Những tác động mạnh mẽ của cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Từ khi ra đời vào năm 2015 đến nay, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho nền kinh tế khu vực mà còn ứng phó, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Tham gia AEC mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài và cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
aa

Từ khi ra đời vào năm 2015 đến nay, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho nền kinh tế khu vực mà còn ứng phó, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Tham gia AEC mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài và cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh cơ hội mở ra, việc tham gia AEC cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

1. Quá trình hình thành và phát triển của AEC

Vào ngày 22/11/2015, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 diễn ra tại Thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia, lãnh đạo 10 quốc gia thành viên ASEAN đã đặt bút kí văn kiện lịch sử, tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN (AC), trong đó nêu rõ sự hình thành của AC tạo ra một dấu mốc trong tiến trình liên kết, bảo đảm hòa bình, an ninh và tự cường dài lâu trong một khu vực hướng ra bên ngoài với các nền kinh tế năng động, cạnh tranh và liên kết sâu, rộng. Ngày 31/12/2015, AC chính thức được thành lập với ba trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), AEC và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC).

Trong ba bộ phận hợp thành AC thì AEC được xem là đòn bẩy chính trong chính sách phát triển của các nước. Việc hình thành AEC có khởi nguồn từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 2010, từ đó đến nay, vấn đề liên kết và kết nối kinh tế ASEAN không ngừng mở rộng. Các liên kết ấy được thể hiện sinh động qua bốn đặc trưng của AEC, đó là: (i) Một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất gắn liền với lưu chuyển thuận lợi của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kĩ năng và vốn; (ii) Một khu vực kinh tế cạnh tranh; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều; (iv) Một khu vực hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Mục tiêu chính của AEC là thúc đẩy tự do trong khu vực của năm yếu tố kinh tế thiết yếu gồm: Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề - để tăng cường tính cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở sản xuất thống nhất.

AEC là một trong bốn khối mậu dịch quan trọng của thế giới. Với hơn 600 triệu dân, GDP chung của ASEAN lớn hơn của Ấn Độ và bằng khoảng 30% GDP của Trung Quốc năm 2012. Với tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các thị trường mới nổi, GDP của ASEAN đạt hơn 3.000 tỉ USD năm 2017, GDP bình quân đầu người của ASEAN sẽ tăng hơn 50% từ 3.600 tỉ USD năm 2012 đạt đến 5.800 tỉ USD năm 2017. Trong hơn một thập kỉ qua, thương mại nội khối ASEAN đạt khoảng 750 tỉ USD. AEC hiện là nền kinh tế lớn thứ năm toàn cầu với GDP đạt 3.100 tỉ USD, đứng sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU)... Tổng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN tăng từ 108 tỉ USD năm 2010 lên 174 tỉ USD năm 2021, đưa ASEAN trở thành nơi nhận FDI lớn thứ 3 trên thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc.

2. Tác động của AEC đến Việt Nam

Những tác động tích cực

Trên chặng đường gần 60 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ quy mô ban đầu với năm thành viên sáng lập, sau bốn lần mở rộng, ngày nay đã quy tụ được sự tham gia của 10 nước Đông Nam Á. Với vị thế địa - kinh tế như nằm ở vị trí nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, ASEAN cũng có thể được coi là vùng đệm giữa Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như giữa Trung Quốc và Nhật Bản, từ đó, ASEAN trở thành con đường vận chuyển thương mại lớn của thế giới (80% dầu lửa của Nhật Bản), là vựa lúa lớn của thế giới (Thái Lan và Việt Nam)… Và ASEAN đã trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á, hợp tác của ASEAN đã bao gồm hợp tác nội vùng và với các nước bên ngoài. Từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên thành khu vực phát triển kinh tế năng động với tổng thu nhập GDP hơn 3.000 tỉ USD, không chỉ hội nhập sâu rộng vào cấu trúc an ninh và kinh tế toàn cầu, mà còn là một khu vực năng động với nhiều cơ hội và triển vọng phát triển to lớn. Thành công và thành quả quan trọng nhất của ASEAN là trở thành hạt nhân và đầu tàu cho quá trình hợp tác và liên kết châu lục mà không có đối tác nào khác có thể thay thế.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, căng thẳng như hiện nay, đang đặt ra cho ASEAN nhiều thách thức cả từ bên trong và bên ngoài tổ chức. Đến nay, AEC đã hoàn thành hơn 90% các biện pháp trong lộ trình nhưng phần còn lại đều là những vấn đề khó khăn, không dễ giải quyết, đòi hỏi các nước thành viên phải nỗ lực rất lớn với quyết tâm chính trị cao. Rõ ràng khó khăn là không ít, nhưng việc tham gia AEC cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài, cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam đã tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của ASEAN, là một thành viên đi đầu trong các hoạt động của ASAEN, nhất là trong cuộc vận động xây dựng AC nói chung và AEC nói riêng.

Để hội nhập sâu, rộng vào AEC, vào năm 2015, Việt Nam đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Malaysia và Philippines, đồng thời hoàn thành xây dựng khuôn khổ đối tác chiến lược với các nước có vai trò quan trọng trên thế giới và trong khu vực như: Canada, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Điều đó cho thấy Việt Nam hết sức coi trọng việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Nếu xét về mặt kinh tế, thì 15 nước đối tác chiến lược và 10 nước đối tác toàn diện đã chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài. Như vậy, đối với người dân, dù là người sản xuất hay người tiêu dùng đều được hưởng lợi từ những thành quả về quan hệ kinh tế, thương mại với các nước phát triển. Bởi những nước này cũng là các nước nhập khẩu hầu hết các sản phẩm mà Việt Nam sản xuất ra để xuất khẩu như nông sản, dệt may, giày dép, hàng điện tử. Ngược lại, người dân Việt Nam cũng tiêu dùng các sản phẩm nhập khẩu phần lớn từ các nước này. Đây là những lợi ích hết sức cụ thể để Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước trên thế giới.

Một cơ hội khác cho Việt Nam khi tham gia AEC, đó là sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong AC sẽ không còn bị giới hạn bởi hàng rào bảo hộ, cũng như chính sách thuế quan sẽ trở về con số 0%. Đây chính là thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực ASEAN có nhiều chuyển biến tích cực. Từ các mặt hàng nông sản, thủy sản, khoáng sản truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến và công nghệ cao. Có thể nói, việc tham gia hợp tác giữa các quốc gia trong AEC xuất phát từ những thành tựu mà chúng ta đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước, tất cả yếu tố đó đã tạo niềm tin cho các đối tác trong AC, giúp họ tăng cường mở rộng các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, dịch vụ, đầu tư với Việt Nam. Để tạo đà thuận lợi cho quá trình xây dựng AEC, Việt Nam đã khẩn trương tham gia Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Đây là cơ hội lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, bởi vì, khi tham gia vào ATIGA thì người tiêu dùng không chỉ được hưởng giá rẻ của đầu vào sản xuất mà hàng hóa tiêu dùng cũng rẻ hơn.

Ngoài các cơ hội trên, khi tham gia vào AEC, Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác ngày càng sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực khác như: Văn hóa - xã hội, khoa học kĩ thuật, giáo dục và đào tạo, y tế… với các nước trong AC. Đồng thời, cũng mở ra cơ hội hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác bên ngoài, nhất là các nước đối thoại với AC.

Một số thách thức

Nhìn vào sự phát triển của các nước trong AC thì rõ ràng khi tham gia vào AEC, bên cạnh những tác động tích cực, Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do xuất phát điểm kinh tế thấp, sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Đây là một trong những thách thức lớn ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của đất nước. Nếu không vượt lên chính mình, Việt Nam có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình và dẫn đến tụt hậu. Ngoài những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam, khi tham gia AEC, Việt Nam còn gặp phải những trở ngại, thách thức khác như là:

- Về mặt lí thuyết, AEC không chỉ đẩy mạnh thương mại nội khối mà còn thu hút đầu tư nước ngoài trong toàn khu vực. Thế nhưng, tác dụng thúc đẩy thương mại nội khối của AEC có thể không nhiều do cộng đồng này tiếp tục phải chịu tác động của các rào cản thương mại và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Đến nay các nước trong khối ASEAN vẫn chưa thể dỡ bỏ hết những rào cản thương mại về con số 0%. Một số quốc gia chủ chốt của ASEAN chưa muốn cắt giảm các hạng mục thuế quan quan trọng nhất của mình, trong khi nhiều rào cản trong số đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tiến trình tự do hóa thương mại nội khối.

- Về sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước, những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn trong khối lo ngại sự xâm nhập của các nền kinh tế phát triển hơn. Trong khi đó, các thành viên có nền kinh tế phát triển ở mức cao trong khu vực sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ các ngành sản xuất hiện đại như công nghiệp nặng, hóa chất, dược phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng và các ngành dịch vụ khác...

- Các nước trong AEC vẫn chưa đạt được toàn bộ các mục tiêu đề ra theo chỉ số do AEC công bố năm 2015. Nguyên nhân cơ bản là do các nước thành viên vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thương mại hóa của Việt Nam.

3. Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng tầm vị thế trong khu vực và thế giới

Thứ nhất, xây dựng tầm nhìn chiến lược trong quá trình hội nhập

Về tầm nhìn chiến lược trong quá trình hội nhập, Việt Nam cần ưu tiên phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác kinh tế với các nước láng giềng ở Đông Bắc Á, nhất là quan hệ hữu nghị với các nước trong AEC. Đây là nền tảng trong chính sách hội nhập bền vững và là cơ sở cho sự phát triển toàn diện chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế song phương và đa phương của quốc gia. Trong đó, Việt Nam cần chủ động phối hợp với các nước trong AEC xây dựng và hoàn thiện các thể chế hợp tác về luật pháp. Đồng thời, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với những đối tác chiến lược mở rộng của ASEAN như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hoa Kỳ… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tích cực thực hiện những chương trình sáng kiến hợp tác khu vực như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Bởi RCEP sẽ giúp Việt Nam tăng cường vị thế thương mại và thúc đẩy quá trình phục hồi hậu đại dịch; đẩy mạnh xuất khẩu và tiếp cận tốt hơn với các thị trường tiêu dùng lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia bằng cách giúp các nhà sản xuất tại Việt Nam giảm thiểu chi phí và tiếp cận chuỗi cung ứng khắp khu vực châu Á - Thái Bình Dương…

Thứ hai, xây dựng các thể chế, chính sách phù hợp trong bối cảnh hội nhập

Nhà nước cần xây dựng, ban hành chính sách phát triển môi trường kinh doanh, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh, đúng pháp luật, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, đổi mới nghiên cứu và phát triển. Đó là cơ sở cần thiết để tạo ra năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời, cần đẩy mạnh một số ngành công nghiệp có khả năng tạo bước đột phá như nông nghiệp, logistics, năng lượng, kinh tế biển, công nghệ cao…

Thứ ba, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế

Việc thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và bảo đảm sự vận hành của thị trường diễn ra phù hợp với quy luật khách quan. Với việc cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp có được những cơ hội trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đồng thời, cạnh tranh mang lại những đóng góp tích cực cho thị trường và xã hội. Qua đó, người tiêu dùng được hưởng mức giá cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao. Cạnh tranh là điều kiện quan trọng, tiên quyết để thúc đẩy quá trình tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế bền vững. Về mặt chiến lược phát triển, doanh nghiệp cần nắm chắc thị phần bản địa và từng bước phát triển ra AEC, Đông Bắc Á và thế giới theo mục tiêu, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Thứ tư, xây dựng văn hóa kinh doanh, thích ứng với hội nhập

Xây dựng văn hóa kinh doanh đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Trong bối cảnh đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế khu vực ASEAN, Việt Nam cần đề cao văn hóa, đạo đức kinh doanh, trân trọng đối tác, nhà đầu tư, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Việc xây dựng AEC là kết quả nỗ lực vượt bậc với không ít gian nan của các nước thành viên trong việc tìm kiếm mô hình phát triển và hợp tác phát triển mang đậm phong cách ASEAN. Đây còn là biểu hiện rõ nét sự trưởng thành của ý thức tự lực, tự cường, với khát vọng vươn lên xây dựng một AC sống trong hòa bình, đoàn kết, phát triển năng động, đồng đều và thịnh vượng. Trong thời điểm hiện nay, mặc dù còn không ít khó khăn, thách thức, song AC đang đứng trước nhiều cơ hội lịch sử nhằm đưa hợp tác liên kết lên tầm cao mới, đó là việc hiện thực hóa AEC. Nhìn lại chặng đường đã qua, nếu Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, thì Việt Nam hoàn toàn có khả năng hiện thực hóa những mục tiêu mà AEC đã đề ra và khi làm được điều này sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam hội nhập sâu, rộng với thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Ngọc An (2023), “Kỳ vọng một ASEAN tầm vóc”, Báo Tuổi trẻ, ngày 06/9/2023.

2. Khánh Bình (2023), “Hội nghị cấp cao ASEAN 42 - Hướng đến một cộng đồng Tầm vóc: Tâm điểm của tăng trưởng”, Hồ sơ Sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), ngày 25/5/2023.

3. Phạm Minh Chính (2023), “Sứ mệnh của ASEAN trong thế giới đa cực”, Báo Tuổi trẻ, ngày 05/9/2023

4. Phạm Ngọc Hòa (2015), “Những đóng góp và triển vọng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN sau năm 2015”, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 8/2015.

5. Đoàn Duy Khương (2023), “Việt Nam - ASEAN trên con đường phồn vinh, thịnh vượng”, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), ngày 10/8/2023.

6. Phan Ngọc Liên (2006), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. P. Hoontrakul, C. Balding, R. Marwah (2018), Châu Á chuyển mình, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

8. An Nhi (2015), “Thống nhất trong đa dạng”, Báo An ninh thế giới cuối tuần, số 171 (11/2015).


TS. Phạm Hữu Doanh (Trường Đại học Đà Lạt)

Phạm Ngọc Hòa (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Đồng Tháp)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Nợ xấu là thách thức lớn đối với sự ổn định tài chính, trong khi việc xử lý qua cơ quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn. Thừa phát lại được xem là giải pháp thay thế hỗ trợ các tổ chức tín dụng thu hồi nợ hiệu quả hơn, nhưng khung pháp lý hiện hành chưa tạo điều kiện phát huy vai trò này. Bài viết phân tích các quy định pháp luật liên quan, chỉ ra bất cập và tác động đến việc xử lý nợ xấu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý, tham khảo kinh nghiệm của Pháp.
Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Bài viết phân tích những thách thức lớn đối với ổn định của hệ thống tài chính quốc tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu gia tăng, bao gồm bất định kinh tế vĩ mô, định giá tài sản cao, đòn bẩy tài chính và sự phát triển nhanh của khu vực phi ngân hàng. Các rủi ro mang tính hệ thống có thể làm khuếch đại cú sốc thị trường và lan truyền toàn cầu. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chính sách như tăng cường quản trị rủi ro, kiểm soát đòn bẩy, mở rộng giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống tài chính.
Xem thêm
Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ - tài khóa từ các nền kinh tế lớn đến tỉ giá tại Việt Nam

Giai đoạn 2018 - 2023 được đánh giá là một trong những giai đoạn biến động của kinh tế toàn cầu khi một loạt các sự kiện bất thường, ngoài dự đoán đã xảy ra, ảnh hưởng đến môi trường vĩ mô cũng như hệ thống tài chính tại các quốc gia. Theo đó, các nền kinh tế lớn trên thế giới bao gồm Mỹ, EU, Trung Quốc có những điều chỉnh lớn về chính sách tiền tệ - tài khóa và những điều chỉnh này đã ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô toàn cầu như lãi suất, tỉ giá. Nhóm tác giả đã thực hiện khái quát những thay đổi chính trong điều hành chính sách tiền tệ - tài khóa của ba quốc gia lớn và ước lượng tác động đến tỉ giá tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, chỉ có những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ của Mỹ và EU mới có ảnh hưởng đến tỉ giá, còn sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc và chính sách tài khóa cơ bản không có nhiều tác động đến tỉ giá Việt Nam.
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng