“Dọn đường” cho nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam

Thị trường tài chính
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã và đang nỗ lực tháo gỡ từng điểm nghẽn chính sách, công nghệ để nới rộng cơ hội tiếp cận thị trường chứng khoán Việt Nam cho nhà đầu tư nước ngoài.
aa
Nhiều cơ chế chính sách đang dần được tháo gỡ để nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhiều cơ chế chính sách đang dần được tháo gỡ để nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam.

Những rào cản cần tháo gỡ

Nhà đầu tư nước ngoài hiện còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường chứng khoán Việt Nam, do thị trường còn thiếu vắng hàng hóa mới, hạn chế tỷ lệ cổ phiếu tối đa mà khối ngoại được phép sở hữu (room ngoại). Thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam những năm gần đây có rất ít doanh nghiệp mới thực hiện IPO và niêm yết. Tiến độ chuyển sàn của các doanh nghiệp còn khá chậm. Các doanh nghiệp từ UPCoM lên HOSE, HNX rất ít.

Trong khi doanh nghiệp khó tìm kiếm nhà đầu tư nước ngoài, thì nhà đầu tư nước ngoài lại không có lựa chọn để tìm kiếm các công ty lớn, ổn định. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa có chuyển biến nhiều, phụ thuộc vào khá nhiều quy định của pháp luật. Trong khi đó, khối doanh nghiệp FDI đóng góp rất lớn trong cấu trúc nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp lớn có nhu cầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng hiện tại không có quy định pháp lý cụ thể.

Do room ngoại còn hạn chế và chưa quy định cụ thể, khiến nhà đầu tư nước ngoài khó có khả năng sở hữu các cổ phiếu đã hết room, cũng như gặp khó khăn khi mua cổ phần tại các doanh nghiệp không quy định cụ thể, rõ ràng. Khả năng chuyển nhượng, tỷ lệ free-float thực tế các doanh nghiệp thấp, nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn khi giao dịch, chưa đáp ứng được đúng kỳ vọng vào tính thanh khoản của cổ phiếu. Nhóm cổ phiếu Ngân hàng, Bất động sản vẫn là nhóm chiếm tỷ trọng vốn hóa lớn, thiếu vắng các doanh nghiệp niêm yết chất lượng thuộc các lĩnh vực khác tham gia thị trường.

Bên cạnh đó, quy trình mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) gặp nhiều khó khăn. Thông tư số 05/2014/TT-NHNN đã ban hành hơn 10 năm và bộc lộ nhiều vấn đề cần sửa đổi để nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn khi mở tài khoản FII để đầu tư tại Việt Nam.

Công bố thông tin của doanh nghiệp, các văn bản, tài liệu đăng tải bằng tiếng Anh trên thị trường còn ít, phần lớn bằng tiếng Việt, khiến nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế khi tiếp cận thông tin. Điều này tạo sự bất bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài và trong nước.

Một rào cản nữa là, hiện nay, chưa có quy định về ký quỹ (margin) cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều này tạo sự bất bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài và trong nước, cũng như chưa tiệm cận với các thị trường khác trong khu vực.

Hiện thực hóa kế hoạch nâng hạng thị trường chứng khoán

Hướng đến mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán nhằm thu hút dòng tiền khối ngoại, UBCKNN đã đưa ra nhiều giải pháp và quyết tâm thực hiện trong năm 2025.

Triển khai Thông tư số 68/2024/TT-BTC, UBCKNN đề xuất giữ room ngoại cho nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện giao dịch mua lại cổ phiếu từ công ty chứng khoán. Theo Thông tư số 68/2024/TT-BTC, khi công ty chứng khoán dùng tiền để thanh toán giao dịch không yêu cầu ký quỹ (Non Prefunding) mà nhà đầu tư tổ chức nước ngoài thiếu tiền thì chứng khoán được hạch toán vào tài khoản tự doanh của công ty chứng khoán.

Phần room ngoại trống ra sẽ có thể bị mua hết, dẫn tới việc nhà đầu tư tổ chức nước ngoài không thực hiện được giao dịch mua lại, do đó, đề xuất được giữ room ngoại để nhà đầu tư tổ chức nước ngoài thực hiện được giao dịch mua lại. Như vậy, việc vận hành hệ thống công nghệ mới KRX sẽ cho phép giữ room ngoại đến thời điểm T+3.

Về giải pháp giao dịch Non Prefunding, UBCKNN đã trao đổi và đề nghị các công ty chứng khoán thống nhất cách xử lý về các vấn đề liên quan danh mục chứng khoán áp dụng Non Prefunding; việc xác định hạn mức tiền phải có; Quy trình xử lý giao dịch thất bại (fail-trade) và khung hợp đồng ký kết với khách hàng. Điều này giúp hạn chế thấp nhất sự khác biệt khi triển khai Non Prefunding.

Đối với việc công bố thông tin, UBCKNN dự kiến sửa đổi phụ lục công bố thông tin của Thông tư số 68/2024/TT-BTC theo hướng bỏ nội dung công bố thông tin về danh tính đại diện có thẩm quyền.

Đối với nhóm giải pháp về chính sách, Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán (VSDC) dự kiến sẽ triển khai tài khoản giao dịch tổng (OTA - Omnibus trading account) cho phép công ty quản lý quỹ thực hiện mua/bán đồng thời với tất cả các quỹ mà không phải thực hiện mua/bán riêng lẻ trên từng tài khoản. Khi đó, công ty quản lý quỹ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được đơn giản hóa việc đặt lệnh, thuận tiện hơn. Dự kiến, nhóm giải pháp này sẽ được triển khai trước tháng 08/2025.

Đối với nhóm giải pháp về hạ tầng công nghệ, dự kiến trong tháng 3/2025, VSDC sẽ triển khai hệ thống giao dịch tiếp điện tử giữa công ty chứng khoán và Ngân hàng lưu ký (STP), đồng thời sẽ nâng cấp STP sử dụng điện chuẩn SWIFT, giúp thuận tiện hơn trong việc phục vụ nhà đầu tư nước ngoài. UBCKNN giao các sở giao dịch chứng khoán, VSDC nhanh chóng triển khai thực hiện, báo cáo UBCKNN, để đưa KRX vận hành trong tháng 5 hoặc tháng 6/2025.

Các công việc cần triển khai trong tương lai là VSDC phải thành lập công ty con chuyên trách mô hình thanh toán, bù trừ (CCP); Hoàn thiện quy trình thanh toán giữa VSDC với các thành viên thị trường và ngân hàng thương mại trở thành thành viên bù trừ. Như vậy, dự kiến trong năm 2026 sẽ vận hành CCP.

Theo các chuyên gia chứng khoán, với những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho việc tham gia thị trường chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài trên, xác suất nâng hạng thành công vào tháng 9/2025 là trên 90%. Khi được nâng hạng, kỳ vọng khối ngoại sẽ mua ròng trở lại. Trước thời điểm nâng hạng, dòng vốn từ các quỹ đầu tư thụ động có thể đổ vào khoảng 1 tỷ USD.

Theo Minh Lâm/tapchitaichinh.vn

Tin bài khác

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách

Việt Nam quyết tâm xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế theo chủ trương và định hướng nêu tại Nghị quyết số 222/2025/QH15 của Quốc hội là một bước đi đúng đắn và mang tầm nhìn chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế là cần thiết để lựa chọn các trường hợp mang tính tham chiếu cao và phản ánh đa dạng cách tiếp cận phù hợp với thực tiễn của đất nước...
Tác động của tài chính toàn diện đến thích ứng với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Tác động của tài chính toàn diện đến thích ứng với biến đổi khí hậu: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam

Bài viết này nhằm tổng hợp cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm quốc tế và đề xuất hàm ý chính sách đối với Việt Nam.
Xây dựng hệ sinh thái tài chính an toàn:  Cân bằng lợi ích và rủi ro giữa ngân hàng và chứng khoán

Xây dựng hệ sinh thái tài chính an toàn: Cân bằng lợi ích và rủi ro giữa ngân hàng và chứng khoán

Thị trường tài chính Việt Nam phát triển nhanh đòi hỏi các ngân hàng phải đẩy mạnh xây dựng hệ sinh thái tài chính tích hợp nhiều dịch vụ. Tuy nhiên, thách thức lớn đặt ra là bảo đảm quản trị minh bạch và kiểm soát rủi ro để phát triển bền vững.
Tín dụng tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất và hàm ý chính sách

Tín dụng tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất và hàm ý chính sách

Trong bối cảnh lãi suất cho vay tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất thị trường, các biện pháp tăng hoặc giảm lãi suất điều hành khó có thể kìm hãm “vòng xoáy” tín dụng tiêu dùng. Người vay tiêu dùng thường không quan tâm đến lãi suất danh nghĩa, mà chủ yếu nhìn vào khoản trả hằng tháng; đồng thời thị trường cho vay ngày càng phân mảnh với sự tham gia của ngân hàng, công ty tài chính, ví điện tử và các nền tảng "mua trước - trả sau". Điều này khiến kênh tín dụng tiêu dùng vừa trở nên khó can thiệp bằng công cụ lãi suất, vừa tiềm ẩn nguy cơ “đếm trùng” nghĩa vụ nợ và tích tụ rủi ro hệ thống.
FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam và con đường hội nhập tài chính toàn cầu

FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam và con đường hội nhập tài chính toàn cầu

Lợi ích kinh tế từ việc thị trường chứng khoán Việt Nam được FTSE Russell nâng hạng không chỉ thể hiện ở quy mô dòng vốn gia tăng mà còn ở sự chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam.
Pháp luật về giám sát thị trường tài chính tại một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật về giám sát thị trường tài chính tại một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật về giám sát thị trường tài chính trên thế giới đều hướng tới mục tiêu tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc hoàn thiện mô hình giám sát và nâng cao năng lực quản lý rủi ro.
Hiện tượng tẩy xanh trong lĩnh vực tài chính - Góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà nước

Hiện tượng tẩy xanh trong lĩnh vực tài chính - Góc nhìn từ doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhà nước

Tẩy xanh được hiểu là hành vi doanh nghiệp hoặc tổ chức tạo dựng hình ảnh thân thiện với môi trường một cách giả tạo thông qua việc công bố hoặc quảng bá những thông tin sai lệch, mơ hồ và phóng đại về hoạt động phát triển bền vững của mình. Hành vi tẩy xanh không chỉ gây sai lệch thông tin thị trường, làm méo mó dòng vốn đầu tư, mà còn suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư, cản trở quá trình chuyển đổi sang tài chính bền vững.
Đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để phát triển bền vững

Đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để phát triển bền vững

Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính, việc tiết kiệm trong nước gắn liền với khả năng chống chịu trước rủi ro chu kỳ vốn quốc tế. Khi dòng vốn nước ngoài suy giảm do biến động địa chính trị hoặc thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế lớn, quốc gia có tỉ lệ tiết kiệm nội địa cao sẽ có khả năng duy trì đầu tư ổn định.
Xem thêm
Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo -  Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - Động lực thể chế thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng

Trong bối cảnh chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, việc Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực thi hành đã khẳng định vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời mở đường cho quá trình chuyển đổi số toàn diện.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô