Agribank - Ngân hàng chủ lực trên thị trường hoạt động kinh doanh đối ngoại

Hoạt động ngân hàng
Năm 2016, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà phục hồi, tăng trưởng GDP đạt 6,2%, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được bảo đảm và khá ổn định. ...
aa

Năm 2016, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà phục hồi, tăng trưởng GDP đạt 6,2%, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được bảo đảm và khá ổn định.

Năm 2016, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà phục hồi, tăng trưởng GDP đạt 6,2%, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được bảo đảm và khá ổn định. Bên cạnh đó, Việt Nam và cộng đồng quốc tế đã đạt được nhiều thỏa thuận kinh tế toàn diện về tiến trình tự do hóa nền kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư, ứng phó với biến đổi khí hậu… Cùng với những chuyển biến, phục hồi kinh tế cả nước, hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh đối ngoại năm 2016 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) đã đạt được các kết quả đáng ghi nhận; tự tin tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt của ngân hàng thương mại Nhà nước trong hoạt động kinh doanh đối ngoại.


Ngân hàng dẫn đầu trong thanh toán quốc tế
Với những nỗ lực của cả hệ thống Agribank trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế (TTQT) cho khách hàng như thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán nhờ thu, chuyển tiền… phục vụ cho các mục đích kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa hay đáp ứng nhu cầu cá nhân như du học, du lịch, khám chữa bệnh… ở nước ngoài, tính đến 31/12/2016, hoạt động TTQT của Agribank đã có dấu hiệu khởi sắc và phục hồi, doanh số TTQT năm 2016 đạt 10,8 tỷ USD tăng 16% so với năm 2015, thu phí TTQT đạt 254,8 tỷ VND tăng 10% so với năm 2015.
Ngoài ra, chất lượng hoạt động TTQT của Agribank cũng vẫn được duy trì khi trong năm 2016, Agribank đã liên tiếp được các ngân hàng nước ngoài lớn, có uy tín trên toàn thế giới như Wells Fargo, Bank of New York Mellon, Standard Charter Bank, JP Morgan Chase tặng thưởng về chất lượng điện chuẩn cao. Đây chính là một sự công nhận khách quan về chất lượng dịch vụ đạt chuẩn quốc tế của Agribank, cũng như thể hiện sự tin tưởng của khách hàng và các đối tác lớn đối với Agribank.
Để có được những thành công như trên, Agribank đã chú trọng phát triển sản phẩm dịch vụ TTQT bằng việc triển khai chính thức dịch vụ chuyển tiền đa tệ trong hệ thống; điều chỉnh hạn mức giao dịch hối đoái trên hệ thống Realtime; tiếp tục khai thác các lợi ích của sản phẩm UPAS L/C, bổ sung tính năng mới thông qua triển khai Thỏa thuận “Tài trợ thương mại thông qua nghiệp vụ hoàn trả thư tín dụng” với Wells Fargo. Đến nay, Agribank được đánh giá là một trong những ngân hàng sử dụng sản phẩm UPAS L/C hiệu quả, năm 2016, Agribank đã mở 70 món UPAS L/C, trị giá 14,8 triệu USD, tăng mạnh về số món so với năm 2015. Tích cực làm việc với các ngân hàng nước ngoài để phát triển sản phẩm mới và bổ sung các tính năng mới của sản phẩm TTQT hiện có như: Ngân hàng Wells Fargo (Trade Flatform, UPAS L/C), BNY Mellon (Chuyển tiền đa tệ), ICBC, Maybank, CTBC, JP Morgan (UPAS L/C),…
Cầu nối thúc đẩy giao thương giữa Việt Nam và các nước
Với sự nỗ lực của các chi nhánh trong toàn hệ thống Agribank cũng như chủ trương, chính sách điều hành đúng đắn của Nhà nước và Agribank, Agribank vẫn duy trì được tổng doanh số thanh toán biên mậu (TTBM) ở mức cao và tiếp tục mang lại lợi nhuận cho Agribank nói chung và các chi nhánh nói riêng.
Doanh số TTBM năm 2016 với Trung Quốc đạt 39,576 tỷ VND, tăng 96% so với năm 2015; tổng thu phí dịch vụ TTBM 12 tháng năm 2016 đạt 26 tỷ VND, tăng 18% so với năm 2015; thu từ kinh doanh ngoại tệ trong TTBM đạt 21 tỷ VND, tăng 110% so với năm 2015. Trong năm qua, Agribank đã ký kết 2 thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực TTBM: Hỗ trợ Agribank chi nhánh Móng Cái ký kết Thỏa thuận hợp tác TTBM với Ngân hàng Quế Lâm Trung Quốc; hỗ trợ Agribank chi nhánh Lai Châu ký Thỏa thuận hợp tác TTBM với Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc. Đồng thời, hỗ trợ chi nhánh Hà Giang nghiên cứu, rà soát Thỏa thuận hợp tác xuất nhập khẩu ngoại tệ mặt (đồng CNY) với Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc. Agribank cũng tiếp tục triển khai hệ thống TTBM với Trung Quốc thông qua hệ thống CBPS.
Bên cạnh đó, doanh số TTBM năm 2016 với Lào đạt 1,117 tỷ VND, tăng 169% so với năm 2015; tổng thu phí dịch vụ TTBM 12 tháng năm 2016 với Lào đạt 1,7 tỷ VND, tăng 467% so với năm 2015; thu từ kinh doanh ngoại tệ trong TTBM đạt 0,6 tỷ VND bằng với năm 2015. Đến nay, Agribank là ngân hàng Việt Nam duy nhất cung ứng dịch vụ TTBM với Lào, và cũng tích cực trong việc giúp các đối tác xây dựng, phát triển và triển khai thành công sản phẩm TTBM qua Internet, hỗ trợ xử lý giao dịch ngày càng nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, tạo được uy tín đối với khách hàng.
Tín nhiệm, ủy thác triển khai Dự án tín dụng phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn
Để phát huy hoạt động kinh doanh đối ngoại, Agribank đã chủ động tăng cường mối quan hệ hợp tác, phối hợp có hiệu quả với nhà tài trợ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ, ngành, Ban Quản lý Dự án để tranh thủ sự ủng hộ và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Theo đó, tính đến 31/12/2016, Agribank đã tiếp nhận, triển khai thực hiện lũy kế 40 dự án tín dụng nước ngoài thông qua Chính phủ, trong đó 28 dự án đang hoạt động với tổng hạn mức tương đương 13,657 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Agribank được tăng hạn mức Dự án Tài chính Nông thôn II, III/WB của Ngân hàng Thế giới thêm 200 tỷ đồng và tiếp tục là định chế tài chính có hạn mức tín dụng cao nhất trong số các định chế tài chính tham gia Dự án. Đồng thời, Agribank thành công nâng cao hạn mức cho vay Dự án KFW; mở rộng điều kiện cho vay Dự án LCASP, các vấn đề liên quan đến lựa chọn Chi nhánh phục vụ Dự án; giải quyết vướng mắc về mở tài khoản Dự án KFW 8, 10. Agribank đồng thời đã tham gia thảo luận, trao đổi với NHNN, Nhà tài trợ về Dự án năng lượng tái tạo (KFW), Chương trình tín dụng NIB (Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu), Dự án tín dụng xanh (AFD)… Đây chính là kết quả của sự nỗ lực, phối hợp chặt chẽ giữa Trụ sở chính, chi nhánh trên toàn hệ thống với NHNN và các Bộ, ngành.
Bên cạnh đó, chỉ tính riêng trong năm 2016, Agribank đã được giao phục vụ 07 dự án tổng trị giá 270 triệu USD; qua đây, nâng số dự án ngân hàng phục vụ mà Agribank đã tiếp nhận và triển khai lũy kế lên 141 dự án với tổng số vốn là 6,8 tỷ USD. Đặc biệt, Agribank đã được NHNN đưa vào danh sách các ngân hàng đủ điều kiện phục vụ các chương trình, dự án ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ. Đây là nhóm dự án quan trọng vì thông qua đó, Agribank được tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng lớn, thời hạn dài, lãi suất ưu đãi để cho vay lại các đối tượng hưởng lợi từ khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các dự án được triển khai hiệu quả đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, vùng, kinh tế hộ gia đình, tài chính vi mô, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao vai trò của người dân… Agribank đã góp phần nâng cao thu nhập, đời sống của nhân dân, tích cực xóa đói giảm nghèo và đổi mới đất nước.
Khẳng định vị thế trên thị trường thế giới
Từng bước thực hiện định hướng của Agribank trong việc phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác tại thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, trong năm 2016, Agribank đã tổ chức và tham gia nhiều sự kiện có ý nghĩa trong nước và quốc tế như: ký kết biên bản ghi nhớ với ICBC trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh Thương mại và Đầu tư Trung Quốc - ASEAN; tiếp Đoàn Đặc phái viên của Đảng Cộng sản và Nhà nước Cuba; tiếp đón Đoàn chủ tịch Nonghyup Bank, tổ chức chương trình đạo tạo cho cán bộ Nonghyup Bank; tham dự kỳ họp 13 tổ công tác liên chính phủ Việt Nga;…
Agribank tiếp tục ghi dấu ấn là thành viên tích cực trong quan hệ hợp tác đa phương thông qua các diễn đàn quốc tế lớn như: Hội nghị thường niên ADB tại Đức, Hội nghị thường niên SIBOS tại Thụy Sỹ, Hội nghị Đại hội đồng APRACA tại Nepal, Hội nghị CICA tại Senegal, Kỳ họp Hiệp hội Ngân hàng Châu Á và APRACA tại Nhật Bản, Ấn Độ, Bangladesh…
Đến 31/12/2016, Agribank đã ký kết 104 biên bản ghi nhớ, thỏa thuận với đối tác nước ngoài, trong đó có 40 thỏa thuận chung, 13 thỏa thuận TTTM, 36 thỏa thuận cung cấp sản phẩm dịch vụ, 15 thỏa thuận chia sẻ phí, tạo cơ sở khai thác cơ hội kinh doanh tại các thị trường tiềm năng và khung pháp lý cho việc hợp tác phát triển sản phẩm, dịch vụ. Xây dựng hoàn thiện Đề án Phát triển quan hệ đối tác chiến lược tại thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Từ những kết quả tốt đẹp đã đạt được trong năm 2016, bước sang năm 2017, Agribank tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa mối quan hệ hợp tác trong và ngoài nước. Chủ động xây dựng các chương trình, dự án để vận động, thu hút nguồn vốn tài trợ của nước ngoài; Duy trì mối quan hệ hợp tác tốt với các Bộ ngành chuyên quản để tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác, tạo cơ hội tiếp cận, thực hiện triển khai dự án đối với các Bộ, ngành và các tổ chức, nhà tài trợ quốc tế. Có giải pháp đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng cho toàn hệ thống đi kèm với kiểm soát và quản trị rủi ro; nâng cao chất lượng thẩm định, cho vay đặc biệt là cho vay tài trợ dự án.
Để tạo hành lang thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh đối ngoại nói riêng, Agribank chủ động xây dựng các gói sản phẩm dịch vụ đồng bộ dành cho từng đối tượng khách hàng; Ban hành cơ chế chính sách khách hàng rõ ràng với tiêu chí phân loại khách hàng và cơ chế cấp tín dụng, ưu đãi phí, lãi suất với từng đối tượng khách hàng riêng biệt; xây dựng chính sách lãi suất cho vay ngoại tệ ngắn hạn linh hoạt theo từng vùng miền và từng thời kỳ nhằm tạo điều kiện cho chi nhánh tăng trưởng cho vay ngoại tệ, từ đó tăng doanh số TTQT.
VC
Tạp chí Ngân hàng số 5/2017

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sớm đưa Việt Nam ra khỏi “Danh sách Xám”

Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và Thông tư số 09/2023/TT-NHNN ngày 28/7/2023 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn thực hiện các nghĩa vụ của đối tượng báo cáo. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy một số nội dung cần được điều chỉnh, cập nhật để bảo đảm phù hợp hơn với thực tế, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quốc tế. Đây là nội dung được trao đổi, thảo luận tích cực tại Hội thảo "Lấy ý kiến đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2023/TT-NHNN và cập nhật, phổ biến kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền, tài trợ khủng bố" do NHNN tổ chức ngày 15/5/2025.
Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Chính sách tín chỉ xe điện kép để giải quyết ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tín chỉ hiệu suất năng lượng và tín chỉ xe không phát thải để giảm ô nhiễm không khí. Mô hình này tạo động lực đầu tư vào xe điện, công nghệ tiết kiệm năng lượng và hạ tầng xanh. Việt Nam cần xây dựng hệ thống đánh giá tiêu thụ năng lượng và phát thải khí nhà kính của các dòng xe; quy định về cấp và giao dịch tín chỉ để hỗ trợ quá trình chuyển dịch xanh và đạt mục tiêu Net Zero.
Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Kế hoạch triển khai Phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ký Quyết định số 923/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 ban hành Kế hoạch triển khai Phong trào thi đua “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” (Kế hoạch).
Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Ổn định kinh tế vĩ mô khi tăng trưởng cao tại Việt Nam

Tăng trưởng cao không nhất thiết đi kèm với lạm phát cao, bong bóng tài sản, nợ xấu gia tăng và đồng nội tệ mất giá. Nhưng các yếu tố này vẫn tiềm ẩn như các rủi ro kinh tế vĩ mô, tạo nguy cơ đối với sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam trong thời gian tới. Bài viết này đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng cao, với trọng tâm là phát huy điểm mạnh và hạn chế hiệu ứng tiêu cực từ vận hành chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình

Ngày 4/5, Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có bài viết, trong đó nêu rõ các yêu cầu mục tiêu; những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản để đưa Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/04/2025 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, mang lại những kết quả thiết thực trong đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.
Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại châu Á: Vai trò của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và kinh tế vĩ mô

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của cạnh tranh thị trường, chất lượng thể chế và các yếu tố kinh tế vĩ mô tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tại châu Á. Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 43.232 quan sát từ 1.093 ngân hàng thương mại ở các nước châu Á trong giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2024. Bằng cách tiếp cận theo phương pháp hồi quy 2SLS, nghiên cứu đã khắc phục được vấn đề nội sinh trong mô hình và mang lại các kết quả ước lượng vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số Lerner và Z-score hay cạnh tranh thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc