Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi
Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
aa

Tóm tắt: Bài viết này phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch sản xuất - kinh doanh xanh. Trong bối cảnh này, nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp Việt Nam trở nên cấp thiết, với mục tiêu đề xuất giải pháp giúp các bên liên quan tăng cường khả năng tiếp cận tài chính xanh cho doanh nghiệp Việt Nam. Bài viết tập trung vào nghiên cứu đối tượng là các doanh nghiệp có triển khai hoạt động sản xuất - kinh doanh xanh trong giai đoạn từ tháng 10/2024 đến tháng 5/2025, sử dụng phương pháp phân tích định lượng bằng phần mềm SPSS để đánh giá. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh bốn nhóm nhân tố có ảnh hưởng khả năng tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp Việt Nam, gồm: Thủ tục vay vốn, chi phí vay vốn, kinh nghiệm thực hiện dự án của doanh nghiệp và hiểu biết của doanh nghiệp đối với nguồn tài trợ vốn.

Từ khóa: Tài chính xanh, chi phí vay vốn, thủ tục vay vốn.

FACTORS AFFECTING ENTERPRISES’ ACCESS TO GREEN FINANCE IN VIETNAM

Abstract: This article explore the factors affecting the ability to access green finance of Vietnamese enterprises in the context of shifting to green production and business. In this context, research on the factors affecting the ability to access green finance of Vietnamese enterprises becomes urgent, with the aim of proposing solutions to help stakeholders increase the ability to access green finance for Vietnamese enterprises. This article focuses on the research of enterprises that have implemented green production and business activities in the period from October 2024 to May 2025, using quantitative analysis methods by SPSS software for evaluation. The research results have demonstrated four groups of factors affecting the ability to access green finance of Vietnamese enterprises, including: Loan procedures, loan costs, eenterprises’ project experiences, enterprises’ underdtanding of funding sources.

Keywords: Green finance, loan cost, loan procedures.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh phát triển bền vững và bảo vệ môi trường ngày càng trở nên cấp thiết, tài chính xanh đã nổi lên như một công cụ quan trọng để hỗ trợ các dự án bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Chính phủ đã có những chính sách khuyến khích phát triển tài chính xanh. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn tài chính xanh tại Việt Nam vẫn gặp phải nhiều rào cản. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng triển khai các dự án xanh và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

Mặc dù Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách về phát triển tài chính xanh, tăng trưởng xanh, song quá trình áp dụng và thực thi các chính sách này vẫn còn chưa đồng bộ, dẫn đến việc các doanh nghiệp, tổ chức gặp khó khăn trong việc tiếp cận hay áp dụng các công cụ tài chính xanh. Việc cải thiện và làm rõ các chính sách này là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc triển khai các dự án xanh.

Ngoài ra, các dự án xanh thường có rủi ro cao, lợi tức đầu tư thấp, cùng với sự thiếu hiểu biết, năng lực trong việc áp dụng tài chính xanh của doanh nghiệp đã làm giảm tính hấp dẫn của tài chính xanh đối với nhà đầu tư.

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là cực kỳ quan trọng để thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.

2. Tổng quan nghiên cứu

Theo An và Madni (2023), tài chính xanh được định nghĩa là các khoản đầu tư, tài trợ nhằm mục đích bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững. Tài chính xanh không chỉ bao gồm việc đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo mà còn liên quan đến việc cải thiện hiệu suất môi trường của doanh nghiệp thông qua các chiến lược đầu tư bền vững. Các khoản đầu tư này giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, từ đó tạo ra mô hình phát triển bền vững cho toàn xã hội. Cùng quan điểm đó, Feng, Zhang, và Li (2022) cho rằng, tài chính xanh là một hình thức tài chính nhằm hỗ trợ các sáng kiến hay dự án có tác động tích cực đến môi trường, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững. Feng và cộng sự (2022) nhấn mạnh, tài chính xanh có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề ô nhiễm và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nhiều giải pháp công nghệ thân thiện với môi trường.

An và Madni (2023) đã chỉ ra rằng, có nhiều yếu tố thuận lợi khi triển khai tài chính xanh, bao gồm sự gia tăng nhận thức về biến đổi khí hậu và tầm quan trọng của phát triển bền vững trong cộng đồng doanh nghiệp. Theo Feng và cộng sự (2022), sự gia tăng nhận thức về tầm quan trọng của phát triển bền vững trong cộng đồng doanh nghiệp cũng thúc đẩy nhu cầu về tài chính xanh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào giải pháp công nghệ thân thiện với môi trường. Nhận thức ngày càng cao của cộng đồng về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường đã thúc đẩy nhu cầu liên quan đến các sản phẩm tài chính xanh, tạo động lực cho các tổ chức tài chính phát triển sản phẩm này (T. Zhang và Zhao, 2024)

Nguyen, Chuc, Dang (2018) đã chỉ ra một số yếu tố thuận lợi khi triển khai tài chính xanh tại Việt Nam. Cụ thể, Chính phủ đã xây dựng chiến lược năng lượng quốc gia rõ ràng, tạo nền tảng vững chắc để thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng tái tạo (RE). Các chính sách tài chính như giá điện ưu đãi (FIT), thuế ưu đãi cũng được đề xuất nhằm khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo. Hơn nữa, sự gia tăng nhận thức về biến đổi khí hậu và nhu cầu giảm phát thải khí nhà kính đã thúc đẩy Chính phủ và doanh nghiệp tìm kiếm các giải pháp năng lượng bền vững.

Trong nghiên cứu của An và Madni (2023) cũng nêu rõ một số rào cản khi triển khai tài chính xanh mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Một trong những rào cản chính là chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ xanh thường cao hơn so với các công nghệ truyền thống, điều này có thể làm giảm động lực đầu tư. Sự thiếu thông tin và nhận thức về lợi ích của tài chính xanh là một vấn đề lớn, khiến nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư vào các dự án xanh (An và Madni, 2023). Ngoài ra, sự thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng trong việc phát triển và quản lý các dự án công nghệ xanh cũng là một yếu tố cản trở, đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) (Feng và cộng sự, 2022). Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa hiểu rõ về các chính sách tín dụng xanh hay cách thức mà các chính sách này có thể hỗ trợ trong việc chuyển đổi sang sản xuất bền vững (S. Zhang, Wu, Wang và Hao, 2021).

Theo An và Madni (2023), các quy định pháp lý phức tạp và khó hiểu cũng tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp trong việc tuân thủ và triển khai các dự án xanh. Các chính sách và quy định hiện hành có thể chưa đủ linh hoạt để khuyến khích đầu tư vào các sáng kiến xanh, dẫn đến các doanh nghiệp không có động lực để đổi mới công nghệ (Feng và cộng sự, 2022). Quy trình phê duyệt và cấp vốn cho các dự án xanh thường phức tạp, khiến cho SME gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn (Thảo, Quyên, Anh và Xuân, 2020). S. Zhang và cộng sự (2021) cho rằng, sự không đồng nhất trong quy định, tiêu chuẩn về tài chính xanh giữa các cơ quan quản lý cũng gây khó khăn cho việc thực hiện, giám sát các chính sách này, làm giảm hiệu quả của các nỗ lực tài chính xanh. Việc thiếu khung pháp lý rõ ràng và chính sách hỗ trợ cũng làm giảm sức hấp dẫn của tài chính xanh đối với các nhà đầu tư (M. Zhang, Li, Zhang và Chen, 2024).

Cuối cùng, áp lực từ thị trường để duy trì lợi nhuận ngắn hạn có thể khiến các doanh nghiệp không muốn đầu tư vào các dự án xanh vốn có lợi nhuận dài hạn (An và Madni, 2023). Ngoài ra, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc định lượng lợi ích tài chính từ các sáng kiến bền vững, dẫn đến sự do dự trong việc đầu tư vào các dự án xanh (Chang, Agyemang, Saeed và Adam, 2024)

Từ tổng quan nghiên cứu cho thấy, hầu hết các nghiên cứu trước đây đều chỉ ra những rào cản đối với việc phát triển tài chính xanh, tác động của tài chính xanh tới phát triển kinh tế hoặc khả năng tiếp cận vốn nói chung. Nghiên cứu này kế thừa một số luận điểm từ các nghiên cứu trước, đồng thời tiến hành phân tích cụ thể những nhân tố ảnh hưởng tới việc tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam để đưa ra một số khuyến nghị chính sách phù hợp.

3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu

3.1. Mô hình nghiên cứu

Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Giả thuyết nghiên cứu:

H1: Thủ tục vay vốn có tác động ngược chiều đối với khả năng tiếp cận tài chính xanh.

H2: Chi phí vay vốn có tác động ngược chiều đối với khả năng tiếp cận tài chính xanh.

H3: Hiểu biết của doanh nghiệp về các nguồn vốn tài trợ cho dự án xanh có tác động cùng chiều đối với khả năng tiếp cận tài chính xanh.

H4: Tài sản bảo đảm có tác động cùng chiều đối với khả năng tiếp cận tài chính xanh.

H5: Kinh nghiệm thực hiện dự án có tác động cùng chiều đối với khả năng tiếp cận tài chính xanh.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Nhóm tác giả sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Dữ liệu khảo sát được thu thập qua Google Biểu mẫu. Đối tượng khảo sát là kế toán trưởng, giám đốc, giám đốc tài chính hoặc những người có liên quan trong thực hiện dự án xanh tại các doanh nghiệp trong giai đoạn từ tháng 10/2024 đến tháng 5/2025.

Các câu hỏi trong bảng khảo sát được đo bằng thang đo Likert 5 bậc: Bậc 1- Hoàn toàn không đồng ý; bậc 2 - Không đồng ý; bậc 3 - Trung lập; bậc 4 - Đồng ý; bậc 5 - Hoàn toàn đồng ý. Kết thúc đợt khảo sát, nhóm nghiên cứu đã thu được 106 phiếu khảo sát. Nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS 26 để tiến hành phân tích thống kê mô tả, kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích mô hình hồi quy đa biến.

4. Kết quả nghiên cứu

Kết quả phân tích thống kê mô tả cho thấy, số lượng nhân viên nam và nữ tham gia trả lời khảo sát là tương đương nhau với tỉ lệ tương ứng là 50,9% và 49,1%; nhân viên từ 40 tuổi đến dưới 50 tuổi chiếm tỉ trọng lớn nhất trong mẫu nghiên cứu (37%); tỉ lệ nhân viên làm việc từ 5 năm trở lên chiếm 51%; nhân viên làm việc tại các doanh nghiệp có thời gian hoạt động dưới 10 năm; từ 10 năm đến dưới 20 năm có tỉ lệ trả lời phiếu khảo sát tương đương nhau là 39,6%; tỉ lệ nhân viên làm tại doanh nghiệp có số vốn từ trên 20 tỉ đồng đến không quá 100 tỉ đồng chiếm tỉ lệ chủ yếu là 38,7%; tỉ lệ nhân viên làm việc tại các doanh nghiệp có quy mô lao động dưới 100 người chiếm tỉ lệ 51,9%; nhân viên trả lời khảo sát chủ yếu đến từ công ty cổ phần.

Kết quả cho thấy giá trị trung bình của các biến đều xấp xỉ bằng 4. Như vậy đáp viên có ý kiến “Đồng ý” với hầu hết các quan điểm mà nhóm nghiên cứu đưa ra.

Kiểm định độ tin cậy

Nhóm nghiên cứu thực hiện kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha đối với từng biến độc lập để kiểm tra và loại bỏ biến xấu.

Bảng 1: Kết quả phân tích thống kê mô tả và Cronbach’s Alpha

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS

Kết quả ở Bảng 1 cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha đều lớn hơn 0,6 và hệ số tương quan biến tổng của các biến đều lớn hơn 0,3, ngoại trừ biến HIEU_BIET3 có hệ số tương quan tổng < 0,3. Do đó, các biến quan sát đều đáng tin cậy, thể hiện được đặc điểm của nhân tố gốc.

Như vậy, sau khi đánh giá độ tin cậy thang đo thì mô hình bao gồm các biến độc lập là: (1) Thủ tục vay vốn; (2) Chi phí vay vốn; (3) Hiểu biết của doanh nghiệp; (4) Điều kiện tài sản bảo đảm; (5) Kinh nghiệm của doanh nghiệp và 1 biến phụ thuộc là khả năng tiếp cận tài chính xanh. Các nhân tố này được đưa vào phân tích EFA.

Phân tích EFA

Kết quả kiểm định EFA lần 1 cho thấy biến DK_TSBĐ2 tải lên cả 2 nhóm nhân tố. Do đó, nhóm tác giả đã loại biến này và chạy lại phân tích EFA lần 2, cho kết quả như sau:

Kiểm định Bartlett: Kết quả Sig = 0,000 < 0,05 cho thấy các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể.

Phân tích hệ số Kaiser-Meyer-Olkin (KMO): KMO = 0,611 > 0,5 chứng minh phân tích EFA là thích hợp.

5 nhân tố được rút trích từ phân tích EFA với: Giá trị Eigen Values của các nhân tố > 1: Đạt yêu cầu; Giá trị tổng phương sai trích = 81,662% > 50%: 5 nhân tố được rút trích này giải thích được 81,662% sự biến thiên của dữ liệu => Phân tích EFA đạt yêu cầu; Khác biệt về hệ số tải nhân tố của các biến quan sát giữa các nhân tố đều > 0,5 cho thấy các nhân tố có sự khác biệt rất cao.

Bảng 2: Kết quả phân tích EFA các biến độc lập

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS

Kết quả trong Bảng 2 cho thấy, tất cả các biến đều hội tụ về đúng nhóm dự kiến ban đầu.

Biến THU_TUC3, THU_TUC2, THU_TUC1 VÀ THU_TUC4 hội tụ về cùng một nhân tố, nhóm tác giả tính giá trị trung bình của các biến này và đặt tên biến mới là THUTUC_TB.

Biến CF_VAY1, CF_VAY2, CF_VAY3 hội tụ về cùng một nhân tố, nhóm tác giả tính giá trị trung bình của các biến này và đặt tên biến mới là CFVAY_TB.

Biến DK_TSBĐ3, DK_TSBĐ1, DK_TSBĐ4 hội tụ về cùng một nhân tố, nhóm tác giả tính giá trị trung bình của các biến này và đặt tên biến mới là TSBĐ_TB.

Biến KINH_NGHIEM2, KINH_NGHIEM3, KINH_NGHIEM1 hội tụ về cùng một nhân tố, nhóm tác giả tính giá trị trung bình của các biến này và đặt tên biến mới là KINHNGHIEM_TB.

Biến HIEU_BIET1, HIEU_BIET2 hội tụ về cùng một nhân tố, nhóm tác giả tính giá trị trung bình của các biến này và đặt tên biến mới là HIEUBIET_TB.

Phân tích hồi quy đa biến:

Hệ số R2 là 0,515. Điều này có nghĩa là 51,5% sự biến thiên của biến phụ thuộc TIEPCAN_TB được giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình. Giá trị R2 > 0,5 cho thấy mô hình có mức độ giải thích ở mức khá tốt.

Hệ số Durbin-Watson là 2,320. Giá trị này nằm trong khoảng chấp nhận được (thường từ 1,5 - 2,5), cho thấy không có hiện tượng tự tương quan bậc 1 nghiêm trọng giữa các phần dư của mô hình.

Giá trị Sig của kiểm định F (đánh giá sự phù hợp tổng thể của mô hình) là 0,000 (< 0,05). Điều này khẳng định rằng mô hình hồi quy là có ý nghĩa thống kê, tức là ít nhất một trong các biến độc lập có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc.

Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy đa biến

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS

Phân tích ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến phụ thuộc:

Biến THUTUC_TB có hệ số Beta chuẩn hóa là 0,472 và Sig = 0,000 (< 0,05). Điều này cho thấy, THUTUC_TB có tác động cùng chiều và mạnh nhất đến biến TIEPCAN_TB, nghĩa là các yếu tố khác không đổi, sự cải thiện trong thủ tục vay vốn sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp.

Biến KINHNGHIEM_TB có hệ số Beta chuẩn hóa là 0,405 và Sig = 0,000 (< 0,05). Biến này có tác động cùng chiều, mạnh thứ hai đến biến TIEPCAN_TB. Điều này ngụ ý rằng khi kinh nghiệm vay vốn của doanh nghiệp tăng lên thì khả năng tiếp cận tài chính xanh cũng có xu hướng tăng lên.

Biến HIEUBIET_TB có hệ số Beta chuẩn hóa là -0,170 và Sig = 0,019 (0,05). Biến này có tác động ngược chiều, có ý nghĩa thống kê đến biến TIEPCAN_TB. Điều này có nghĩa là khi hiểu biết của doanh nghiệp đối với nguồn tài trợ vốn tăng lên thì khả năng tiếp cận tài chính xanh lại có xu hướng giảm. Đây là một phát hiện cần được xem xét kỹ lưỡng, có thể hiểu biết cao hơn khiến các đối tượng nhận thức rõ hơn về các rào cản hoặc có yêu cầu khắt khe hơn đối với việc tiếp cận.

Biến TSBĐ_TB có hệ số Beta chuẩn hóa là -0,050 và Sig = 0,949 (> 0,05). Biến này không có tác động ý nghĩa thống kê đến biến TIEPCAN_TB trong mô hình này.

Biến CFVAY_TB có hệ số Beta chuẩn hóa là 0,143 và Sig = 0,0800 (> 0,05). Mặc dù hệ số Beta dương, nhưng với giá trị Sig cao, biến này không cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê lên biến TIEPCAN_TB trong phạm vi nghiên cứu này.

5. Một số khuyến nghị

Dựa trên các kết quả phân tích, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị cho các bên liên quan nhằm cải thiện mức độ tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp. Cụ thể:

Đối với các tổ chức tín dụng:

Đơn giản hóa và số hóa quy trình thủ tục: Việc chuẩn hóa, tinh gọn và công khai minh bạch bộ hồ sơ, tiêu chí thẩm định cho các dự án xanh là giải pháp cấp thiết. Các tổ chức tín dụng cần chú trọng đầu tư vào nền tảng công nghệ để cho phép doanh nghiệp vay vốn nộp hồ sơ và theo dõi tiến độ trực tuyến, giảm thiểu gánh nặng hành chính.

Xây dựng chương trình tư vấn và hỗ trợ cho doanh nghiệp: Các tổ chức tín dụng nên thành lập các bộ phận chuyên trách hoặc tổ chức các buổi đào tạo để hướng dẫn, tư vấn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc những doanh nghiệp lần đầu thực hiện dự án xanh, giúp họ xây dựng phương án kinh doanh và hồ sơ vay vốn hiệu quả. Cần truyền thông rõ ràng về lợi ích, các điều khoản và chứng minh quy trình của mình là khả thi và công bằng thông qua các câu chuyện thành công thực tế thay vì chỉ quảng bá chung chung.

Đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

Xây dựng và ban hành khung pháp lý về tài chính xanh, tín dụng xanh đồng bộ: Điều này sẽ là tiêu chuẩn chung cho cả tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, giảm sự không nhất quán trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn của tổ chức tín dụng cũng như chuẩn bị phương án vay vốn của doanh nghiệp. Nghiên cứu các chính sách khuyến khích các tổ chức tín dụng đơn giản hóa thủ tục cho vay xanh, có thể thông qua các cơ chế xếp hạng tín nhiệm hoặc ưu đãi về vốn.

Triển khai các chương trình nâng cao năng lực và kinh nghiệm quốc gia: Tổ chức các chương trình đào tạo, hội thảo quy mô lớn để nâng cao cả kinh nghiệm thực tiễn và hiểu biết chuyên sâu cho cộng đồng doanh nghiệp về tài chính xanh, cách lập dự án và cách đáp ứng tiêu chuẩn của ngân hàng. Đồng thời, thiết lập các cơ chế bảo lãnh và hỗ trợ kỹ thuật. Việc thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho dự án xanh có thể giúp các doanh nghiệp non trẻ, thiếu kinh nghiệm tự tin hơn khi tiếp cận vốn.

Đối với các doanh nghiệp:

Chủ động xây dựng năng lực nội bộ: Doanh nghiệp cần đầu tư vào việc đào tạo đội ngũ nhân sự chuyên trách về phát triển bền vững và tài chính xanh. Doanh nghiệp nên bắt đầu từ những dự án xanh quy mô nhỏ để tích lũy kinh nghiệm và xây dựng hồ sơ năng lực tốt, làm nền tảng cho các dự án lớn hơn trong tương lai.

Hệ thống hóa công tác chuẩn bị hồ sơ: Thay vì đợi đến khi cần vốn mới chuẩn bị, doanh nghiệp nên chủ động xây dựng sẵn các báo cáo (như báo cáo tác động môi trường, báo cáo tiết kiệm năng lượng) và các tài liệu chứng minh “tính xanh” của dự án theo các tiêu chuẩn chung.

Tận dụng sự hiểu biết để đối thoại và hợp tác: Đối với các doanh nghiệp đã có hiểu biết về tiếp cận tài chính xanh, tiếp tục sử dụng kiến thức đó để chủ động đối thoại với ngân hàng, đề xuất các giải pháp và chuẩn bị một bộ hồ sơ chặt chẽ, có tính thuyết phục cao. Đồng thời, tích cực tham gia các hiệp hội ngành, nghề để cùng nhau đóng góp ý kiến, kiến nghị chính sách lên các cơ quan chức năng và tổ chức tín dụng.

Tài liệu tham khảo

1. An, Y., & Madni, G. R. (2023). Factors affecting the green investment and assessing sustainable performance of firms in China. Plos One, 18(12). doi:https://doi.org/10.1371/journal.pone.0296099

2. Chang, G., Agyemang, A. O., Saeed, U. F., & Adam, I. (2024). Assessing the impact of financing decisions and ownership structure on green accounting disclosure: Evidence from developing economies. Heliyon, 10. doi:https://doi.org/10.1016/j.heliyon.2024.e26672

3. Feng, S., Zhang, R., & Li, G. (2022). Environmental decentralization, digital finance and green technology innovation. Structural Change and Economic Dynamics, 61, 70-83. doi:https://doi.org/10.1016/j.strueco.2022.02.008

4. Nguyen, T. C., Chuc, A. T., & Dang, L. N. (2018). Green Finance in Vietnam: Barriers and Solutions. ADBI Working Paper Series.

5. Thảo, N. H. P., Quyên, P. T. H., Anh, L. H., Xuân, P. T. T. (2020). Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn trung dài hạn ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, 129(5C), trang 155-174. doi:DOI: 10.26459/hueunijed.v129i5C.5895

6. Tran, T. T. T., Do, H. N., Vu, T. H., & Do, N. N. M. (2020). The factors affecting green investment for sustainable development. Decision Science Letters, 9, 365-386. Retrieved from https://www.growingscience.com/dsl/Vol9/dsl_2020_12.pdf

7. Zhang, M., Li, C., Zhang, J., & Chen, H. (2024). How Green Finance Affects Green Total Factor Productivity - Evidence from China. Sustainability, 16(1), 270. Retrieved from https://doi.org/10.3390/su16010270

8. Zhang, S., Wu, Z., Wang, Y., & Hao, Y. (2021). Fostering green development with green finance: An empirical study on the environmental effect of green credit policy in China. Journal of Environmental Management, 296. doi:https://doi.org/10.1016/j.jenvman.2021.113159

9. Zhang, T., & Zhao, F. (2024). A study on the relationships among green finance, environmental pollution and economic development. Energy Strategy Reviews, 51, 101290. doi:https://doi.org/10.1016/j.esr.2023.101290

TS. Đoàn Thị Hồng Nhung, Trần Thị Hồng Huệ, Vũ Thị Mai Nhi, Lê Việt Dũng
Khoa Kế toán - Trường Đại học Đại Nam

Tin bài khác

Huy động vốn qua thị trường tài sản cho mô hình tăng trưởng kinh tế mới tại Việt Nam

Huy động vốn qua thị trường tài sản cho mô hình tăng trưởng kinh tế mới tại Việt Nam

Để thị trường tài sản có thể đóng góp tích cực hơn cho mô hình tăng trưởng kinh tế mới, cần hình thành một hệ sinh thái chính sách đồng bộ và nhất quán, bao gồm minh bạch hóa thông tin thị trường, hoàn thiện hệ thống dữ liệu về giao dịch và giá trị tài sản, nâng cao chất lượng định giá và phát triển các công cụ tài chính trung gian...
Tích hợp chuẩn mực đạo đức trí tuệ nhân tạo vào khung đạo đức nghề nghiệp ngân hàng

Tích hợp chuẩn mực đạo đức trí tuệ nhân tạo vào khung đạo đức nghề nghiệp ngân hàng

Chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình hoạt động của ngành Ngân hàng, đồng thời đặt ra nhiều thách thức đạo đức mới như thiên vị thuật toán và sự thiếu minh bạch.
Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: Doanh nghiệp cần chủ động, minh bạch thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy, mặc dù nhiều công ty niêm yết đáp ứng đúng quy định về số lượng và tiêu chuẩn của thành viên độc lập, nhưng vẫn tồn tại tình trạng bổ nhiệm hình thức, chưa phát huy hiệu quả giám sát thực chất. Do đó, việc hoàn thiện tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị là cần thiết để nâng cao chất lượng giám sát, đảm bảo tính minh bạch trong quản trị và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của các công ty niêm yết theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Quản lý phát triển xã hội thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn thể Nhân dân, của quốc gia, dân tộc, trong đó Nhà nước là chủ thể quan trọng, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp là nòng cốt, Nhân dân là chủ thể quyết định...
Nghịch lý tài chính trong thực thi ESG tại doanh nghiệp Việt Nam: Hàm ý đối với tín dụng xanh

Nghịch lý tài chính trong thực thi ESG tại doanh nghiệp Việt Nam: Hàm ý đối với tín dụng xanh

Nghiên cứu làm rõ thực trạng triển khai ESG tại doanh nghiệp Việt Nam, cho thấy sự phân hóa mạnh giữa các tập đoàn lớn và khối doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt trong khả năng thu thập dữ liệu, quản trị phát thải và đáp ứng các tiêu chuẩn báo cáo quốc tế. Phát hiện “nghịch lý tài chính” - khi doanh nghiệp dù hạn chế nguồn lực vẫn xem ESG như một khoản đầu tư chiến lược nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn - khẳng định ESG đã trở thành động lực tài chính mới chứ không chỉ là yêu cầu tuân thủ.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Đây là lần đầu tiên, bảo vệ môi trường được xác định là trụ cột, điều kiện, động lực của mô hình phát triển nhanh, bền vững, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa xanh và cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.
Áp dụng chuẩn mực quốc tế trong xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững tại Agribank

Áp dụng chuẩn mực quốc tế trong xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững tại Agribank

Bài viết phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và lộ trình xây dựng Báo cáo Phát triển bền vững của Agribank theo các chuẩn mực quốc tế, qua đó làm rõ vai trò của báo cáo như một công cụ chiến lược giúp nâng cao minh bạch môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG), tăng khả năng tiếp cận vốn xanh và uy tín thương hiệu.
Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nhìn tổng thể, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong giai đoạn phát triển mới, một Đảng kiên định, đổi mới và hành động vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Việt Nam phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng.
Xem thêm
Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xanh - Khó khăn và giải pháp khắc phục

Tài chính xanh chỉ có thể phát huy hiệu quả khi dòng vốn được phân bổ đúng địa chỉ, đúng nhu cầu và thực chất, nhằm bảo đảm tín dụng xanh không chỉ là trách nhiệm với cộng đồng mà còn trở thành cơ hội chiến lược để các ngân hàng định vị hướng phát triển bền vững của mình.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia

Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2025, có hiệu lực từ ngày 01/5/2026, đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng trong khuôn khổ pháp lý bảo vệ người gửi tiền tại Việt Nam. Trong bối cảnh hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển theo chiều sâu và rủi ro lan truyền gia tăng, bảo hiểm tiền gửi đang được tái định vị như một công cụ chính sách chủ động nhằm quản trị rủi ro hệ thống và củng cố niềm tin thị trường.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trong bối cảnh hiện đại hóa quản lý tài chính và kinh tế số

Luật Thuế Thu nhập cá nhân năm 2025 cho thấy cách tiếp cận mới trong xây dựng chính sách thuế, khi không chỉ tập trung mở rộng diện thu và tăng cường quản lý thu nhập mà còn chủ động sử dụng thuế như một công cụ định hướng phát triển kinh tế bền vững.
Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại công ty niêm yết trong bối cảnh mới

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân nhấn mạnh: Doanh nghiệp cần chủ động, minh bạch thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy, mặc dù nhiều công ty niêm yết đáp ứng đúng quy định về số lượng và tiêu chuẩn của thành viên độc lập, nhưng vẫn tồn tại tình trạng bổ nhiệm hình thức, chưa phát huy hiệu quả giám sát thực chất. Do đó, việc hoàn thiện tiêu chuẩn, điều kiện và vai trò của thành viên độc lập Hội đồng quản trị là cần thiết để nâng cao chất lượng giám sát, đảm bảo tính minh bạch trong quản trị và hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của các công ty niêm yết theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng phương pháp xếp hạng nội bộ khi thực hiện chuẩn mực an toàn vốn: Thông lệ quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp và phân tích hệ thống quy định của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, kết hợp với kinh nghiệm triển khai khuôn khổ pháp lý để áp dụng xếp hạng nội bộ từ Liên minh châu Âu và các quốc gia châu Á điển hình (Singapore, Thái Lan, Malaysia...). Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các định hướng cụ thể nhằm giúp Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn trong nước, tiến tới áp dụng thành công xếp hạng nội bộ theo thông lệ quốc tế.
Ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến mức độ chủ động vay vốn của doanh nghiệp

Ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến mức độ chủ động vay vốn của doanh nghiệp

Quyết định vay vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố ngoài thị trường tài chính thuần túy, trong đó môi trường thông tin và thể chế ngày càng nổi lên như những biến số quan trọng. Trên cơ sở phân tích định lượng, bài viết đánh giá vai trò của tự do ngôn luận trong mối quan hệ giữa tham nhũng và sự nản lòng vay vốn ngân hàng.
Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh xét theo cả quy mô giao dịch và mức độ phổ cập trong đời sống tài chính, yêu cầu hoàn thiện khung phòng, chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, bởi các chỉ dấu khách quan cho thấy Việt Nam vừa nằm trong nhóm quốc gia có giá trị giao dịch trên chuỗi rất lớn.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.

Thông tư số 43/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2022/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng

Thông tư số 42/2025/TT-NHNN quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng là hợp tác xã

Thông tư số 41/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam