Những tác động mạnh mẽ của cộng đồng kinh tế ASEAN tới nền kinh tế Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Từ khi ra đời vào năm 2015 đến nay, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho nền kinh tế khu vực mà còn ứng phó, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Tham gia AEC mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài và cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
aa

Từ khi ra đời vào năm 2015 đến nay, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không chỉ tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho nền kinh tế khu vực mà còn ứng phó, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Tham gia AEC mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài và cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh cơ hội mở ra, việc tham gia AEC cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

1. Quá trình hình thành và phát triển của AEC

Vào ngày 22/11/2015, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 diễn ra tại Thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia, lãnh đạo 10 quốc gia thành viên ASEAN đã đặt bút kí văn kiện lịch sử, tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN (AC), trong đó nêu rõ sự hình thành của AC tạo ra một dấu mốc trong tiến trình liên kết, bảo đảm hòa bình, an ninh và tự cường dài lâu trong một khu vực hướng ra bên ngoài với các nền kinh tế năng động, cạnh tranh và liên kết sâu, rộng. Ngày 31/12/2015, AC chính thức được thành lập với ba trụ cột là Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), AEC và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC).

Trong ba bộ phận hợp thành AC thì AEC được xem là đòn bẩy chính trong chính sách phát triển của các nước. Việc hình thành AEC có khởi nguồn từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 2010, từ đó đến nay, vấn đề liên kết và kết nối kinh tế ASEAN không ngừng mở rộng. Các liên kết ấy được thể hiện sinh động qua bốn đặc trưng của AEC, đó là: (i) Một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất gắn liền với lưu chuyển thuận lợi của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kĩ năng và vốn; (ii) Một khu vực kinh tế cạnh tranh; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều; (iv) Một khu vực hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Mục tiêu chính của AEC là thúc đẩy tự do trong khu vực của năm yếu tố kinh tế thiết yếu gồm: Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề - để tăng cường tính cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở sản xuất thống nhất.

AEC là một trong bốn khối mậu dịch quan trọng của thế giới. Với hơn 600 triệu dân, GDP chung của ASEAN lớn hơn của Ấn Độ và bằng khoảng 30% GDP của Trung Quốc năm 2012. Với tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các thị trường mới nổi, GDP của ASEAN đạt hơn 3.000 tỉ USD năm 2017, GDP bình quân đầu người của ASEAN sẽ tăng hơn 50% từ 3.600 tỉ USD năm 2012 đạt đến 5.800 tỉ USD năm 2017. Trong hơn một thập kỉ qua, thương mại nội khối ASEAN đạt khoảng 750 tỉ USD. AEC hiện là nền kinh tế lớn thứ năm toàn cầu với GDP đạt 3.100 tỉ USD, đứng sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU)... Tổng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN tăng từ 108 tỉ USD năm 2010 lên 174 tỉ USD năm 2021, đưa ASEAN trở thành nơi nhận FDI lớn thứ 3 trên thế giới, sau Hoa Kỳ và Trung Quốc.

2. Tác động của AEC đến Việt Nam

Những tác động tích cực

Trên chặng đường gần 60 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ quy mô ban đầu với năm thành viên sáng lập, sau bốn lần mở rộng, ngày nay đã quy tụ được sự tham gia của 10 nước Đông Nam Á. Với vị thế địa - kinh tế như nằm ở vị trí nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, ASEAN cũng có thể được coi là vùng đệm giữa Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như giữa Trung Quốc và Nhật Bản, từ đó, ASEAN trở thành con đường vận chuyển thương mại lớn của thế giới (80% dầu lửa của Nhật Bản), là vựa lúa lớn của thế giới (Thái Lan và Việt Nam)… Và ASEAN đã trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á, hợp tác của ASEAN đã bao gồm hợp tác nội vùng và với các nước bên ngoài. Từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên thành khu vực phát triển kinh tế năng động với tổng thu nhập GDP hơn 3.000 tỉ USD, không chỉ hội nhập sâu rộng vào cấu trúc an ninh và kinh tế toàn cầu, mà còn là một khu vực năng động với nhiều cơ hội và triển vọng phát triển to lớn. Thành công và thành quả quan trọng nhất của ASEAN là trở thành hạt nhân và đầu tàu cho quá trình hợp tác và liên kết châu lục mà không có đối tác nào khác có thể thay thế.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, căng thẳng như hiện nay, đang đặt ra cho ASEAN nhiều thách thức cả từ bên trong và bên ngoài tổ chức. Đến nay, AEC đã hoàn thành hơn 90% các biện pháp trong lộ trình nhưng phần còn lại đều là những vấn đề khó khăn, không dễ giải quyết, đòi hỏi các nước thành viên phải nỗ lực rất lớn với quyết tâm chính trị cao. Rõ ràng khó khăn là không ít, nhưng việc tham gia AEC cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài, cùng với khai thác tiềm năng nội lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam đã tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của ASEAN, là một thành viên đi đầu trong các hoạt động của ASAEN, nhất là trong cuộc vận động xây dựng AC nói chung và AEC nói riêng.

Để hội nhập sâu, rộng vào AEC, vào năm 2015, Việt Nam đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Malaysia và Philippines, đồng thời hoàn thành xây dựng khuôn khổ đối tác chiến lược với các nước có vai trò quan trọng trên thế giới và trong khu vực như: Canada, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Điều đó cho thấy Việt Nam hết sức coi trọng việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Nếu xét về mặt kinh tế, thì 15 nước đối tác chiến lược và 10 nước đối tác toàn diện đã chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài. Như vậy, đối với người dân, dù là người sản xuất hay người tiêu dùng đều được hưởng lợi từ những thành quả về quan hệ kinh tế, thương mại với các nước phát triển. Bởi những nước này cũng là các nước nhập khẩu hầu hết các sản phẩm mà Việt Nam sản xuất ra để xuất khẩu như nông sản, dệt may, giày dép, hàng điện tử. Ngược lại, người dân Việt Nam cũng tiêu dùng các sản phẩm nhập khẩu phần lớn từ các nước này. Đây là những lợi ích hết sức cụ thể để Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước trên thế giới.

Một cơ hội khác cho Việt Nam khi tham gia AEC, đó là sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong AC sẽ không còn bị giới hạn bởi hàng rào bảo hộ, cũng như chính sách thuế quan sẽ trở về con số 0%. Đây chính là thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực ASEAN có nhiều chuyển biến tích cực. Từ các mặt hàng nông sản, thủy sản, khoáng sản truyền thống, các doanh nghiệp Việt Nam chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến và công nghệ cao. Có thể nói, việc tham gia hợp tác giữa các quốc gia trong AEC xuất phát từ những thành tựu mà chúng ta đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước, tất cả yếu tố đó đã tạo niềm tin cho các đối tác trong AC, giúp họ tăng cường mở rộng các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, dịch vụ, đầu tư với Việt Nam. Để tạo đà thuận lợi cho quá trình xây dựng AEC, Việt Nam đã khẩn trương tham gia Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Đây là cơ hội lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, bởi vì, khi tham gia vào ATIGA thì người tiêu dùng không chỉ được hưởng giá rẻ của đầu vào sản xuất mà hàng hóa tiêu dùng cũng rẻ hơn.

Ngoài các cơ hội trên, khi tham gia vào AEC, Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác ngày càng sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực khác như: Văn hóa - xã hội, khoa học kĩ thuật, giáo dục và đào tạo, y tế… với các nước trong AC. Đồng thời, cũng mở ra cơ hội hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác bên ngoài, nhất là các nước đối thoại với AC.

Một số thách thức

Nhìn vào sự phát triển của các nước trong AC thì rõ ràng khi tham gia vào AEC, bên cạnh những tác động tích cực, Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do xuất phát điểm kinh tế thấp, sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Đây là một trong những thách thức lớn ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của đất nước. Nếu không vượt lên chính mình, Việt Nam có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình và dẫn đến tụt hậu. Ngoài những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam, khi tham gia AEC, Việt Nam còn gặp phải những trở ngại, thách thức khác như là:

- Về mặt lí thuyết, AEC không chỉ đẩy mạnh thương mại nội khối mà còn thu hút đầu tư nước ngoài trong toàn khu vực. Thế nhưng, tác dụng thúc đẩy thương mại nội khối của AEC có thể không nhiều do cộng đồng này tiếp tục phải chịu tác động của các rào cản thương mại và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Đến nay các nước trong khối ASEAN vẫn chưa thể dỡ bỏ hết những rào cản thương mại về con số 0%. Một số quốc gia chủ chốt của ASEAN chưa muốn cắt giảm các hạng mục thuế quan quan trọng nhất của mình, trong khi nhiều rào cản trong số đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tiến trình tự do hóa thương mại nội khối.

- Về sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước, những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn trong khối lo ngại sự xâm nhập của các nền kinh tế phát triển hơn. Trong khi đó, các thành viên có nền kinh tế phát triển ở mức cao trong khu vực sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ các ngành sản xuất hiện đại như công nghiệp nặng, hóa chất, dược phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng và các ngành dịch vụ khác...

- Các nước trong AEC vẫn chưa đạt được toàn bộ các mục tiêu đề ra theo chỉ số do AEC công bố năm 2015. Nguyên nhân cơ bản là do các nước thành viên vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thương mại hóa của Việt Nam.

3. Một số giải pháp thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng tầm vị thế trong khu vực và thế giới

Thứ nhất, xây dựng tầm nhìn chiến lược trong quá trình hội nhập

Về tầm nhìn chiến lược trong quá trình hội nhập, Việt Nam cần ưu tiên phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác kinh tế với các nước láng giềng ở Đông Bắc Á, nhất là quan hệ hữu nghị với các nước trong AEC. Đây là nền tảng trong chính sách hội nhập bền vững và là cơ sở cho sự phát triển toàn diện chiến lược hợp tác kinh tế quốc tế song phương và đa phương của quốc gia. Trong đó, Việt Nam cần chủ động phối hợp với các nước trong AEC xây dựng và hoàn thiện các thể chế hợp tác về luật pháp. Đồng thời, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với những đối tác chiến lược mở rộng của ASEAN như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Hoa Kỳ… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tích cực thực hiện những chương trình sáng kiến hợp tác khu vực như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Bởi RCEP sẽ giúp Việt Nam tăng cường vị thế thương mại và thúc đẩy quá trình phục hồi hậu đại dịch; đẩy mạnh xuất khẩu và tiếp cận tốt hơn với các thị trường tiêu dùng lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia bằng cách giúp các nhà sản xuất tại Việt Nam giảm thiểu chi phí và tiếp cận chuỗi cung ứng khắp khu vực châu Á - Thái Bình Dương…

Thứ hai, xây dựng các thể chế, chính sách phù hợp trong bối cảnh hội nhập

Nhà nước cần xây dựng, ban hành chính sách phát triển môi trường kinh doanh, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh, đúng pháp luật, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, đổi mới nghiên cứu và phát triển. Đó là cơ sở cần thiết để tạo ra năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời, cần đẩy mạnh một số ngành công nghiệp có khả năng tạo bước đột phá như nông nghiệp, logistics, năng lượng, kinh tế biển, công nghệ cao…

Thứ ba, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế

Việc thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và bảo đảm sự vận hành của thị trường diễn ra phù hợp với quy luật khách quan. Với việc cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp có được những cơ hội trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đồng thời, cạnh tranh mang lại những đóng góp tích cực cho thị trường và xã hội. Qua đó, người tiêu dùng được hưởng mức giá cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao. Cạnh tranh là điều kiện quan trọng, tiên quyết để thúc đẩy quá trình tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế bền vững. Về mặt chiến lược phát triển, doanh nghiệp cần nắm chắc thị phần bản địa và từng bước phát triển ra AEC, Đông Bắc Á và thế giới theo mục tiêu, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Thứ tư, xây dựng văn hóa kinh doanh, thích ứng với hội nhập

Xây dựng văn hóa kinh doanh đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Trong bối cảnh đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế khu vực ASEAN, Việt Nam cần đề cao văn hóa, đạo đức kinh doanh, trân trọng đối tác, nhà đầu tư, bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Việc xây dựng AEC là kết quả nỗ lực vượt bậc với không ít gian nan của các nước thành viên trong việc tìm kiếm mô hình phát triển và hợp tác phát triển mang đậm phong cách ASEAN. Đây còn là biểu hiện rõ nét sự trưởng thành của ý thức tự lực, tự cường, với khát vọng vươn lên xây dựng một AC sống trong hòa bình, đoàn kết, phát triển năng động, đồng đều và thịnh vượng. Trong thời điểm hiện nay, mặc dù còn không ít khó khăn, thách thức, song AC đang đứng trước nhiều cơ hội lịch sử nhằm đưa hợp tác liên kết lên tầm cao mới, đó là việc hiện thực hóa AEC. Nhìn lại chặng đường đã qua, nếu Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, thì Việt Nam hoàn toàn có khả năng hiện thực hóa những mục tiêu mà AEC đã đề ra và khi làm được điều này sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam hội nhập sâu, rộng với thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Ngọc An (2023), “Kỳ vọng một ASEAN tầm vóc”, Báo Tuổi trẻ, ngày 06/9/2023.

2. Khánh Bình (2023), “Hội nghị cấp cao ASEAN 42 - Hướng đến một cộng đồng Tầm vóc: Tâm điểm của tăng trưởng”, Hồ sơ Sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), ngày 25/5/2023.

3. Phạm Minh Chính (2023), “Sứ mệnh của ASEAN trong thế giới đa cực”, Báo Tuổi trẻ, ngày 05/9/2023

4. Phạm Ngọc Hòa (2015), “Những đóng góp và triển vọng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN sau năm 2015”, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 8/2015.

5. Đoàn Duy Khương (2023), “Việt Nam - ASEAN trên con đường phồn vinh, thịnh vượng”, Hồ sơ sự kiện (Chuyên san của Tạp chí Cộng sản), ngày 10/8/2023.

6. Phan Ngọc Liên (2006), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. P. Hoontrakul, C. Balding, R. Marwah (2018), Châu Á chuyển mình, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

8. An Nhi (2015), “Thống nhất trong đa dạng”, Báo An ninh thế giới cuối tuần, số 171 (11/2015).


TS. Phạm Hữu Doanh (Trường Đại học Đà Lạt)

Phạm Ngọc Hòa (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Đồng Tháp)


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Quỹ phát triển nhà ở quốc gia: Giải pháp tạo nguồn vốn bền vững cho phát triển nhà ở xã hội

Từ thời điểm Luật Nhà ở năm 2005 ra đời, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế thông thoáng để huy động các nguồn vốn cho phát triển nhà ở để bán, cho thuê như: Thành lập Quỹ phát triển nhà ở của các địa phương; huy động vốn của các tổ chức tín dụng; huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính, có nhu cầu mua nhà ở; huy động vốn thông qua các hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh liên kết...
Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bài viết phân tích tác động của quản trị rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2023, qua đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư trong hoạt động ngân hàng - Bất cập và một số giải pháp hoàn thiện

Quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư là một trong những quyền quan trọng nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế, sự gia tăng của các cú sốc kinh tế và tài chính, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng xã hội… đã làm gia tăng tính phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động truyền thông ngân hàng trung ương (NHTW). Truyền thông hiệu quả có thể giúp NHTW xây dựng lòng tin của công chúng, tăng cường uy tín và nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức kinh tế.
Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại - Điều kiện để triển khai

Quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thanh khoản ổn định, giúp ngân hàng tránh tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như phá sản hoặc tổn thất lớn. Ngoài ra, quy trình đánh giá nội bộ về mức đủ thanh khoản còn đóng vai trò hỗ trợ ngân hàng tuân thủ các chỉ số thanh khoản như: Tỉ lệ bao phủ thanh khoản, tỉ lệ nguồn vốn ổn định ròng... giúp ngân hàng hoạt động an toàn và bền vững.
Xem thêm
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc