện trong cách tiếp cận truyền thống như phần trình bày phía sau. Do vậy, lãi suất thấp vừa thể hiện điểm mạnh vừa có hạn chế bên trong.
Các điểm yếu của NHCSXH
Mặc dù thành lập và hoạt động với các cơ chế hoàn toàn đặc thù theo quy định của Chính phủ, tạo ra những thế mạnh cho NHCSXH, nhưng chính điều này cũng gây ra những hạn chế và rào cản cho sự phát triển của tổ chức. NHCSXH hiện đang tồn tại một số hạn chế nhất định, chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, các dịch vụ cung ứng còn kém đa dạng. Theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP, NHCSXH hoạt động tập trung vào dịch vụ tín dụng cho các đối tượng chính sách. Do vậy, từng dịch vụ tín dụng của NHCSXH đều được quy định cụ thể bằng quyết định riêng của Thủ tướng Chính phủ. Dịch vụ tiết kiệm được thực hiện theo nguyên tắc “lãi suất huy động vốn tối đa không quá mức lãi suất huy động cao nhất cùng kỳ hạn, cùng thời điểm của các NHTM mà nhà nước chiếm cổ phần chi phối trên cùng địa bàn”, trong khi cho vay theo lãi suất ưu đãi cố định. Do vậy, quy mô tiết kiệm được huy động của NHCSXH còn khá khiêm tốn, chưa thực sự là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Động lực để tăng tiết kiệm ở mức tối đa so với khả năng khách hàng còn chưa cao, còn phụ thuộc một phần vào nguồn vốn ngân sách cấp bù lãi suất. Dịch vụ thanh toán hiện đang ở mức thử nghiệm ban đầu. Các dịch vụ tài chính khác hầu như chưa có.
Thứ hai, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chưa cao. Mặc dù ngân hàng lõi đã được ứng dụng tại NHCSXH, nhưng mức độ còn rất cơ bản. Mức độ ứng dụng các phần mềm quản lý trong giao dịch của NHCSXH trở nên rất khó khăn với điều kiện ứng dụng công nghệ hiện tại. Báo cáo quản trị nội bộ chưa được chi tiết hóa và tự động hóa cao trên toàn quốc. Các giao dịch e-bankings và online (như POS, ATM, mobile banking, phone banking, internet banking…) hầu như chưa phát triển, chủ yếu là giao dịch trực tiếp. Điều này là do: (i) quy mô hoạt động rộng khắp cả nước; (ii) số lượng giao dịch của NHCSXH là lớn nhất so với tất cả các NHTM và tổ chức tín dụng khác; (iii) giá trị giao dịch tương đối thấp; (iv) chi phí cho ứng dụng công nghệ mới ngày càng đắt đỏ; và (v) cơ sở hạ tầng kết nối mạng chung của cả nước chưa thực sự có chất lượng đồng đều và ổn định.
Thứ ba, chưa bền vững về tài chính, vẫn phụ thuộc trợ cấp. Mặc dù mức độ bền vững hoạt động (OSS) của NHCSXH đã đạt mức trên 100%, mức bền vững tài chính FSS còn chưa đạt yêu cầu. Lý do chính là: (1) nguồn thu hạn chế, do lãi suất đầu ra thấp theo quy định của Chính phủ, trong khi các nguồn thu phi lãi khác còn hết sức khiêm tốn; (2) công tác quản lý chi phí hoạt động mang tính chất phi thương mại, chưa tính tới các yếu tố chi phí vốn chủ sở hữu, chi phí lạm phát; (3) nhiều nguồn vốn của NHCSXH có lãi suất thấp, được tài trợ trực tiếp hoặc qua bảo lãnh của Chính phủ; (4) tổng chi phí hoạt động và chi phí hoạt động trên một đồng giao dịch đối với ngân hàng cao. Với mục tiêu giảm chi phí giao dịch cho khách hàng, NHCSXH đã phải chấp nhận chi phí giao dịch chuyển sang cho ngân hàng thông qua việc nhân viên giao dịch đi đến tận các điểm giao dịch, chịu tất cả các chi phí và rủi ro của quá trình đi lại với tiền mặt được mang theo mình. Với số lượng điểm giao dịch toàn quốc và quy mô trên một giao dịch nhỏ, hiệu quả chi phí hoạt động của NHCSXH là một nội dung cần quan tâm. Điều này tốt cho khách hàng do giảm chi phí vay vốn, nhưng khiến tổng chi phí hoạt động của NHCSXH cao.
Thứ tư, chưa thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều vị trí chủ chốt. Do phạm vi hoạt động rộng khắp, nhân viên của NHCSXH phải quản lý số lượng khách hàng rất lớn, trong khi thu nhập ở mức rất khiêm tốn. Do vậy, việc thu hút các nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc tại các vị trí chủ chốt như các NHTM khác là vô cùng khó khăn. Hơn nữa, NHCSXH dựa vào hệ thống cán bộ từ các tổ chức chính trị - xã hội để thực hiện công tác tuyên truyền, mức độ hiểu biết hoạt động ngân hàng không thực sự đồng đều do tính không chuyên, và cũng bị ảnh hưởng bởi yếu tố nhiệm kỳ. Với các tổ trưởng tổ tiết kiệm vay vốn, thực hiện một số công việc trong hoạt động tín dụng, chủ yếu thực hiện nghiệp vụ dựa trên kinh nghiệm và huấn luyện ngắn hạn của cán bộ NHCSXH. Độ tuổi chung của các tổ trưởng nhìn chung khá cao, sẽ là rào cản cho việc thực hiện các nghiệp vụ kỹ thuật số trong tương lai. Vấn đề đảm bảo chất lượng đồng đều trong cung cấp dịch vụ tới khách hàng cuối cùng là điều khá khó khăn.
Thứ năm, nguồn vốn hạn chế, khả năng tăng trưởng chưa bền vững. Mặc dù nguồn vốn của NHCSXH gồm: (1) nguồn vốn từ ngân sách nhà nước; (2) vốn huy động từ tiền gửi, phát hành trái phiếu; (3) vốn đi vay; (4) vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước; (5) vốn nhận ủy thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước; và (6) các nguồn vốn khác. Tuy vậy, các khoản huy động tiền gửi bắt buộc 2%, đi vay và phát hành trái phiếu về bản chất vẫn do Nhà nước bảo lãnh hoặc là của Nhà nước. Các nguồn huy động tiết kiệm tự nguyện trong những năm qua có sự tăng trưởng nhất định, trong khi các nguồn khác cũng có sự thay đổi nhất định, nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguồn vốn hoạt động của NHCSXH phụ thuộc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vào ngân sách. Trong điều kiện ngân sách hiện nay và trong thời gian tới tại Việt Nam, khả năng tăng các nguồn liên quan tới ngân sách rất giới hạn, trong khi nguồn tiết kiệm chưa trở thành một nguồn chính. Việc đi vay trên thị trường liên ngân hàng để quản lý nguồn theo thị trường của NHCSXH mới bắt đầu thực hiện nhưng còn ở giai đoạn ban đầu. Do vậy, nguồn vốn của NHCSXH trong những năm qua quy mô còn giới hạn và còn cần nhiều giải pháp để tăng trưởng bền vững nguồn vốn trong tương lai.

Thứ sáu, NHCSXH hiện đang áp dụng nhiều hơn cách tiếp cận truyền thống trong cung cấp dịch vụ tài chính vi mô. Tài chính vi mô cung cấp theo nhiều trường phái khác nhau, nhưng tựu chung có 3 trường phái chính như
bảng 2 dưới đây.

Mỗi trường phái có ưu thế và nhược điểm riêng. Hiện nay, NHCSXH hiện đang ứng dụng trường phái truyền thống kết hợp với thể chế mới, do vậy các vấn đề phê phán của trường pháp truyền thống cũng đã và đang bị đánh giá và xem xét ở phạm vi nhất định. Đây cũng là điều mà các cơ quan quản lý và bản thân ban lãnh đạo NHCSXH đã nhận ra. Một số giải pháp đã và đang được áp dụng để giảm dần chính sách lãi suất ưu đãi, tăng lãi suất tiệm cận với thị trường. Cụ thể, trong Chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2011-2020, “mức độ ưu đãi về lãi suất phân biệt theo các nhóm đối tượng thụ hưởng, sẽ giảm dần và được thay thế bằng các hình thức ưu đãi về qui trình, thủ tục và điều kiện vay vốn. Mức ưu đãi cao nhất dành cho hộ đồng bào dân tộc nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn. Đối với hộ không thuộc diện hộ nghèo nhưng được hưởng một số chính sách tín dụng ưu đãi, hộ cận nghèo thì lãi suất tiếp cận dần với lãi suất thị trường” (Chính phủ, 2012). Tuy vậy, việc thực hiện giải pháp này cần được đẩy nhanh và rốt ráo hơn, tăng dần cách tiếp cận thể chế mới và giảm hơn nữa các tác động tiêu cực của lãi suất thấp.
Các cơ hội và thách thức cho hoạt động của NHCSXH trong điều kiện hiện nay
Trong những năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất thuyết phục về phát triển kinh tế và giảm đói nghèo, với tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân 6,37% trong giai đoạn 1997-2016 (WB, 2016). Những cam kết của Chính phủ đối với tự do hóa kinh tế và hội nhập quốc tế, những phát triển nổi bật, và những cải cách ngày càng gia tăng để hiện đại hóa nền kinh tế đã giúp Việt Nam gia nhập sâu rộng hơn vào các hiệp ước WTO, APEC, ASEAN. Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu vô cùng ấn tượng về giảm nghèo, với tỷ lệ nghèo đói giảm từ 58% năm 1993 xuống 7% năm 2015, và là một trong vài quốc gia trên thế giới được UN đánh giá là đạt được nhiều mục tiêu thiên niên kỷ trước hạn (UN, 2017).
Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển, với 65,3% dân cư sống trong khu vực nông thôn, hơn 50% lao động vẫn thuộc khu vực nông nghiệp (World Meters, 2017, Truong Hoa Binh, 2017). Vẫn còn tới hơn 1,44 triệu hộ nghèo (5,97%) và 1,34 triệu hộ cận nghèo, dễ dàng quay trở lại mức nghèo khổ. Sự thay đổi cách xác định chuẩn nghèo đa chiều hiện nay sẽ tác động lớn tới số lượng người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay (ADB, 2016). Sự gia nhập cộng đồng quốc tế tạo điều kiện để nền kinh tế nông thôn phát triển, nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức trong cạnh tranh, đặc biệt trong điều kiện cánh kéo giá bất lợi cho khu vực nông thôn, đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay. Do vậy, các khách hàng của NHCSXH nói riêng và của khu vực nông nghiệp nông thôn nói riêng gặp khó khăn hơn trong sản xuất kinh doanh, tạo thu nhập. Bên cạnh đó, một số quy định cụ thể cho hoạt động của NHCSXH còn bất cập, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong khu vực nông thôn trở nên gay gắt. Cuộc cách mạng công nghệ 4G tạo điều kiện cho các doanh nghiệp fintech phát triển, cung cấp các dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp và mức độ tiếp cận rộng nhờ điện thoại/internet.
Hơn nữa, các quy định quy định an toàn với NHCSXH khá khác biệt và chưa theo thông lệ như ngân hàng truyền thống. Do đặc thù hoạt động của NHCSXH, các quy định về quy chế cho vay, đảm bảo an toàn, phân loại nợ… của tổ chức tín dụng thông thường hiện được áp dụng hạn chế cho NHCSXH. Một số quy định cho hoạt động của NHCSXH hiện tại được quy định riêng. Ví dụ, NHCSXH có mức dự trữ bắt buộc là 0% và không phải bảo hiểm tiền gửi, không phải duy trì hệ số CAR, phân loại nợ có sự khác biệt so với các TCTD khác trong quản lý. Do vậy, nếu phải thực hiện áp dụng các tiêu chuẩn an toàn như thông lệ, NHCSXH sẽ phải thực hiện đánh giá lại các mức độ nợ xấu, bền vững, mức độ đủ vốn, cũng như điều chỉnh nhiều hoạt động và chiến lược. Do đó, các cơ hội và thách thức cho hoạt động của NHCSXH được tổng kết trong bảng 3 sau đây.
SWOT đối với NHCSXH
Dựa trên phần đánh giá về các điểm mạnh, điểm yếu của NHCSXH, cũng như xem xét các cơ hội và thách thức hiện tại từ môi trường hoạt động tài chính trong điều kiện cuộc cách mạng 4G, chúng ta có bảng tổng kết SWOT như sau về NHCSXH Việt Nam: (Xem bảng 3).


3. Xây dựng chiến lược hoạt động của NHCSXH theo mô hình SWOT

Dựa vào mô hình SWOT trên, chúng ta có thể tổng kết các chiến lược sau đối với NHCSXH trong thời gian tới:
Chiến lược phát triển SO (maxi - maxi): Sử dụng tối đa các điểm mạnh, kết hợp với các cơ hội, chúng ta có chiến lược phát triển của NHCSXH trong thời gian tới như sau:
- Tiếp tục tập trung vào thị phần tài chính vi mô, tận dụng tối đa mạng lưới, phát triển việc hợp tác toàn diện với các TCTD khác cùng địa bàn trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Ví dụ, NHCSXH hỗ trợ, trở thành đại lý hoặc kết hợp với các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, quản lý hộ khách hàng, phân tích nhu cầu thị trường theo đơn đặt hàng của các tổ chức tín dụng khác (S1,S2,S3 kết hợp với O1, O3 và O4).
- Chọn lựa, đầu tư công nghệ phù hợp với giá cả hợp lý để phát triển đa dạng hóa hoạt động, đa dạng hóa cách thức tiếp cận đối với khách hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng (S1, S2, S4 kết hợp với O1,O2,O5).
- Tăng cường hoạt động ủy thác đầu tư và ủy thác cho vay cho các chương trình/dự án, hoạt động đại lý, mở rộng quản lý hộ các đại lý tài chính số cho các đơn vị khác (S1, S4, S5 kết hợp với O2, O4, O5).
Chiến lược cạnh tranh WO. (mini - maxi): Tận dụng tối đa các cơ hội để khắc phục các điểm yếu của NHCSXH, chúng ta có chiến lược cạnh tranh cụ thể như sau:

- Mở rộng đối tượng khách hàng khi được luật pháp cho phép, cung cấp các sản phẩm đa dạng hơn cho các nhóm khách hàng khác nhau, phân đoạn thị trường chi tiết theo từng nhóm (tuổi, nghề nghiệp, ngành nghề, mục đích sử dụng vốn…) để hiểu rõ khách hàng hơn (W1 kết hợp với O1, O2, O3).

- Tăng cường tiềm lực tài chính thông qua việc tận dụng các nguồn lực tiết kiệm của dân chúng trong nông thôn, đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi, tăng cường các biện pháp PR và truyền thông tới khách hàng tiềm năng (W1, W2 kết hợp với O2, O4, O5).
- Tích cực nâng cao chất lượng nhân lực về lượng và chất, cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động thông qua đào tạo, liên doanh liên kết, chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại - đặc biệt công nghệ fintech (W4, W3 kết hợp với O1, O3, O6).
- Tăng cường ứng dụng các trường phái tiếp cận thể chế mới và trường phái Ohio trong một số sản phẩm, phân tách hơn nữa các sản phẩm có lãi suất gần với lãi suất thị trường và các sản phẩm ưu đãi hoàn toàn (W7, W3 kết hợp với O1, O5).
- Áp dụng dần các chuẩn mực an toàn và quy chế cơ bản của ngân hàng theo thông lệ, từ đó thu hút thêm các nhà đầu tư trong và ngoài nước (W3, W5, W6 kết hợp với O1, O3).
Chiến lược chống đối ST (maxi - mini): Để có thể chiến thắng các nguy cơ bên ngoài, giảm thiểu những tác động xấu do môi trường gây ra, các NHCSXH cần tận dụng tối đa các sức mạnh hiện có của mình. Cụ thể như sau:
- Tận dụng sự hiểu biết sâu sắc và gần gũi khách hàng, phát triển các ý tưởng để có các sản phẩm đa dạng để có các nguồn thu khác nhau, từ đó tăng cường sức cạnh tranh, tăng thu lãi và phi lãi, tiến dần tới đảm bảo tự chủ về tài chính (S1, S3, S5 kết hợp với T4, T5).
- Đưa ra các chính sách về thời hạn, kỳ hạn, lãi suất hợp lý, trợ giúp người nghèo và các đối tượng chính sách phát triển chống lại tác động tiêu cực của hội nhập (S2,S4,S6 kết hợp với T3,T6, T7).
- NHCSXH thông qua tiếng nói chung của hội đồng quản trị, các tổ chức chính trị - xã hội để thực hiện PR, vận động hành lang đối với các cơ quan chức năng để điều chỉnh các quy định pháp luật cho phù hợp với hoạt động (S2, S3 kết hợp với T4, T5).
Chiến lược phòng thủ WT (mini - mini): Thiết lập kế hoạch “phòng thủ” để tránh cho những điểm yếu bị tác động nặng nề hơn từ môi trường bên ngoài. Trong tình huống tiềm lực bên trong yếu kém, điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi, NHCSXH cần có chiến lược sáng suốt để giảm thiểu cả hai vấn đề này. Ví dụ, với một số điểm/phòng giao dịch gặp nhiều bất lợi và thách thức, NHCSXH cần thực hiện chiến lược “rút lui”, thậm chí có thể cần sáp nhập một số điểm giao dịch, đóng cửa một vài điểm nếu cần thiết. Còn dưới cái nhìn lạc quan, NHCSXH cần phải cố gắng để đứng vững trên thương trường hoặc là liên kết với các tổ chức, liên doanh, chia sẻ thị phần, tận dụng khả năng chuyển giao công nghệ… Bên cạnh đó, NHCSXH cần giảm thiểu chi phí hành chính, có chính sách quản trị rủi ro tốt để chờ thời cơ để xoay chuyển tình hình.
Trong từng thời điểm khác nhau, NHCSXH có thể vận dụng một hoặc một số chiến lược trong bốn chiến lược trên, tận dụng các điểm mạnh và cơ hội của mình để giảm thiểu các điểm yếu cũng như thách thức. Đó chính là nền tảng để NHCSXH phát triển bền vững, góp phần giảm nghèo và phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn hội nhập và phát triển công nghệ hiện nay.

1 SWOT là viết tắt của 4 chữ Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (thách thức).
2 Tính đến cuối 2015.
Chú thích: tín dụng vi mô tức các khoản tín dụng có quy mô từ 30 triệu VND trở xuống (Theo Thông tư 02/2008/TT-NHNN ngày 9/3/2016 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô). Tiết kiệm vi mô là các khoản có quy mô gửi tiền từ 50 triệu VND trở xuống - là mức tối đa được hưởng bảo hiểm tiền gửi theo Luật Bảo hiểm Tiền gửi Việt nam. Các chuẩn mực này được ADB sử dụng để đánh giá hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Adams, D.W., D. Graham và J.D Von Pischke (1986), Undermining Rural Development with Cheap Credit, Westview Press, Boulder.
2. ADB (2014), “Sector Assessment: Microfinance”, Microfinance Sector Development Program, ADB PATA TA-8108 VIE.
3. ADB (2016), “Moving towards Greater Financial Inclusion: An Assessment of the Vietnam Case”, Assessment report by the ADB TA-8587-VIE Team, 2016.
4. Aghion, B.A và J. Morduch (2005), The Economics of Microfinance, The MIT Press, Cambridge.
5. Braveman, A & J.L. Guasch (1986), Rural Credit Markets and Institutions in Developing Countries: Lessons for Policy Analysis from Practice and Modern Theory”, World Development Vol. 14.
6. Chính phủ (2002), Nghị định 78/2002/NÐ-CP ngày 04/10/2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
7. Chính phủ (2002), Nghị định 78/2002/NÐ-CP ngày 4/10/2002 về Tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách.
8. Chính phủ (2012), Quyết định số 852/QÐ-TTg ngày 10/7/2010 về việc Phê duyệt Chiến lược Phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011 - 2020.
9. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu.
10. Chính phủ (2015a), Quyết định 750/QÐ-TTg ngày 1/6/2015 về Ðiều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH Việt nam.
11. Chính phủ (2015b), Nghị định số 55/2015/NÐ-CP ngày 9/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
12. Chowdhury, A. (2009), “Microfinance as a Poverty Reduction Tool - A Critical Assessment”, UN-DESA Working Paper No. 89, December 2009, truy cập ngày 15/9/2015 tại http://www.un.org/esa/desa/papers.
13. Christen, R., & D., Drake (2002), “Commercialization: The New Reality of Microfinance”, in D. Drake & E. Rhyne (eds) (2002), The Commercialization of Microfinance: Balancing Business and Development, Bloomfield: Kumanrian Press, pp. 2-22.
14. Claessens, S. (2005), “Financial and Votality”, in J. Aizenman & B. Pinto (eds) (2005), Managing Economic Votality and Crises: A Practitioners’ Guide, Cambridge Univeristy Press, Boston.
15. Floro, S.L. & P.A. Yotopoulos (1991), Informal Credit Markets and the New Institutional Economics: The Case of Philippines Agriculture, Westview Press.
16. Hulme, D. và P. Mosley (eds) (1996), Finance against Poverty, 2 vols, Routledge, London.
17. Humphrey, Albert (tháng 12 năm 2005). “SWOT Analysis for Management Consulting”(PDF). SRI Alumni Newsletter (SRI International).
18. Lê Thanh Tâm (2015), “Các trường phái cung cấp tài chính vi mô: Lý thuyết gốc và thực nghiệm tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 218 (II), tháng 8/2015, ISSN: 1859-0012, trang 2-10.
19. Ledgerwood, Joanna, with Julie Earne and Candace Nelson, eds (2013),The New Microfinance Handbook: A Financial Market System Perspective, Washington, DC: World Bank.
20. Lewis, W.A. (1954), “Economic Development with Unlimited Supplies of Labour”, in A.N. Agarwala & S.P. Singh, (1969), The Economics of Underdevelopment, Oxford University Press.
21. McKinon, R.I. (1973), “Money and Capital in Economic Development”, World Development Vol 2, Issue 3, pp. 87-88.
22. NHCSXH Việt Nam (2017), http://vbsp.org.vn/gioi-thieu/lich-su-hinh-thanh.html
23. North, D.C.C (1995), “The New Institutional Economics and Third Word Development”, In J. Harriss, J.Hunter và C.M. Lewis (eds) (1995), The New Institutional Economics and Third Word Development, Routledge, London.
24. Patrick, H.T. (1996), Financial Development and Economic Growth in Developing Countries, Routledger, London.
25. Rounbini, N. & S. Martin (1992), “Financial Repression and Economic Growth”, Journal of Development Economics Vol 39, pp. 5-30.
26. Shaw, E. (1973), Financial Deepening in Economic Development, Oxford University Press, New York.
27. Tobin, J. (1965), Money and Economic Growth, Econometrica, Vol. 33, Issue 4, October 1965, pp. 671-684.
28. Truong Hoa Binh (2017), Promoting the role of Vietnamese farmers-the subject of agriculture, and new-type rural area development, http://english.tapchicongsan.org.vn/Home/Politics/2017/1024/Promoting-the-role-of-Vietnamese-farmersthe-subject-of-agriculture-and-newtype-rural.aspx retrieved in April 11, 2017 (this article was published on Communist Review No. 890, December 2016).
29. UN (2017), Vietnam and the MDG, http://www.un.org.vn/en/what-we-do-mainmenu-203/mdgs/viet-nam-and-mdgs-mainmenu-49.html.
30. World Bank (2017a), GDP of Vietnam. Retrieved from http://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD?end=2015&locations=VN&start=1997
31. World Meters (2017), http://www.worldometers.info/world-population/vietnam-population/

(Tạp chí Ngân hàng số 13, tháng 7/2017)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc