Kết nối, chia sẻ dữ liệu góp phần phòng, chống tình trạng lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng trong lĩnh vực ngân hàng

Công nghệ & ngân hàng số
Trong bối cảnh khoa học, công nghệ phát triển, Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới, ngành Ngân hàng đã tiên phong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số để triển khai, cung cấp các dịch vụ ngân hàng trực tuyến phục vụ cho nhu cầu thanh toán, giao dịch tức thời của người dân, doanh nghiệp.
aa

Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dữ liệu ngày càng trở nên quan trọng trong việc phát triển các dịch vụ hướng đến Chính phủ số, xã hội số, nền kinh tế số. Việc chia sẻ dữ liệu là điều kiện quan trọng để cung cấp dịch vụ số, đơn giản hóa quy trình, đổi mới mô hình của các tổ chức.

Thời gian qua, hoạt động chuyển đổi số ngành Ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Với mục tiêu lấy khách hàng làm trung tâm, ngành Ngân hàng đã kết nối, chia sẻ dữ liệu với các ngành, lĩnh vực khác để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đa dạng, tiện ích, mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp. Ngành Ngân hàng cũng là một trong những ngành tiên phong trong triển khai ứng dụng dữ liệu dân cư quốc gia trong quá trình chuyển đổi số. Các giải pháp làm sạch dữ liệu, xác minh chính xác thông tin khách hàng và ứng dụng vào nghiệp vụ được triển khai đã góp phần bảo đảm an ninh, an toàn các hoạt động của ngân hàng cũng như gia tăng sự trải nghiệm khách hàng. Thời gian tới, ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục tăng cường triển khai kết nối, chia sẻ dữ liệu nhằm mở rộng hệ sinh thái số, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho người dân một cách thông suốt, an toàn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế trong kỷ nguyên mới.

Hoạt động lừa đảo trên không gian mạng trong lĩnh vực ngân hàng diễn biến phức tạp

Trong bối cảnh khoa học, công nghệ phát triển, Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới, ngành Ngân hàng đã tiên phong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số để triển khai, cung cấp các dịch vụ ngân hàng trực tuyến phục vụ cho nhu cầu thanh toán, giao dịch tức thời của người dân, doanh nghiệp.

Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2024, hơn 87% người trưởng thành đã có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Ngoài ra, số lượng giao dịch thanh toán qua thiết bị di động (Mobile) và QR Code cũng có sự tăng trưởng nhanh chóng trong thời gian qua. Cụ thể, trong 11 tháng đầu năm 2024, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt đạt 15,92 tỉ giao dịch với giá trị đạt 263,82 triệu tỉ đồng (tăng 56,94% về số lượng và 33,76% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023); qua kênh Internet đạt 2,92 tỉ giao dịch với giá trị đạt 69,46 triệu tỉ đồng (tăng 50,67% về số lượng và 33% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023); qua kênh điện thoại di động đạt 11,01 tỉ giao dịch với giá trị đạt 66,48 triệu tỉ đồng (tăng 54,62% về số lượng và 34,47% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023), giao dịch qua QR Code đạt 271,58 triệu giao dịch với giá trị đạt 152,55 nghìn tỉ đồng (tăng 106,68% về số lượng và 84,77% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023).

Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngành Ngân hàng cũng phải đối mặt với những rủi ro, thách thức không nhỏ về an ninh, an toàn thông tin, đặc biệt là tình trạng sử dụng công nghệ cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền trong tài khoản ngân hàng có xu hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, phức tạp.

Liên quan đến hoạt động lừa đảo khách hàng trên không gian mạng, có thể chia thành 2 hình thức phổ biến: (i) Lợi dụng các kênh truyền thông liên lạc phổ biến như điện thoại, mạng xã hội, SMS… kẻ lừa đảo giả mạo các cơ quan, tổ chức hay người thân thực hiện tấn công vào tâm lý của khách hàng như đe dọa, lợi dụng lòng tham, tình cảm… để yêu cầu nạn nhân trực tiếp chuyển tiền cho tài khoản lừa đảo; (ii) Lừa đảo chiếm đoạt thông tin đăng nhập và xác thực giao dịch qua ứng dụng ngân hàng trực tuyến: Kẻ lừa đảo vẫn thông qua các kênh truyền thông phổ biến như mạng xã hội (Facebook, Zalo…), SMS, email, điện thoại… tìm cách để dẫn dụ khách hàng truy cập các đường link giả mạo, cung cấp thông tin bảo mật của ứng dụng ngân hàng trực tuyến (như: Tên đăng nhập, mật khẩu, mã OTP…); hoặc lừa đảo cài đặt phần mềm giả mạo có chứa mã độc hoặc có chức năng điều khiển từ xa điện thoại của khách hàng, từ đó truy cập trái phép vào ứng dụng ngân hàng điện tử, thực hiện các giao dịch bất hợp pháp nhằm chiếm đoạt tiền của khách hàng.

Có thể thấy rằng, hoạt động lừa đảo trên không gian mạng trong lĩnh vực ngân hàng gây ra những thiệt hại và hệ lụy không nhỏ cho người dân, làm ảnh hưởng đến thương hiệu, uy tín của nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng và an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Để phòng, chống tình trạng sử dụng công nghệ cao với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng trong lĩnh vực ngân hàng, thời gian qua, ngành Ngân hàng đã và đang tổ chức triển khai nhiều giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ. Một trong những giải pháp chính là kết nối, khai thác, chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị trong Ngành và giữa ngành Ngân hàng với các bộ, ngành liên quan.

Thực trạng về kết nối, khai thác, chia sẻ dữ liệu trong ngành Ngân hàng

Trong năm 2024, các đơn vị trong ngành Ngân hàng đã tổ chức triển khai toàn diện kết nối, khai thác dữ liệu quốc gia về dân cư để làm sạch dữ liệu khách hàng, ứng dụng vào việc xác thực khách hàng khi thực hiện các dịch vụ ngân hàng trực tuyến và các nghiệp vụ khác theo Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030), cụ thể:

- Về ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chíp: 64 tổ chức tín dụng đã và đang phối hợp với các doanh nghiệp được Bộ Công an cấp phép để triển khai ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chíp qua thiết bị tại quầy (trong đó 57 tổ chức tín dụng đã triển khai thực tế và 7 tổ chức tín dụng đang triển khai). 56 tổ chức tín dụng, 43 trung gian thanh toán đã và đang phối hợp với Bộ Công an để triển khai ứng dụng thẻ căn cước, đối chiếu thông tin sinh trắc học với căn cước công dân gắn chíp thông qua ứng dụng điện thoại (trong đó có 51 tổ chức tín dụng, 32 trung gian thanh toán đã triển khai thực tế và 5 tổ chức tín dụng, 11 trung gian thanh toán đang triển khai).

- Về ứng dụng tài khoản định danh và xác thực điện tử (VNeID): 32 tổ chức tín dụng và 15 trung gian thanh toán đang triển khai ứng dụng VNeID cho 3 luồng quy trình nghiệp vụ chính, gồm: Mở tài khoản thanh toán; xác thực giao dịch thanh toán; đối chiếu, xác thực thông tin khách hàng (trong đó có 8 tổ chức tín dụng và 3 trung gian thanh toán đã triển khai).

Đặc biệt, trong năm 2024, việc tích cực triển khai Quyết định số 2345/QĐ-NHNN ngày 18/12/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về triển khai các giải pháp an toàn, bảo mật trong thanh toán trực tuyến và thanh toán thẻ ngân hàng đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc góp phần phòng, chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng, số lượng vụ việc lừa đảo, chiếm đoạt tiền của khách hàng cá nhân và số lượng tài khoản khách hàng cá nhân có phát sinh nhận tiền lừa đảo ở các đơn vị đã giảm đáng kể. Với 87,6 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân được đối khớp thông tin sinh trắc học từ nguồn dữ liệu dân cư tính đến ngày 08/01/2025, số lượng vụ việc khách hàng bị lừa đảo mất tiền 6 tháng cuối năm 2024 giảm khoảng 68% so với số vụ việc trung bình 6 tháng đầu năm 2024; số lượng tài khoản nhận tiền lừa đảo 6 tháng cuối năm 2024 giảm khoảng 63% so với trung bình 6 tháng đầu năm 2024. Đặc biệt, tại một số tổ chức tín dụng đã không có phát sinh vụ việc trong thời gian vừa qua.

- Đến tháng 12/2024, Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam đã làm sạch được 57 triệu hồ sơ khách hàng vay; các tổ chức tín dụng và trung gian thanh toán đã làm sạch gần 83,6 triệu hồ sơ khách hàng (bao gồm làm sạch thông qua phương thức online và offline).

Về kết nối, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong ngành Ngân hàng, trong năm 2024, NHNN đã xây dựng và triển khai thành công về mặt kỹ thuật hệ thống giám sát các tài khoản thanh toán, ví điện tử nghi ngờ gian lận, giả mạo (SIMO). Hệ thống SIMO cho phép các tổ chức thành viên tham gia thực hiện báo cáo thông tin về những tài khoản đáng ngờ khi phát hiện và chia sẻ thông tin tới các thành viên khác. Đến hết năm 2024, đã có 103 tổ chức tín dụng, trung gian thanh toán kết nối, gửi thông tin báo cáo tài khoản thanh toán, ví điện tử nghi ngờ gian lận, giả mạo về NHNN.

Ngoài những giải pháp kỹ thuật, ngành Ngân hàng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông và các tổ chức liên quan trong công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin cũng như phòng, chống lừa đảo qua mạng trong ngành Ngân hàng, thông qua các công tác: (i) Phối hợp cung cấp thông tin trong điều tra, xử lý các vụ việc tội phạm lừa đảo liên quan đến khách hàng của ngân hàng, bảo đảm lợi ích chính đáng của khách hàng; (ii) Cung cấp, chia sẻ thông tin về các rủi ro, sự cố an toàn thông tin, các thủ đoạn của tội phạm công nghệ cao để kịp thời cảnh báo và triển khai các giải pháp phòng, chống kịp thời.

Có thể đánh giá, giải pháp kết nối, chia sẻ dữ liệu được triển khai trong thời gian vừa qua, cùng với các giải pháp toàn diện khác của ngành Ngân hàng và các đơn vị chức năng đã bước đầu mang lại hiệu quả tốt, góp phần phòng, chống tình trạng sử dụng công nghệ cao để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng trong lĩnh vực ngân hàng.

Một số giải pháp trong việc kết nối, chia sẻ dữ liệu góp phần phòng, chống tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng trong lĩnh vực ngân hàng

Để việc kết nối, chia sẻ dữ liệu mang lại những lợi ích thiết thực, bảo đảm an ninh, an toàn, phòng chống tội phạm công nghệ cao và phát huy sức mạnh, vai trò của dữ liệu trong phát triển hệ sinh thái số ngân hàng, thời gian tới các đơn vị trong ngành Ngân hàng quan tâm thực hiện một số công việc sau:

Một là, tích cực đẩy nhanh tiến trình kết nối, khai thác ứng dụng dữ liệu quốc gia về dân cư, đặc biệt cần nghiên cứu giải pháp kỹ thuật, quy trình nghiệp vụ để tích hợp, sử dụng VNeID vào các hoạt động định danh, xác thực khách hàng trực tuyến, làm sạch các dữ liệu khách hàng, cũng như trong các hoạt động nghiệp vụ khác của ngành Ngân hàng.

Hai là, triển khai mở rộng việc kết nối, khai thác hệ thống SIMO cũng như kết nối, khai thác nguồn dữ liệu về danh sách tài khoản đã tham gia vào quá trình luân chuyển dòng tiền lừa đảo được Bộ Công an thu thập, chia sẻ để cảnh báo đến khách hàng khi thực hiện các giao dịch thanh toán trực tuyến.

Ba là, xây dựng, ban hành tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu bảo đảm khả năng kết nối giữa các đơn vị trong Ngành. Trong đó sớm xây dựng và công bố các cổng giao diện lập trình ứng dụng (API) mở nhằm tạo điều kiện cho việc kết nối, chia sẻ dữ liệu một cách an toàn, phù hợp với phạm vi, mục đích và đạt hiệu quả cao.

Bốn là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan trong công tác chuyển đổi số, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng. Khai thác có hiệu quả nguồn thông tin cảnh báo về các phương thức, thủ đoạn của tội phạm mạng từ các đơn vị chức năng để triển khai kịp thời các giải pháp phòng, chống.

Năm là, đẩy mạnh hoạt động của Mạng lưới ứng cứu sự cố an ninh công nghệ thông tin ngành Ngân hàng, trong đó tăng cường hoạt động chia sẻ thông tin về các rủi ro, sự cố an toàn thông tin và hỗ trợ ứng cứu sự cố giữa các đơn vị trong ngành Ngân hàng.

Sáu là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về việc bảo vệ thông tin, dữ liệu cá nhân tới khách hàng và cán bộ, nhân viên ngân hàng, từ đó tạo cơ sở thay đổi thói quen, giúp khách hàng cảnh giác với các hành vi, thủ đoạn gian lận của tội phạm trên không gian mạng và lựa chọn, sử dụng dịch vụ an toàn trên môi trường số.

Lê Hoàng Chính Quang
Quyền Cục trưởng Cục CNTT, NHNN

Tin bài khác

Bảo mật thanh toán ngân hàng trong kỷ nguyên số: Xu hướng toàn cầu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bảo mật thanh toán ngân hàng trong kỷ nguyên số: Xu hướng toàn cầu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong thế giới siêu kết nối ngày nay, nơi chỉ cần một cú chạm trên điện thoại là có thể chuyển tiền xuyên biên giới, việc bảo mật thanh toán ngân hàng đã trở thành ưu tiên hàng đầu. Tội phạm mạng với trang bị công nghệ tiên tiến, đang gây ra thiệt hại hàng tỉ đô la trên toàn thế giới thông qua các vụ lừa đảo và tấn công mạng tinh vi. Tại Việt Nam, sự bùng nổ thanh toán kỹ thuật số đang thay đổi cách mọi người giao dịch, nhưng cũng đang mở ra cánh cửa cho những rủi ro mới…
Tác động của chuyển đổi số đến kinh doanh bền vững tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Tác động của chuyển đổi số đến kinh doanh bền vững tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Chuyển đổi số không chỉ dừng lại ở việc cải tiến công nghệ mà còn là đòn bẩy chiến lược giúp thúc đẩy phát triển bền vững doanh nghiệp. Vấn đề này được xem như một mục tiêu được các ngân hàng quan tâm hàng đầu. Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá vai trò trung gian của quản trị doanh nghiệp, hiệu suất cảm nhận và hiệu quả tài chính trong mối quan hệ giữa chuyển đổi số đối với kinh doanh bền vững tại các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam...
Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Kiểm toán tài chính trong kỷ nguyên số: Tái định nghĩa quy trình qua công nghệ chuỗi khối

Bài viết phân tích toàn diện những ảnh hưởng sâu rộng của Blockchain tới từng khâu trong quy trình kiểm toán, từ thu thập dữ liệu thời gian thực, xác minh qua hợp đồng thông minh, đến phát hiện gian lận nhờ tính bất biến và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, việc ứng dụng thực tế còn đối mặt với nhiều rào cản, từ chi phí đầu tư, thiếu nhân lực chuyên môn đến hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa tiềm năng của Blockchain, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý, tổ chức đào tạo, doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng khung pháp lý, nâng cao năng lực, và phát triển các mô hình kiểm toán thời gian thực dựa trên Blockchain.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế quản lý nhà nước về Fintech tại Việt Nam trong kỷ nguyên số

Chiều 20/8/2025, tại Hà Nội, Trường Đại học Đại Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Quản lý nhà nước đối với sự phát triển Fintech: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam”. Hội thảo đã tạo diễn đàn trao đổi học thuật cũng như thực tiễn giữa các nhà khoa học, chuyên gia trong nước, quốc tế, cùng chia sẻ kinh nghiệm quản lý, định hình khung khổ pháp lý, cũng như đề xuất giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững của Fintech tại Việt Nam.
Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng AI hỗ trợ nâng cao giá trị hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số và từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách hướng tới nền tài chính toàn diện; trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ hỗ trợ truyền thông chính sách hiệu quả, chính xác hơn mà còn giúp tự động hóa quy trình, tối ưu chi phí, nâng cao trải nghiệm khách hàng - từ cá nhân hóa thông điệp, phân tích dữ liệu lớn để nắm bắt nhu cầu, đến phát hiện và xử lý thông tin sai lệch trên môi trường số. Bên cạnh cơ hội, AI cũng đặt ra không ít thách thức. Chính vì vậy, Thời báo Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Tọa đàm với chủ đề: “Ứng dụng AI trong truyền thông chính sách và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng” diễn ra ngày 20/8/2025 tại Hà Nội.
Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đã được đối chiếu dữ liệu và xác minh thông tin

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), đến nay 100% tổng lượng tài khoản cá nhân và tổ chức phát sinh giao dịch trên kênh số đã được đối chiếu thông tin sinh trắc học. Đến hiện tại, ngành Ngân hàng đã hoàn thành làm sạch toàn bộ hồ sơ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp mở tài khoản thanh toán có phát sinh giao dịch trên kênh số.
Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Quản lý phát hành và giao dịch tài sản số: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cần thiết, cần coi tài sản số là loại tài sản theo thông lệ quốc tế và nội luật hóa bằng các quy định đặc thù. Pháp luật cần được xây dựng theo hướng quy định về loại tài sản số, cơ sở phát hành, chủ thể kinh doanh cung cấp dịch vụ phát hành, hoán đổi tài sản số, các quy định về phòng ngừa tội phạm, các quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ và các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người nắm giữ và giao dịch tài sản số.
Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Ngân hàng trước bối cảnh già hóa lực lượng lao động

Lực lượng lao động già hóa đặt ra những thách thức nội bộ đáng kể cho ngành Ngân hàng, từ nguy cơ mất kiến thức, khoảng cách kỹ năng, đến chi phí gia tăng và sự cần thiết phải thích ứng với công nghệ mới. Đồng thời, sự trỗi dậy của AI mang đến cả những thách thức mới lẫn những cơ hội to lớn để giải quyết các vấn đề này.
Xem thêm
Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Phát triển tài chính toàn diện: Vai trò của tài chính vi mô và các rào cản tiếp cận

Tài chính vi mô đã chứng minh vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Với khả năng tăng cường tiếp cận tài chính, trao quyền kinh tế cho phụ nữ và hỗ trợ phát triển bền vững, tài chính vi mô đã góp phần thay đổi cuộc sống của hàng triệu người trên toàn thế giới.
Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Bước ngoặt mới cho thị trường vàng và chính sách tài chính - tiền tệ

Nghị định số 232/2025/NĐ-CP của Chính phủ là một khung bảo mật thực hiện xác thực mọi yêu cầu truy nhập và chủ động lường trước các cuộc tấn công qua mạng, không chỉ khắc phục những hạn chế của cơ chế cũ mà còn đặt nền móng cho một cấu trúc thị trường vàng hiện đại, minh bạch và gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính - tiền tệ. Việc mở rộng chủ thể tham gia, chuẩn hóa điều kiện cấp phép, minh bạch hóa dòng tiền và thiết lập cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu theo chuẩn quốc tế đã cho thấy bước tiến mạnh mẽ trong tư duy điều hành.
Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Những điểm mới của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2024 và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng

Pháp luật về đất đai là một trong những đạo luật quan trọng bậc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đóng vai trò vừa là công cụ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội gắn với đất đai, vừa là nền tảng thể chế bảo đảm quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và người sử dụng đất.
Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Một số luận điểm về áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế tại Trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) được thiết kế là một khu vực với ranh giới địa lý xác định, tập trung vào các dịch vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tài chính xanh... Để cạnh tranh toàn cầu, IFC cần một hệ thống kế toán linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp giảm rào cản tuân thủ cho nhà đầu tư nước ngoài.
Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Chính thức bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng

Ngày 26/8/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, trong đó có một số quy định đáng chú ý như: Bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại để xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng; việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.
Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Hệ thống tiền tệ quốc tế trong thế giới đang thay đổi

Ngày 22/7/2025, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố Báo cáo về giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế (IMS), đây là báo cáo định kỳ đầu tiên nhằm đánh giá xu hướng thay đổi liên quan đến hệ thống này. Theo đó, trong những thập niên gần đây, IMS vẫn ổn định về cơ bản và tập trung vào USD, mặc dù các động lượng đang thay đổi trên toàn cầu.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng