Những tác động mạnh mẽ của cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Từ khi ra đời vào năm 2015 đến nay, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho nền kinh tế khu vực mà còn ứng phó, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Tham gia AEC mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài và cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
aa

Từ khi ra đời vào năm 2015 đến nay, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho nền kinh tế khu vực mà còn ứng phó, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Tham gia AEC mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài và cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh cơ hội mở ra, việc tham gia AEC cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

1. Quá trình hình thành và phát triển của AEC

Vào ngày 22/11/2015, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 diễn ra tại Thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia, lãnh đạo 10 quốc gia thành viên ASEAN đã đặt bút kí văn kiện lịch sử, tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN (AC), trong đó nêu rõ sự hình thành của AC tạo ra một dấu mốc trong tiến trình liên kết, bảo đảm hòa bình, an ninh và tự cường dài lâu trong một khu vực hướng ra bên ngoài với các nền kinh tế năng động, cạnh tranh và liên kết sâu, rộng. Ngày 31/12/2015, AC chính thức được thành lập với ba trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), AEC và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC).

Trong ba bộ phận hợp thành AC thì AEC được xem là đòn bẩy chính trong chính sách phát triển của các nước. Việc hình thành AEC có khởi nguồn từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 2010, từ đó đến nay, vấn đề liên kết và kết nối kinh tế ASEAN không ngừng mở rộng. Các liên kết ấy được thể hiện sinh động qua bốn đặc trưng của AEC, đó là: (i) Một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất gắn liền với lưu chuyển thuận lợi của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kĩ năng và vốn; (ii) Một khu vực kinh tế cạnh tranh; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều; (iv) Một khu vực hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Mục tiêu chính của AEC là thúc đẩy tự do trong khu vực của năm yếu tố kinh tế thiết yếu gồm: Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề - để tăng cường tính cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở sản xuất thống nhất.

AEC là một trong bốn khối mậu dịch quan trọng của thế giới. Với hơn 600 triệu dân, GDP chung của ASEAN lớn hơn của Ấn Độ và bằng khoảng 30% GDP của Trung Quốc năm 2012. Với tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các thị trường mới nổi, GDP của ASEAN đạt hơn 3.000 tỉ USD năm 2017, GDP bình quân đầu người của ASEAN sẽ tăng hơn 50% từ 3.600 tỉ USD năm 2012 đạt đến 5.800 tỉ USD năm 2017. Trong hơn một thập kỉ qua, thương mại nội khối ASEAN đạt khoảng 750 tỉ USD. AEC hiện là nền kinh tế lớn thứ năm toàn cầu với GDP đạt 3.100 tỉ USD, đứng sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU)... Tổng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN tăng từ 108 tỉ USD năm 2010 lên 174 tỉ USD năm 2021, đưa ASEAN trở thành nơi nhận FDI lớn thứ 3 trên thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc.

2. Tác động của AEC đến Việt Nam

Những tác động tích cực

Trên chặng đường gần 60 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ quy mô ban đầu với năm thành viên sáng lập, sau bốn lần mở rộng, ngày nay đã quy tụ được sự tham gia của 10 nước Đông Nam Á. Với vị thế địa - kinh tế như nằm ở vị trí nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, ASEAN cũng có thể được coi là vùng đệm giữa Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như giữa Trung Quốc và Nhật Bản, từ đó, ASEAN trở thành con đường vận chuyển thương mại lớn của thế giới (80% dầu lửa của Nhật Bản), là vựa lúa lớn của thế giới (Thái Lan và Việt Nam)… Và ASEAN đã trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á, hợp tác của ASEAN đã bao gồm hợp tác nội vùng và với các nước bên ngoài. Từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên thành khu vực phát triển kinh tế năng động với tổng thu nhập GDP hơn 3.000 tỉ USD, không chỉ hội nhập sâu rộng vào cấu trúc an ninh và kinh tế toàn cầu, mà còn là một khu vực năng động với nhiều cơ hội và triển vọng phát triển to lớn. Thành công và thành quả quan trọng nhất của ASEAN là trở thành hạt nhân và đầu tàu cho quá trình hợp tác và liên kết châu lục mà không có đối tác nào khác có thể thay thế.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, căng thẳng như hiện nay, đang đặt ra cho ASEAN nhiều thách thức cả từ bên trong và bên ngoài tổ chức. Đến nay, AEC đã hoàn thành hơn 90% các biện pháp trong lộ trình nhưng phần còn lại đều là những vấn đề khó khăn, không dễ giải quyết, đòi hỏi các nước thành viên phải nỗ lực rất lớn với quyết tâm chính trị cao. Rõ ràng khó khăn là không ít, nhưng việc tham gia AEC cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài, cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam đã tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của ASEAN, là một thành viên đi đầu trong các hoạt động của ASAEN, nhất là trong cuộc vận động xây dựng AC nói chung và AEC nói riêng.

Để hội nhập sâu, rộng vào AEC, vào năm 2015, Việt Nam đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Malaysia và Philippines, đồng thời hoàn thành xây dựng khuôn khổ đối tác chiến lược với các nước có vai trò quan trọng trên thế giới và trong khu vực như: Canada, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Điều đó cho thấy Việt Nam hết sức coi trọng việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Nếu xét về mặt kinh tế, thì 15 nước đối tác chiến lược và 10 nước đối tác toàn diện đã chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài. Như vậy, đối với người dân, dù là người sản xuất hay người tiêu dùng đều được hưởng lợi từ những thành quả về quan hệ kinh tế, thương mại với các nước phát triển. Bởi những nước này cũng là các nước nhập khẩu hầu hết các sản phẩm mà Việt Nam sản xuất ra để xuất khẩu như nông sản, dệt may, giày dép, hàng điện tử. Ngược lại, người dân Việt Nam cũng tiêu dùng các sản phẩm nhập khẩu phần lớn từ các nước này. Đây là những lợi ích hết sức cụ thể để Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước trên thế giới.

Một cơ hội khác cho Việt Nam khi tham gia AEC, đó là sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong AC sẽ không còn bị giới hạn bởi hàng rào bảo hộ, cũng như chính sách thuế quan sẽ trở về con số 0%. Đây chính là thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực ASEAN có nhiều chuyển biến tích cực. Từ các mặt hàng nông sản, thủy sản, khoáng sản truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến và công nghệ cao. Có thể nói, việc tham gia hợp tác giữa các quốc gia trong AEC xuất phát từ những thành tựu mà chúng ta đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước, tất cả yếu tố đó đã tạo niềm tin cho các đối tác trong AC, giúp họ tăng cường mở rộng các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, dịch vụ, đầu tư với Việt Nam. Để tạo đà thuận lợi cho quá trình xây dựng AEC, Việt Nam đã khẩn trương tham gia Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Đây là cơ hội lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, bởi vì, khi tham gia vào ATIGA thì người tiêu dùng không chỉ được hưởng giá rẻ của đầu vào sản xuất mà hàng hóa tiêu dùng cũng rẻ hơn.

Ngoài các cơ hội trên, khi tham gia vào AEC, Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác ngày càng sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực khác như: Văn hóa - xã hội, khoa học kĩ thuật, giáo dục và đào tạo, y tế… với các nước trong AC. Đồng thời, cũng mở ra cơ hội hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác bên ngoài, nhất là các nước đối thoại với AC.

Một số thách thức

Nhìn vào sự phát triển của các nước trong AC thì rõ ràng khi tham gia vào AEC, bên cạnh những tác động tích cực, Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do xuất phát điểm kinh tế thấp, sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Đây là một trong những thách thức lớn ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của đất nước. Nếu không vượt lên chính mình, Việt Nam có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình và dẫn đến tụt hậu. Ngoài những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam, khi tham gia AEC, Việt Nam còn gặp phải những trở ngại, thách thức khác như là:

- Về mặt lí thuyết, AEC không chỉ đẩy mạnh thương mại nội khối mà còn thu hút đầu tư nước ngoài trong toàn khu vực. Thế nhưng, tác dụng thúc đẩy thương mại nội khối của AEC có thể không nhiều do cộng đồng này tiếp tục phải chịu tác động của các rào cản thương mại và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Đến nay các nước trong khối ASEAN vẫn chưa thể dỡ bỏ hết những rào cản thương mại về con số 0%. Một số quốc gia chủ chốt của ASEAN chưa muốn cắt giảm các hạng mục thuế quan quan trọng nhất của mình, trong khi nhiều rào cản trong số đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tiến trình tự do hóa thương mại nội khối.

- Về sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước, những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn trong khối lo ngại sự xâm nhập của các nền kinh tế phát triển hơn. Trong khi đó, các thành viên có nền kinh tế phát triển ở mức cao trong khu vực sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ các ngành sản xuất hiện đại như công nghiệp nặng, hóa chất, dược phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng và các ngành dịch vụ khác...

- Các nước trong AEC vẫn chưa đạt được toàn bộ các mục tiêu đề ra theo chỉ số do AEC công bố năm 2015. Nguyên nhân cơ bản là do các nước thành viên vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thương mại hóa của Việt Nam.

3. Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng tầm vị thế trong khu vực và thế giới

Thứ nhất, xây dựng tầm nhìn chiến lược trong quá trình hội nhập

Về tầm nhìn chiến lược trong quá trình hội nhập, Việt Nam cần ưu tiên phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác kinh tế với các nước láng giềng ở Đông Bắc Á, nhất là quan hệ hữu nghị với các nước trong AEC. Đây là nền tảng trong chính sách hội nhập bền vững và là cơ sở cho sự phát triển toàn diện chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế song phương và đa phương của quốc gia. Trong đó, Việt Nam cần chủ động phối hợp với các nước trong AEC xây dựng và hoàn thiện các thể chế hợp tác về luật pháp. Đồng thời, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với những đối tác chiến lược mở rộng của ASEAN như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hoa Kỳ… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tích cực thực hiện những chương trình sáng kiến hợp tác khu vực như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Bởi RCEP sẽ giúp Việt Nam tăng cường vị thế thương mại và thúc đẩy quá trình phục hồi hậu đại dịch; đẩy mạnh xuất khẩu và tiếp cận tốt hơn với các thị trường tiêu dùng lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia bằng cách giúp các nhà sản xuất tại Việt Nam giảm thiểu chi phí và tiếp cận chuỗi cung ứng khắp khu vực châu Á - Thái Bình Dương…

Thứ hai, xây dựng các thể chế, chính sách phù hợp trong bối cảnh hội nhập

Nhà nước cần xây dựng, ban hành chính sách phát triển môi trường kinh doanh, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh, đúng pháp luật, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, đổi mới nghiên cứu và phát triển. Đó là cơ sở cần thiết để tạo ra năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời, cần đẩy mạnh một số ngành công nghiệp có khả năng tạo bước đột phá như nông nghiệp, logistics, năng lượng, kinh tế biển, công nghệ cao…

Thứ ba, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế

Việc thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và bảo đảm sự vận hành của thị trường diễn ra phù hợp với quy luật khách quan. Với việc cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp có được những cơ hội trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đồng thời, cạnh tranh mang lại những đóng góp tích cực cho thị trường và xã hội. Qua đó, người tiêu dùng được hưởng mức giá cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao. Cạnh tranh là điều kiện quan trọng, tiên quyết để thúc đẩy quá trình tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế bền vững. Về mặt chiến lược phát triển, doanh nghiệp cần nắm chắc thị phần bản địa và từng bước phát triển ra AEC, Đông Bắc Á và thế giới theo mục tiêu, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Thứ tư, xây dựng văn hóa kinh doanh, thích ứng với hội nhập

Xây dựng văn hóa kinh doanh đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Trong bối cảnh đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế khu vực ASEAN, Việt Nam cần đề cao văn hóa, đạo đức kinh doanh, trân trọng đối tác, nhà đầu tư, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Việc xây dựng AEC là kết quả nỗ lực vượt bậc với không ít gian nan của các nước thành viên trong việc tìm kiếm mô hình phát triển và hợp tác phát triển mang đậm phong cách ASEAN. Đây còn là biểu hiện rõ nét sự trưởng thành của ý thức tự lực, tự cường, với khát vọng vươn lên xây dựng một AC sống trong hòa bình, đoàn kết, phát triển năng động, đồng đều và thịnh vượng. Trong thời điểm hiện nay, mặc dù còn không ít khó khăn, thách thức, song AC đang đứng trước nhiều cơ hội lịch sử nhằm đưa hợp tác liên kết lên tầm cao mới, đó là việc hiện thực hóa AEC. Nhìn lại chặng đường đã qua, nếu Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, thì Việt Nam hoàn toàn có khả năng hiện thực hóa những mục tiêu mà AEC đã đề ra và khi làm được điều này sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam hội nhập sâu, rộng với thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Ngọc An (2023), “Kỳ vọng một ASEAN tầm vóc”, Báo Tuổi trẻ, ngày 06/9/2023.

2. Khánh Bình (2023), “Hội nghị cấp cao ASEAN 42 - Hướng đến một cộng đồng Tầm vóc: Tâm điểm của tăng trưởng”, Hồ sơ Sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), ngày 25/5/2023.

3. Phạm Minh Chính (2023), “Sứ mệnh của ASEAN trong thế giới đa cực”, Báo Tuổi trẻ, ngày 05/9/2023

4. Phạm Ngọc Hòa (2015), “Những đóng góp và triển vọng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN sau năm 2015”, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 8/2015.

5. Đoàn Duy Khương (2023), “Việt Nam - ASEAN trên con đường phồn vinh, thịnh vượng”, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), ngày 10/8/2023.

6. Phan Ngọc Liên (2006), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. P. Hoontrakul, C. Balding, R. Marwah (2018), Châu Á chuyển mình, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

8. An Nhi (2015), “Thống nhất trong đa dạng”, Báo An ninh thế giới cuối tuần, số 171 (11/2015).


TS. Phạm Hữu Doanh (Trường Đại học Đà Lạt)

Phạm Ngọc Hòa (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Đồng Tháp)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bảo vệ chính trị nội bộ ở Agribank: Kiên định tư tưởng của Đảng trong giai đoạn tinh gọn bộ máy

Bài viết nhấn mạnh vai trò then chốt của nền tảng tư tưởng của Đảng trong bảo vệ chính trị nội bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) trong giai đoạn tinh gọn bộ máy. Với thông điệp “tinh gọn bộ máy nhưng không tinh giảm bản lĩnh chính trị”, Agribank từng bước nâng cao hiệu quả quản trị và giữ vững niềm tin với Nhân dân.
Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Từ bài viết “Không để một khe hở” đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phòng, chống tham nhũng hiện nay

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo về nguy cơ tham ô, lãng phí trong bộ máy Nhà nước, coi đó là “giặc nội xâm” nguy hại không kém giặc ngoại xâm và các hủ tục lạc hậu. Qua nhiều bài nói, bài viết, Người phân tích tác hại và đề xuất biện pháp đấu tranh với tệ nạn này. Bài viết “Không để một khe hở” là một minh chứng cụ thể, vẫn còn nguyên giá trị trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Xem thêm
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô