Xây dựng mô hình liên kết 5 “nhà” góp phần phát triển chuỗi giá trị nông sản chủ lực tỉnh Bến Tre

Hoạt động ngân hàng
Thời gian qua, tỉnh Bến Tre đã rất quan tâm xây dựng các chính sách phát triển và hoàn thiện chuỗi giá trị trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, qua đó nhằm tăng cường phát triển các thế mạnh kinh tế của tỉnh. Đồng hành với các chủ trương này, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã tích cực tham gia, có nhiều chính sách ưu tiên về vốn cho sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi và bước đầu hình thành một số chuỗi liên kết hoạt động hiệu quả.
aa

Thời gian qua, tỉnh Bến Tre đã quan tâm xây dựng các chính sách phát triển và hoàn thiện chuỗi giá trị trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, qua đó nhằm tăng cường phát triển các thế mạnh kinh tế của tỉnh. Đồng hành với các chủ trương này, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã tích cực tham gia, có nhiều chính sách ưu tiên về vốn cho sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi và bước đầu hình thành một số chuỗi liên kết hoạt động hiệu quả.

Sau 30 năm đổi mới, với các chính sách, cơ chế phù hợp đã thúc đẩy nông nghiệp tỉnh Bến Tre phát triển tương đối toàn diện với tốc độ nhanh hơn. Để phát huy thế mạnh của tỉnh, cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp, ngày 05/8/2016, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2025, với 8 sản phẩm chủ lực (dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, hoa kiểng, heo, bò và tôm biển). Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, Tỉnh ủy Bến Tre tiếp tục ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/01/2021 về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nông sản chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025 và định hướng đến năm 2030.

Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU và 2 năm triển khai Nghị quyết số 07-NQ/TU của Tỉnh ủy Bến Tre, đến nay, toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 78.195 ha diện tích đất trồng dừa, sản lượng gần 700 triệu trái/năm; 25.105 ha cây ăn trái, sản lượng 310.015 tấn/năm; 45.946 ha nuôi trồng thủy sản, sản lượng 298.048 tấn. Tỉnh Bến Tre đã hình thành một số chuỗi giá trị nông sản chủ lực khá rõ nét là dừa, bưởi da xanh và chôm chôm. Trong đó, chuỗi dừa thể hiện đầy đủ đặc điểm của một chuỗi sản phẩm, có hiệu quả và tạo ra giá trị gia tăng khá lớn cho ngành dừa của tỉnh. Toàn tỉnh có 67 tổ hợp tác, 67 hợp tác xã tham gia vào chuỗi giá trị; 24.246,6 ha sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, GAP và tương đương; 28 vùng trồng được gắn 59 mã số với diện tích 550,18 ha; 06 chỉ dẫn địa lí (dừa xiêm xanh, bưởi da xanh, sầu riêng, tôm càng xanh, xoài tứ quý và cua biển), 09 nhãn hiệu chứng nhận (bò Ba Tri, heo Mỏ Cày Nam, xoài Tứ quý Thạnh Phú, tôm biển, tôm càng xanh, cua biển, chôm chôm, gà nòi lai tàu), 31 nhãn hiệu tập thể.

Đồng hành với các chủ trương, chính sách của tỉnh, thời gian qua, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã hướng dòng vốn tín dụng với nhiều giải pháp tích cực vào phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần xây dựng vùng sản xuất tập trung, ưu tiên cho các nhu cầu tăng trưởng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Theo đó, tổng số tiền cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 2000 đến năm 2022 đạt 344.565 tỉ đồng, chiếm 84,5% tổng dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
đến cuối tháng 5/2023 đạt 41.900 tỉ đồng, chiếm 72% dư nợ; trong đó dư nợ cho vay liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị đạt gần 2.000 tỉ đồng (gồm 16 chuỗi liên kết ngang, liên kết dọc các sản phẩm: dừa, tôm, bò, lúa, gạo, nghêu, heo), qua đó góp phần tích cực trong xây dựng vùng sản xuất tập trung gắn chuỗi sản phẩm nông nghiệp, hỗ trợ tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị và thu nhập, cải thiện đời sống người dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh vẫn đang phải đối mặt với nhiều hạn chế, bất cập, đó là tiến độ xây dựng và hoàn thiện các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của tỉnh còn chậm. Một số sản phẩm (tôm biển, nhãn, lợn, bò và hoa cảnh) chỉ đạt mức độ chuỗi cung ứng ngắn, liên kết đầu vào, đầu ra chưa bền vững. Quy mô diện tích, sản lượng tham gia chuỗi các sản phẩm chủ lực còn nhỏ so với yêu cầu, chưa đạt mục tiêu đề ra. Nguyên nhân của những bất cập trên là kinh tế tập thể còn chậm phát triển, chưa đảm nhận tốt vai trò tổ chức lại sản xuất hàng hóa quy mô lớn, sản xuất sạch và liên kết tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp tham gia liên kết chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tỉnh nên hạn chế năng lực đầu tư và chế biến sâu; việc thu hút, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn… Mối liên kết tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân và doanh nghiệp chưa bền vững.

Trước những hạn chế, thách thức nêu trên, để góp phần cùng các cấp, các ngành địa phương khắc phục tồn tại, NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre đã ký kết Quy chế phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, chỉ đạo các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng trên địa bàn tham gia sâu vào mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Theo đó, ngân hàng làm cầu nối, soạn thảo hợp đồng liên kết các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến nông sản; chọn doanh nghiệp có đủ kinh nghiệm, năng lực và có thị trường tiêu thụ tốt làm doanh nghiệp dẫn dắt ký kết thỏa thuận liên kết ngang với các doanh nghiệp liên quan trong cùng ngành hàng, xây dựng vùng nguyên liệu thông qua vận động các hộ nông dân tham gia vào chuỗi liên kết dọc với doanh nghiệp dẫn dắt.


Hội nghị Sơ kết 01 năm thực hiện Quy chế phối hợp giữa NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre


Mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị có sự tham gia của ngân hàng bắt đầu được hình thành, các bên gắn kết chặt chẽ bằng hợp đồng kinh tế với lợi ích hài hòa, đồng thời các bên tham gia đều phải mở tài khoản tại ngân hàng. Ngân hàng cho doanh nghiệp dẫn dắt và các doanh nghiệp trong chuỗi liên kết ngang vay vốn, các doanh nghiệp ứng vốn cho nông dân, cung ứng vật tư, hỗ trợ kĩ thuật sản xuất hữu cơ, sản xuất sạch, năng suất chất lượng nông sản tăng cao, doanh nghiệp cam kết bao tiêu nông sản, nông dân bán được sản phẩm trực tiếp cho doanh nghiệp mà không qua thương lái, giá cả nông sản ổn định và cao hơn so với hộ sản xuất không tham gia chuỗi liên kết. Đồng thời, ngân hàng có thể cấp hạn mức tín dụng dưới hình thức cho vay thấu chi qua tài khoản để nông dân có thể giải quyết vấn đề vốn theo thời vụ; ngân hàng kiểm soát được dòng tiền trong chuỗi khép kín, đánh giá được tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn, từ đó có thể xem xét, tăng cường cho vay không có tài sản bảo đảm đối với các bên tham gia chuỗi theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Thông qua mô hình sản xuất của chuỗi liên kết này, nhiều hộ dân thấy được lợi ích kinh tế, dần dần quy mô và số lượng hộ nông dân tham gia chuỗi phát triển ngày càng lớn, theo nhu cầu và điều kiện thực tế đòi hỏi hình thành hợp tác xã dịch vụ, làm đầu mối liên kết giữa các hộ dân và doanh nghiệp trong chuỗi giá trị, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ trung gian như vật tư, phân bón, cây và con giống, đào tạo, hướng dẫn kĩ thuật sản xuất cho nông dân thông qua các hợp tác xã dịch vụ. Hợp tác xã thu gom, sơ chế nông sản và bán cho doanh nghiệp; qua đó, doanh nghiệp và nông dân cũng giảm được chi phí vận chuyển, sơ chế ban đầu.

Kết quả đánh giá áp dụng mô hình liên kết chuỗi khép kín có sự tham gia của ngân hàng trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong thời gian qua cho thấy, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển vùng sản xuất tập trung, hoàn thiện một số chuỗi giá trị nông sản chủ lực của tỉnh, đồng thời hỗ trợ phát triển một số doanh nghiệp dẫn dắt trong lĩnh vực chế biến, nhất là các doanh nghiệp chế biến dừa, xuất khẩu trái cây trên địa bàn tỉnh, mô hình này cũng tạo điều kiện thúc đẩy thành lập các hợp tác xã theo yêu cầu thực tế, hoạt động hiệu quả, thực chất.



Lễ ký kết chuỗi liên kết ngang ngành dừa giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh tỉnh Bến Tre, Công ty Cổ phần đầu tư dừa Bến Tre và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Minh Tâm


Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Chi nhánh tỉnh Bến Tre ký thỏa thuận hợp tác toàn diện với Công ty Chế biến dừa Lương Quới, doanh nghiệp dẫn dắt hình thành chuỗi dừa


Từ kinh nghiệm thực tiễn đã đạt được, để tiếp tục phát huy vai trò tích cực của hệ thống ngân hàng trong việc đẩy mạnh xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nông sản chủ lực tỉnh Bến Tre theo tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TU của Tỉnh ủy Bến Tre đề ra, trong thời gian tới, NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre đã đề ra giải pháp và đề xuất một số nội dung trọng tâm cần thực hiện như sau:

Thứ nhất, hệ thống ngân hàng tỉnh Bến Tre giữ vai trò kết nối, dẫn dắt tiếp tục xây dựng mô hình liên kết mới nhằm mở rộng vùng sản xuất tập trung gắn với hoàn thiện chuỗi giá trị nông sản chủ lực, đó là liên kết 5 “nhà”: Nhà nước - doanh nghiệp - nhà nông - nhà khoa học - ngân hàng. Trong đó, Nhà nước là nhân tố quan trọng nhất, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để 4 “nhà” còn lại liên kết tốt được với nhau, tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển liên kết. Doanh nghiệp dẫn dắt giữ vai trò liên kết ngang với các doanh nghiệp liên quan trong chuỗi liên kết, có thể ứng vốn, cung ứng vật tư, phối hợp với nhà khoa học nghiên cứu kĩ thuật, con giống, phương pháp sản xuất cho nhà nông, thu mua nông sản sơ chế từ hợp tác xã hoặc thu mua nông sản trực tiếp từ nhà nông, hợp tác xã cung cấp dịch vụ, trang thiết bị, vật tư đầu vào cho sản xuất, thu mua, sơ chế sản phẩm nông sản; nhà khoa học phổ biến kĩ thuật chăm sóc, nuôi trồng, xử lí các vấn đề môi trường. Ngân hàng giữ vai trò kết nối, liên kết chặt chẽ giữa nhà nông - nhà khoa học và doanh nghiệp, cho vay doanh nghiệp đầu mối, các thành viên tham gia chuỗi và cung cấp các dịch vụ thanh toán để xây dựng chuỗi khép kín, kiểm tra, kiểm soát dòng tiền bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn và lợi ích hài hòa giữa các bên tham gia chuỗi, qua đó tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, áp dụng hiệu quả các chính sách ưu đãi về tín dụng, dịch vụ thanh toán cho các thành viên chuỗi giá trị.

Thứ hai, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre cần có cơ chế, tạo điều kiện để ngân hàng tham gia xây dựng mô hình liên kết 5 “nhà”, trong đó quan tâm phát triển doanh nghiệp dẫn dắt trong lĩnh vực chế biến nông sản và thu hút đầu tư của các doanh nghiệp chế biến, đủ tiềm lực, đủ mạnh và có thị trường tiêu thụ ổn định để dẫn dắt hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với phát triển sản xuất theo mô hình liên kết trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Thứ ba, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre cần chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh phối hợp đồng bộ với NHNN Chi nhánh tỉnh để xây dựng mô hình liên kết mới, trong đó giao cho NHNN Chi nhánh tỉnh làm đầu mối, gắn kết các tổ chức tín dụng trên địa bàn đồng thuận hưởng ứng chủ trương của tỉnh, quyết liệt và chủ động tham gia xây dựng, hoàn thiện mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi liên kết. Tạo điều kiện để ngân hàng vận động khách hàng vay, doanh nghiệp dẫn dắt ký kết thỏa thuận hợp tác ngang, dọc giữa khách hàng - doanh nghiệp, hợp tác xã và ngân hàng.

Thứ tư, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh cần thay đổi tư duy, phương thức cho vay theo truyền thống, chuyển đổi mạnh mẽ cho vay phục vụ sản xuất theo mô hình liên kết chuỗi, phát huy lợi thế về nguồn lực tài chính, hình thành các sản phẩm tín dụng ưu đãi, khuyến mại các dịch vụ thanh toán để thu hút khách hàng tham gia, giữ vai trò đầu tàu, chủ động trong xây dựng hợp đồng, thỏa thuận hợp tác, liên kết 5 “nhà” chặt chẽ, qua đó cho vay, cung ứng dịch vụ ngân hàng, hướng tới sự phát triển an toàn, bền vững, bảo đảm chất lượng và hiệu quả tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp chế biến, hợp tác xã nông nghiệp thông qua mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.

Thứ năm, các ngành, các cấp đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền để người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong xây dựng vùng sản xuất tập trung gắn với phát triển chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực, lợi ích và tính tất yếu của việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa, quy mô lớn, hiện đại và sạch gắn với xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp; các chương trình, sản phẩm tín dụng ưu đãi đối với sản xuất theo mô hình liên kết chuỗi.

Thứ sáu, Ủy ban nhân dân huyện, thành phố, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị ở địa phương cần tăng cường trách nhiệm, vận động người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh, phối hợp với các ngành các cấp, xây dựng mô hình điểm và nhân rộng mô hình liên kết 5 “nhà” trong toàn tỉnh.

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ.
3. Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 05/8/2016 của Tỉnh ủy Bến Tre về xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2025.
4. Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy Bến Tre về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nông sản chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025 và định hướng đến năm 2030.
5. Báo cáo Sơ kết nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025.

ThS. Lê Công Thành (Giám đốc NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre)
ThS. Bùi Thị Thúy Hằng (Phó Giám đốc NHNN Chi nhánh tỉnh Bến Tre)
https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Xem thêm
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Trong năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, thông qua việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và bộ tiêu chí phân loại tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp bất động sản. Tín dụng bất động sản cũng được định hướng ưu tiên cho các phân khúc phục vụ an sinh xã hội như nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và các dự án thương mại đáp ứng nhu cầu ở thực sự của người dân.
Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của ngành Ngân hàng, doanh số giải ngân chương trình cho vay lãi suất ưu đãi đối với chủ đầu tư, người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (chương trình 145 nghìn tỉ đồng) đã có sự cải thiện qua thời gian, tháng sau cao hơn tháng trước, tương ứng với nguồn cung nhà ở xã hội gia tăng.
Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện 82/CĐ-TTg ngày 4/6/2025 về tiếp tục đẩy mạnh cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng