Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Chính sách
Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong nhiều nghị quyết, bộ luật của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.
aa

Tóm tắt: Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bùng nổ mạnh mẽ trên toàn cầu như hiện nay, phát triển nền kinh tế tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm phát triển bền vững. Bài viết này phân tích định hướng phát triển nền kinh tế tri thức của Nhà nước, đánh giá những kết quả đạt được cũng như hạn chế trong quá trình phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh và thịnh vượng của dân tộc.

Từ khóa: Kinh tế tri thức, năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững.

DEVELOPING VIETNAM’S KNOWLEDGE ECONOMY IN THE NEW ERA

Abstract: In the context of the Fourth Industrial Revolution booming strongly worldwide, the development of a knowledge economy has become an urgent requirement for Vietnam to enhance competitiveness and ensure sustainable development. This article analyzes the State’s orientations for developing the knowledge economy, evaluates the achievements as well as the limitations in Vietnam’s knowledge economy development process. Accordingly, the author proposes several solutions to foster the growth of the knowledge economy, thereby contributing to ushering the nation into a new era - an era in which the nation rises to become strong, wealthy and prosperous.

Keywords: Knowledge economy, competitiveness, sustainable development.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Giới thiệu chung

Trong tiến trình lịch sử nhân loại, sự biến đổi của nền kinh tế gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người qua 5 giai đoạn chính: (i) Kinh tế tự cung tự cấp: Là thời kỳ nguyên thủy, con người dựa vào săn bắt, hái lượm, sau đó tiến tới nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi; (ii) Kinh tế nông nghiệp: Kéo dài hàng nghìn năm, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thiết yếu; (iii) Kinh tế công nghiệp: Kể từ sau cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào thế kỷ XVIII, lao động thủ công được thay thế bằng máy móc, sản xuất hàng loạt, thương mại và đô thị phát triển mạnh; (iv) Kinh tế dịch vụ: Bắt đầu phát triển mạnh mẽ sau Chiến tranh Thế giới II, nhiều quốc gia chuyển dịch cơ cấu sang các ngành dịch vụ, tài chính, thương mại, logistics, giáo dục, y tế…; (v) Kinh tế tri thức: Khởi nguồn từ cuối thế kỷ XX đến nay, theo đó, tri thức, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo trở thành động lực then chốt (Hình 1). Dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lượng…, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, toàn diện, chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với quá trình phát triển của xã hội loài người.

Hình 1: 5 giai đoạn phát triển của nền kinh tế nhân loại

Nguồn: Minh họa của tác giả
Nguồn: Minh họa của tác giả

Thuật ngữ “nền kinh tế tri thức” được phổ biến lần đầu tiên bởi chuyên gia tư vấn, quản lý kinh doanh Drucker trong cuốn sách “The Effective Executive” (bản dịch “Nhà Quản trị hiệu quả”) xuất bản năm 1966 và sau đó là trong cuốn sách “The Age of Discontinuity” (tạm dịch là “Thời đại của sự gián đoạn”) xuất bản năm 1969. Drucker đã đi trước thời đại khi nhấn mạnh vào kiến thức, kỹ năng phân tích dữ liệu và hiệu suất có thể đo lường, cũng như quản lý chiến lược theo mục tiêu (MBO).

Ủy ban châu Âu (2005) định nghĩa, kinh tế tri thức là khái niệm mô tả xu hướng của các nền kinh tế tiên tiến dựa ngày càng nhiều vào tri thức, thông tin, kỹ năng cao và khả năng tiếp cận nhanh chóng các nguồn lực này trong cả khu vực công lẫn tư. Walter W. Powell và Kaisa Snellman (2004) cho rằng, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ dựa trên các hoạt động chuyên sâu về tri thức, góp phần vào việc thúc đẩy tốc độ phát triển của khoa học và kỹ thuật một cách nhanh chóng.

Đặc trưng của nền kinh tế tri thức tập trung vào tầm quan trọng thiết yếu của tri thức, kỹ năng, khoa học, kỹ thuật cao và đổi mới sáng tạo... Bên cạnh đó là tỉ lệ lao động có tư duy, tay nghề cao, những người có công việc đòi hỏi kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn cao, không giống như trước đây, khi nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào lao động phổ thông và nguồn lực đầu vào chủ yếu là vật chất hoặc tài nguyên thiên nhiên.

2. Định hướng phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, phát triển nền kinh tế tri thức đang trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm phát triển bền vững. Đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển nền kinh tế tri thức không chỉ là yêu cầu khách quan, mà còn là sự lựa chọn chiến lược để tận dụng tối đa lợi thế dân số vàng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, định hướng phát triển nền kinh tế tri thức đã và đang được thể hiện rõ nét trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như các chiến lược, quyết định của Chính phủ, qua đó đặt nền móng cho việc đưa tri thức trở thành nguồn lực sản xuất trực tiếp, tạo động lực tăng trưởng mới cho đất nước.

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001 đã khẳng định: "Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất"1. Theo đó, một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế tri thức là phát triển kinh tế dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006 cũng đã đề ra chủ trương:“Tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”; "Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức"...2

Tiếp nối những định hướng quan trọng đó, trong giai đoạn gần đây, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới nhằm thích ứng với bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình phát triển kinh tế tri thức. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đặt những trụ cột này là “đột phá chiến lược”, là trọng tâm để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nước nhà. Theo Nghị quyết này, Bộ Chính trị cũng đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số của Việt Nam sẽ đạt khoảng 30% GDP, đồng thời Việt Nam sẽ nằm trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và nhóm 3 ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số. Ngày 09/01/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW với các chỉ tiêu cụ thể về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tỉ lệ doanh nghiệp có đổi mới sáng tạo, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), nâng cao trình độ công nghệ, hiệu quả liên kết giữa nghiên cứu và ứng dụng trong thực tế…

Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành các bộ luật nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho việc quản lý, đầu tư, thương mại hóa và bảo hộ tri thức trong nền kinh tế tri thức. Cụ thể, Luật Dữ liệu năm 2024 (Luật số 60/2024/QH15) được Quốc hội thông qua ngày 30/11/2024, có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, quy định về việc xây dựng, phát triển, bảo vệ, quản trị, xử lý, sử dụng dữ liệu số. Luật bao gồm các nội dung về sàn dữ liệu, cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia, các sản phẩm, dịch vụ về dữ liệu số - một phần hạ tầng quan trọng cho nền kinh tế tri thức phát triển trong thời đại số. Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 (Luật số 71/2025/QH15) được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2025, có hiệu lực từ ngày 01/01/2026 quy định về phát triển công nghiệp công nghệ số, bao gồm các lĩnh vực như công nghiệp bán dẫn, AI, tài sản số, với mục tiêu khuyến khích đầu tư, phát triển hạ tầng, nhân lực, tạo ra cơ chế ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp công nghệ và thúc đẩy hoạt động sản xuất công nghệ trong nước.

Đặc biệt, ngày 27/6/2025, Quốc hội ban hành Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025 (Luật số 93/2025/QH15), có hiệu lực từ chính thức từ ngày 01/10/2025. Với việc ra đời của Luật này, các khái niệm kinh tế gắn với tri thức đã được đưa vào điều luật cụ thể. Chẳng hạn, điểm i khoản 4 Điều 3 đưa ra khái niệm hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong đó có bao gồm: “Hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng tạo tri thức và hoạt động liên quan khác”; khoản 7 Điều 3 giải thích khái niệm “Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu khoa học sử dụng tri thức khoa học để tạo ra giải pháp phục vụ nhu cầu thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh, đời sống kinh tế - xã hội”. Ngoài ra, Luật cũng thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi cụ thể của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, nhà khoa học và các chủ thể trong nền kinh tế tri thức như trong Điều 10 về Trách nhiệm phổ biến, lan tỏa tri thức khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Điều 11 về Khuyến khích sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất; Điều 55 về “Ưu đãi đối với cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Một số nội dung cụ thể như sau:

(i) Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân lan tỏa tri thức, công bố thông tin hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên Hệ thống thông tin quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc theo các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 10); Nhà nước hỗ trợ tài chính cho hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, truyền thông khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phổ biến tri thức thông qua việc tài trợ, hỗ trợ hoạt động theo cơ chế phù hợp (khoản 1 Điều 11).

(ii) Tổ chức, cá nhân được hưởng ưu đãi thuế khi đầu tư vào sản phẩm dựa trên kết quả nghiên cứu trong nước (khoản 1 Điều 10); Cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; được ưu tiên trong bổ nhiệm, tuyển dụng, bố trí vị trí việc làm, thu nhập, thuế thu nhập cá nhân, lao động, nhà ở, xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú và cấp giấy phép lao động (khoản 1 Điều 55).

Có thể thấy, thông qua hàng loạt các Nghị quyết của Bộ Chính trị, văn bản pháp luật, hay chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…, Nhà nước đang nhấn mạnh vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nền kinh tế tri thức. Các văn bản luật đã và đang hoàn thiện cơ chế bảo đảm pháp lý cho việc sản xuất, phân phối và thương mại hóa tri thức như một loại hàng hóa đặc biệt, qua đó tạo dựng cơ sở pháp lý để hình thành một nền kinh tế tri thức - yếu tố được xem là động lực của các quốc gia phát triển như hiện nay.

3. Phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

3.1. Một số kết quả đạt được

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã ghi nhận nhiều bước tiến quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức gắn liền với quá trình chuyển đổi số quốc gia:

Thứ nhất, hạ tầng số phát triển mạnh, tỉ trọng kinh tế số gia tăng

Hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, Chính phủ đang đẩy mạnh phát triển toàn diện hạ tầng kỹ thuật số bao gồm: Hạ tầng viễn thông, hạ tầng trung tâm dữ liệu, hạ tầng điện toán đám mây, hạ tầng Internet vạn vật (IoT), hạ tầng an ninh mạng, hạ tầng nền tảng số (Digital Platforms), hạ tầng phần cứng và mạng lưới kết nối. Trong đó, đến tháng 02/2025, 89,6% thuê bao di động tại Việt Nam được ghi nhận sử dụng điện thoại thông minh, tốc độ tải xuống băng rộng di động đạt 144,5 Mbps, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong số 103 quốc gia. So với tháng 12/2024, tốc độ này tăng 66,17%, thăng hạng 18 bậc, cho thấy sự tiến bộ của mạng di động trong nước, đặc biệt sau khi 5G chính thức được thương mại hóa2. Đặc biệt, Việt Nam tiếp tục đón đầu xu thế công nghệ, thúc đẩy triển khai các giao thức Internet mới như Ipv6, IPv6 only cho giai đoạn 2026 - 2030, mở ra không gian mới về Internet, phát triển Internet công nghiệp, đổi mới sáng tạo tạo ra dịch vụ mới. Tính đến tháng 6/2025, tỉ lệ ứng dụng IPv6 của Việt Nam đạt 65,5%, đứng thứ 7 toàn cầu. Lộ trình triển khai IPv6 only đến năm 2030 được minh họa trong Hình 1.

Hình 1: Lộ trình triển khai IPv6 only của Việt Nam đến năm 2030

Nguồn: Trung tâm Internet Việt Nam
Nguồn: Trung tâm Internet Việt Nam

Về tỉ trọng kinh tế số, theo Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến hết quý I/2025, tỉ trọng kinh tế số trên GDP đạt khoảng 18,72%, tỉ lệ tăng trưởng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó cơ cấu kinh tế số bao gồm: Kinh tế số lõi chiếm 8,63%; kinh tế số lan tỏa chiếm 10,09%. Về công nghiệp công nghệ số, doanh thu lũy kế 6 tháng đầu năm đạt 2.289.627 tỉ đồng, tăng gần 21% so với cùng kỳ năm 2024, đạt 54% kế hoạch năm 2025. Lợi nhuận đạt 158.326 tỉ đồng, tăng gần 20% so với cùng kỳ năm 2024, đạt 57% kế hoạch năm 2025. Công nghiệp công nghệ số nộp ngân sách nhà nước đạt 30.773 tỉ đồng, tăng gần 23% so với cùng kỳ năm 2024 và đạt 57% kế hoạch năm 2025. Đóng góp vào GDP đạt 479.836 tỉ đồng, tăng 21% so với năm 2024 và đạt gần 53% kế hoạch năm 2025. Kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử đạt 81 tỉ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm 2024 và đạt 51% kế hoạch năm 20253.

Thứ hai, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo từng bước hình thành và phát triển mạnh mẽ

Không chỉ tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, Việt Nam đang từng bước hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện, sẵn sàng thu hút nhân tài, công nghệ và nguồn vốn toàn cầu, đặc biệt là từ khu vực tư nhân, nhằm thúc đẩy các ngành công nghệ tiên phong và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo Báo cáo Đổi mới sáng tạo và Đầu tư tư nhân Việt Nam năm 2025 của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) - Bộ Tài chính phối hợp với Tổ chức Phát triển Đầu tư vốn tư nhân Việt Nam (VPCA) và Tập đoàn Tư vấn Boston (BCG) thực hiện, Việt Nam đã ghi nhận 2,3 tỉ USD vốn đầu tư được giải ngân qua 141 thương vụ trong năm 2024. Điều này cho thấy niềm tin của nhà đầu tư vào các yếu tố nền tảng vững chắc của Việt Nam, trong bối cảnh dòng vốn đầu tư mạo hiểm và vốn cổ phần tư nhân toàn cầu suy yếu. Đáng chú ý, các lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech), AI, thương mại điện tử và công nghệ xanh tiếp tục dẫn đầu về số lượng thương vụ cũng như giá trị đầu tư.

Về hệ sinh thái khởi nghiệp, trong những năm qua, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Ba thành phố lớn gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng đã được xếp hạng trong top 1.000 thành phố khởi nghiệp hàng đầu thế giới, phản ánh nỗ lực chung ở cả cấp quốc gia và địa phương. Từ khuôn khổ chính sách đến năng lượng khởi nghiệp cơ sở, hệ sinh thái đang phát triển nhanh chóng. Báo cáo Chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu năm 2025 do StartupBlink công bố ngày 20/5/2025 cho thấy, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đã tăng 1 bậc lên thứ 55 toàn cầu, duy trì đà tăng trưởng bền vững. Cả ba thành phố lớn của Việt Nam đều có sự thăng tiến, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh lần đầu lọt Top 5 Đông Nam Á và Đà Nẵng tăng đột phá 130 bậc lên vị trí 766 toàn cầu. Điều này khẳng định sự trưởng thành nhanh chóng của hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam, đồng thời phản ánh sức hút mạnh mẽ của thị trường trong mắt nhà đầu tư quốc tế. Sự hiện diện ngày càng lớn của các trung tâm đổi mới sáng tạo, cũng như sự hỗ trợ tích cực từ các chương trình quốc gia đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phát triển.

Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực trí thức ngày càng nâng cao

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp”. Theo đó, chất lượng nguồn nhân lực trí thức, khoa học, công nghệ của đất nước đã có bước tiến đáng kể về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề. Đội ngũ trí thức Việt Nam ngày càng đông đảo, phân bố rộng khắp trên nhiều lĩnh vực then chốt như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, tài chính - ngân hàng, năng lượng tái tạo... Số lượng tiến sĩ, thạc sĩ, kỹ sư và chuyên gia có tay nghề cao không ngừng tăng, trong đó nhiều người đã khẳng định vị thế trong các công trình nghiên cứu quốc tế, tham gia chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Số lượng chuyên gia, nhà khoa học trong nước ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Tính riêng các nhà khoa học đang công tác trong lĩnh vực giáo dục, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2024 cán bộ giảng viên đã công bố được 9.249 bài báo trên các tạp chí khoa học uy tín trong nước, chất lượng các công bố ngày càng được nâng cao, thể hiện sự quan tâm của các đơn vị trong việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu - công bố - phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học. Số lượng công bố khoa học Q1, Q2 trên tạp chí thuộc danh mục Web of Science (WoS) năm 2024 là 2.258 bài (Q1 là chỉ số xếp hạng 25% nhóm tạp chí hàng đầu; Q2 là chỉ số xếp hạng 25% nhóm tạp chí tiếp theo, từ vị trí 25% đến 50% dựa trên các tiêu chí ảnh hưởng, uy tín và độ trích dẫn), số lượng công bố khoa học trên tạp chí thuộc cơ sở dữ liệu Scopus năm 2024 là 3.202 bài; công bố khoa học trên tạp chí quốc tế khác như công bố trên tạp chí khoa học thuộc cơ sở dữ liệu ACI là 730 bài, công bố quốc tế khác là 1.450 bài4.

Đặc biệt, với cộng đồng trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, tính đến đầu năm 2025, số lượng người có trình độ đại học trở lên chiếm khoảng hơn 10% trong tổng số 6 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, tương đương khoảng 600.000 người, gồm hai bộ phận là trí thức từ trong nước ra nước ngoài học tập, làm việc và trí thức là con em thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư của người Việt ở nước ngoài, tập trung chủ yếu ở các nước phương Tây5. Lực lượng này không chỉ giữ vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, văn hóa và trí tuệ người Việt Nam ra thế giới, mà còn là nguồn lực quý báu đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Nhiều trí thức kiều bào đã khẳng định được vị thế trong các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới, cũng như tại các tập đoàn công nghệ, tài chính toàn cầu, từ đó tạo ra cầu nối tri thức, công nghệ và vốn đầu tư giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Thông qua các chương trình hợp tác khoa học, công nghệ, chuyển giao công nghệ cao, cố vấn chính sách và hỗ trợ khởi nghiệp, đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đang góp phần tích cực vào quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng.

3.2. Một số hạn chế

Bên cạnh những thành tựu, phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều hạn chế như:

Thứ nhất, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa bộ, ngành và địa phương trong việc cụ thể hóa chính sách đã phát triển các lĩnh vực liên quan đến kinh tế tri thức. Trên thực tế, để thực hiện chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, vẫn còn thiếu công cụ cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu trong việc thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ dựa trên tri thức. Các chỉ số đo lường kết quả trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa được xây dựng đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong việc xác định mức độ thành công cũng như điều chỉnh kịp thời khi có vướng mắc xảy ra. Mối liên hệ giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và khu vực sản xuất - kinh doanh cũng chưa thực sự bền chặt, khiến nhiều kết quả nghiên cứu khó được ứng dụng trong thực tiễn.

Thứ hai, nguồn lực cho hoạt động R&D vẫn còn hạn chế. Trên thực tế, nguồn lực tài chính cho hoạt động R&D còn hạn hẹp, chưa đủ để tạo ra các nghiên cứu đột phá, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao. Đến tháng 02/2025, đầu tư cho R&D ở Việt Nam chỉ đạt 0,5% GDP, bằng một phần tư so với mục tiêu 2%6 (Nghị quyết số 57-NQ/TW đặt ra mục tiêu đến năm 2030, kinh phí chi cho R&D đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển). Không chỉ thiếu hụt về tài chính, nguồn lực cho R&D ở Việt Nam còn gặp khó khăn ở khâu phân bổ và sử dụng chưa thật sự hiệu quả. Điều này cho thấy Việt Nam cần có những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ hơn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực R&D, nếu muốn bắt kịp tốc độ phát triển công nghệ toàn cầu và hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia dựa trên kinh tế tri thức.

Thứ ba, tồn tại khoảng cách phát triển giữa các khu vực, vùng, miền. Tại Việt Nam, khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn hạn chế trong tiếp cận hạ tầng số và dịch vụ tri thức, tạo ra sự bất bình đẳng trong phát triển kinh tế tri thức. Nhiều địa phương chưa được phủ sóng Internet tốc độ cao ổn định, trong khi tỉ lệ người dân có kỹ năng số cơ bản còn thấp, dẫn đến khó khăn trong việc khai thác các dịch vụ trực tuyến và cơ hội học tập, việc làm trong môi trường số. Khoảng cách này không chỉ cản trở quá trình chuyển đổi số toàn diện mà còn làm chậm lại tiến trình hội nhập và phát triển bền vững của đất nước.

Thứ tư, tình trạng chảy máu chất xám vẫn đang là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, song vẫn tồn tại tình trạng một bộ phận lớn trí thức, chuyên gia, sinh viên giỏi sau khi học tập ở nước ngoài không quay trở về, hoặc lựa chọn làm việc lâu dài cho các tập đoàn, viện nghiên cứu tại các quốc gia phát triển. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự chênh lệch về môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ, cơ hội nghiên cứu và khả năng phát triển nghề nghiệp. Thực trạng này không chỉ làm suy giảm nguồn lực trí tuệ trong nước mà còn tạo ra thách thức lớn cho Việt Nam trong việc hình thành và phát triển một nền kinh tế tri thức dựa trên đổi mới sáng tạo.

4. Một số kiến nghị nhằm phát triển nền kinh tế tri thức Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ và nhất quán để phát triển kinh tế tri thức. Trong đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm các chính sách liên quan đến khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục - đào tạo, chuyển đổi số được triển khai hài hòa và bổ trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó, cần thiết lập các công cụ hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu, như quỹ đổi mới sáng tạo, có các chương trình hỗ trợ thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ… nhằm khuyến khích các chủ thể mạnh dạn đầu tư và đưa sản phẩm tri thức ra thị trường.

Thứ hai, tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho R&D. Việt Nam cần có lộ trình cụ thể để đạt mục tiêu đầu tư cho R&D bằng 2% GDP vào năm 2030, đồng thời khuyến khích sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân, doanh nghiệp FDI và các quỹ đầu tư mạo hiểm. Cùng với việc gia tăng nguồn lực, cần cải thiện cơ chế phân bổ, giám sát và sử dụng vốn đầu tư cho khoa học, công nghệ nhằm bảo đảm hiệu quả, tránh dàn trải, trùng lặp.

Thứ ba, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền. Theo đó, cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hạ tầng số ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm người dân có điều kiện tiếp cận Internet tốc độ cao với chi phí hợp lý. Song song, cần phát triển các chương trình phổ cập kỹ năng số, hỗ trợ đào tạo trực tuyến và khuyến khích doanh nghiệp triển khai dịch vụ số tới cộng đồng khó tiếp cận. Điều này không chỉ tạo sự công bằng trong phát triển kinh tế tri thức mà còn góp phần thúc đẩy hội nhập xã hội toàn diện.

Thứ tư, tiếp tục phát triển và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhà nước, các cơ sở nghiên cứu cần ban hành các chính sách đãi ngộ thỏa đáng, tạo môi trường làm việc minh bạch, chuyên nghiệp, đồng thời mở rộng cơ hội nghiên cứu và thăng tiến nghề nghiệp để thu hút và giữ chân nhân tài, tạo điều kiện cho các trí thức trẻ phát huy năng lực và gắn bó với thị trường lao động trong nước. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hợp tác giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện nghiên cứu - trường đại học để hình thành chuỗi giá trị tri thức, hỗ trợ phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo để các ý tưởng tri thức nhanh chóng được thương mại hóa và lan tỏa trong nền kinh tế.

5. Kết luận

Phát triển nền kinh tế tri thức là con đường tất yếu để Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới. Những thành tựu bước đầu trong phát triển hạ tầng số, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Tuy nhiên, các hạn chế về thể chế, nguồn lực R&D, khoảng cách số và tình trạng chảy máu chất xám đang đặt ra nhiều thách thức cần được giải quyết kịp thời và đồng bộ. Việc thực hiện các giải pháp đề xuất như hoàn thiện thể chế chính sách, tăng cường đầu tư cho R&D, phát triển nhân lực chất lượng cao... sẽ là những động lực quan trọng để Việt Nam sớm hình thành và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tri thức, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm tăng trưởng nhanh, bền vững trong giai đoạn tới.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật năm 2001, trang 13, 91.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật năm 2006, trang 25, 28, 29.

3 Song Hà (2025), Phát triển hạ tầng số - nền tảng để bứt phá trong chuyển đổi số quốc gia, https://quocphongthudo.vn/thoi-su-chinh-tri/trong-nuoc/phat-trien-ha-tang-so-nen-tang-de-but-pha-trong-chuyen-doi-so-quoc-gia.html

4 Lê Lâm (2015), Tỉ trọng kinh tế số trên GDP đạt khoảng 18,72%, tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng, https://nhandan.vn/ty-trong-kinh-te-so-tren-gdp-dat-khoang-1872-tiep-tuc-la-dong-luc-tang-truong-quan-trong-post898819.html

5 Nguyễn Hoa Trà (2025), Hơn 9.000 bài báo khoa học của cán bộ giảng viên được công bố trong năm 2024, https://www.nguoiduatin.vn/hon-9000-bai-bao-khoa-hoc-cua-can-bo-giang-vien-duoc-cong-bo-trong-nam-2024-204250314195127516.htm

6 Tạp chí Cộng sản, Thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài cho phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1046902/thu-hut-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai--cho-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc---cong-nghe.aspx#

7 Báo Vietnambiz, Việt Nam chi khoảng 0,5% GDP cho R&D, các nước khác thế nào và bài học rút ra là gì? https://vietnambiz.vn/viet-nam-chi-khoang-05-gdp-cho-rd-cac-nuoc-khac-the-nao-va-bai-hoc-rut-ra-la-gi-202521910569704.htm

Tài liệu tham khảo

1. Báo Vietnambiz, Việt Nam chi khoảng 0,5% GDP cho R&D, các nước khác thế nào và bài học rút ra là gì? https://vietnambiz.vn/viet-nam-chi-khoang-05-gdp-cho-rd-cac-nuoc-khac-the-nao-va-bai-hoc-rut-ra-la-gi-202521910569704.htm

2. Corporate Finance Institute, Knowledge Economy, https://corporatefinanceinstitute.com/resources/economics/knowledge-economy/

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật năm 2001, trang 13, 91.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật năm 2006, trang 25, 28, 29.

5. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

6. Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 (Luật số 71/2025/QH15).

7. Luật Dữ liệu năm 2024 (Luật số 60/2024/QH15).

8. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025 (Luật số 93/2025/QH15).

9. Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW.

10. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

11. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

12. Nguyễn Hoa Trà (2025), Hơn 9.000 bài báo khoa học của cán bộ giảng viên được công bố trong năm 2024, https://www.nguoiduatin.vn/hon-9000-bai-bao-khoa-hoc-cua-can-bo-giang-vien-duoc-cong-bo-trong-nam-2024-204250314195127516.htm

13. Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/05/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.

14. Song Hà (2025), Phát triển hạ tầng số - nền tảng để bứt phá trong chuyển đổi số quốc gia, https://quocphongthudo.vn/thoi-su-chinh-tri/trong-nuoc/phat-trien-ha-tang-so-nen-tang-de-but-pha-trong-chuyen-doi-so-quoc-gia.html

15. Tạp chí Cộng sản, Thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài cho phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1046902/thu-hut-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai--cho-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc---cong-nghe.aspx#

16. Walter W. Powell & Kaisa Snellman (2004), The knowledge economy, doi: 10.1146/annurev.soc.29.010202.100037, https://scholar.harvard.edu/files/kaisa/files/powell_snellman.pdf

17. Lê Lâm (2015), Tỉ trọng kinh tế số trên GDP đạt khoảng 18,72%, tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng, https://nhandan.vn/ty-trong-kinh-te-so-tren-gdp-dat-khoang-1872-tiep-tuc-la-dong-luc-tang-truong-quan-trong-post898819.html

Phạm Trang
NHNN

Tin bài khác

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Xem thêm
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Xu hướng phát triển ngân hàng xanh thúc đẩy phát triển bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân hàng xanh (green banking) ngày càng trở thành một xu hướng quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng. Ngân hàng xanh không chỉ thực hiện mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh doanh mà còn tập trung vào việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Tăng cường an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua cơ chế xếp hạng theo Thông tư số 21/2025/TT-NHNN

Thông tư số 21/2025/TT-NHNN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa khuôn khổ giám sát ngân hàng tại Việt Nam, thể hiện rõ định hướng chuyển đổi từ mô hình giám sát tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn sau tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc triển khai hiệu quả Thông tư số 21/2025/TT-NHNN không chỉ giúp nâng cao an toàn, ổn định và khả năng chống chịu của hệ thống tài chính - ngân hàng mà còn hỗ trợ thúc đẩy tính minh bạch, kỷ luật thị trường và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong môi trường hội nhập sâu rộng.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô