Tín dụng chính sách nâng cao cơ hội tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù

Hoạt động ngân hàng
Trải qua hơn 20 năm hoạt động, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) đã thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội (TDCSXH) góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo.
aa

Tóm tắt: Trải qua hơn 20 năm hoạt động, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) đã thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội (TDCSXH) góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Ngày 17/8/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 22/2023/QĐ-TTg về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù đã tạo điều kiện cho những người chấp hành xong án phạt tù được vay vốn để ổn định cuộc sống, hòa nhập lại với xã hội. Bài viết này phân tích thực trạng và kết quả sau một năm thực hiện chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù của NHCSXH, trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình này, tạo cơ hội cho người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, giảm gánh nặng tài chính cho xã hội.

Từ khóa: NHCSXH, tín dụng chính sách, người chấp hành xong án phạt tù

POLICY CREDIT CONTRIBUTES TO ENHANCING COMMUNITY REINTEGRATION
OPPORTUNITIES FOR EX-OFFENDERS

Abstract: Over more than 20 years of operation, the Vietnam Bank for Social Policies (VBSP) has implemented social policy credit programs, significantly contributing to improving the quality of life for citizens and achieving poverty reduction goals. The issuance of Decision No. 22/2023/QĐ-TTg has enabled ex-offenders to access loans to stabilize their lives and reintegrate into society. This study analyzes the outcomes of VBSP’s lending program for ex-offenders after one year of implementation. Based on an analysis of the current state of this initiative, the author also offers several recommendations to enhance its effectiveness, thereby creating opportunities for ex-offenders to reintegrate into the community and reducing the financial burden on society.

Keywords: VBSP, policy credit, ex-offender.

1. Giới thiệu

Việc tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của xã hội. Những người này thường gặp khó khăn nhất định trong việc tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống. Chính sách tín dụng dành cho người từng vi phạm pháp luật do NHCSXH thực hiện đã trở thành một trong những công cụ quan trọng giúp cho họ ổn định cuộc sống, hòa nhập lại với xã hội. Kết thúc thời gian thi hành án, nhiều người phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là trong việc tiếp cận các nguồn lực kinh tế để tái thiết cuộc sống, trong số đó có những người thiếu nguồn vốn khởi nghiệp, gặp trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm ổn định, từ đó có nguy cơ rơi vào tình trạng bế tắc, gia tăng nguy cơ tái phạm tội. Việc cung cấp các khoản vay ưu đãi cho người chấp hành xong án phạt tù không những giúp họ có nguồn lực tài chính để khởi nghiệp, sản xuất, kinh doanh mà còn tạo động lực quan trọng để xây dựng cuộc sống mới, giảm thiểu nguy cơ tái phạm tội, giúp họ vươn lên trong cuộc sống. Cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù không chỉ là hình thức hỗ trợ tiếp cận tài chính chính thức cho người từng vi phạm pháp luật, mà còn là một chính sách nhân văn góp phần xây dựng cộng đồng tốt đẹp hơn.

2. Tổng quan về chính sách tín dụng cho người chấp hành xong án phạt tù

Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng, thư tín dụng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.

TDCSXH được hiểu là hình thức cấp tín dụng thông qua hoạt động cho vay theo chỉ định của Chính phủ, không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm hỗ trợ các chính sách kinh tế, chính trị và xã hội của Nhà nước.

Điều 1 Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác quy định: “Tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác là việc sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, ổn định xã hội”.

TDCSXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, ổn định kinh tế - chính trị và bảo đảm an sinh xã hội.

Với các chương trình cho vay đa dạng, hiện nay, NHCSXH đang triển khai 25 chương trình tín dụng cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Nghiệp vụ cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù được thực hiện theo Quyết định số 22/2023/QĐ-TTg, theo đó, đối tượng vay vốn gồm có người chấp hành xong án phạt tù và cơ sở sản xuất, kinh doanh, bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh có sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù. Để được vay vốn dưới hình thức này, người chấp hành xong án phạt tù và các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù phải bảo đảm các nguyên tắc và điều kiện vay vốn theo quy định của NHCSXH. Văn bản số 7557/NHCS-TDSV ngày 20/9/2023 của NHCSXH hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù quy định rõ về mục đích sử dụng vốn đối với vay vốn để đào tạo nghề cho người chấp hành xong án phạt tù bao gồm chi phí cho việc học tập, sinh hoạt tại các trường đại học, cao đẳng, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, mục đích cho vay để trang trải chi phí sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Đối với hình thức cho vay này, người chấp hành xong án phạt tù không phải thực hiện bảo đảm tiền vay; các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù có vốn trên 100 triệu đồng mới phải thực hiện bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật và quy định của NHCSXH.

Tái hòa nhập xã hội có thể hiểu là quá trình người từng vi phạm pháp luật trở lại cộng đồng sinh sống và làm việc bình thường. Để quá trình này thành công thì tài chính là một yếu tố quyết định để các hoạt động của người chấp hành xong án phạt tù có điều kiện sống ổn định, góp phần vào phát triển kinh tế địa phương. Hoạt động cho vay người chấp hành xong án phạt tù của NHCSXH cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với những người từng vi phạm pháp luật, thể hiện tính nhân văn trong các chính sách xã hội, giúp người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, đóng góp tích cực vào sự ổn định xã hội.

3. Thực trạng hoạt động cho vay người chấp hành xong án phạt tù của NHCSXH

Trải qua một năm triển khai thực hiện chương trình cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù, hoạt động này của NHCSXH đã đạt được những kết quả đáng chú ý như sau:

Về số lượng khách hàng vay vốn

Tính đến ngày 30/9/2024, chương trình đã hỗ trợ vốn vay cho 7.501 khách hàng trên khắp cả nước, số khách hàng còn dư nợ của chương trình là 7.274 khách hàng, trong đó, lũy kế số lượt khách hàng vay vốn từ khi thực hiện chương trình là 7.501 khách hàng. Nhu cầu hỗ trợ tài chính tái hòa nhập cộng đồng của các khách hàng phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế và điều kiện của từng khu vực. Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có số lượng khách hàng vay vốn lớn nhất với 1.813 người, chiếm 24,17% tổng số khách hàng. Khách hàng tại khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung thường gặp nhiều thách thức về kinh tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa với các cơ hội phát triển kinh tế và việc làm còn hạn chế, do đó, người chấp hành xong án phạt tù ở khu vực này có nhu cầu hỗ trợ tài chính cao hơn so với các khu vực khác. Khu vực Tây Nguyên có số lượng khách hàng vay vốn là 824 người, chiếm 10,99% tổng số khách hàng - đây cũng là khu vực có diện tích rộng, tập trung nhiều vào sản xuất nông nghiệp, do đó, người chấp hành xong án phạt tù vay vốn để tái hòa nhập và tham gia và các hoạt động sản xuất nông nghiệp. (Biểu đồ 1)

Biểu đồ 1: Số lượng khách hàng vay vốn

chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù

Đơn vị tính: Khách hàng

Nguồn: NHCSXH


Về tăng trưởng dư nợ

Tăng trưởng dư nợ là yếu tố quan trọng để đánh giá tính hiệu quả của mỗi chương trình cho vay. Dư nợ chương trình cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù đã có sự tăng trưởng sau một năm thực hiện, cho thấy sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương và nhu cầu thực tế của người chấp hành xong án phạt tù.

Tính đến ngày 30/9/2024, dư nợ của chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù đạt 596.026 triệu đồng, trong đó dư nợ lớn nhất tập trung ở khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, khu vực Trung du miền núi phía Bắc và khu vực Đồng bằng sông Hồng.

Biểu đồ 2: Tổng dư nợ chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù

(Tính đến ngày 30/9/2024)

Đơn vị tính: Triệu đồng

Nguồn: NHCSXH


Biểu đồ 2 cho thấy khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có dư nợ cao nhất 147.745 triệu đồng, chiếm 24,79% tổng dư nợ; khu vực Đồng bằng sông Hồng có dư nợ là 125.683 triệu đồng và Trung du miền núi phía Bắc đạt dư nợ 126.293 triệu đồng, chiếm khoảng 21% tổng dư nợ. Khu vực Đông Nam Bộ có dư nợ thấp nhất, ở mức 48.578 triệu đồng, chỉ chiếm 8,15% trong tổng dư nợ chương trình này. Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có mật độ dân số tương đối cao, nhu cầu vay vốn tái hòa nhập xã hội tương đối lớn, đây cũng là khu vực kinh tế còn tồn tại những khó khăn nhất định, phụ thuộc vào các ngành sản xuất nông nghiệp và dịch vụ nhỏ lẻ. Trong khi đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng có mức độ đô thị hóa cao, tuy nhiên, nhu cầu vay của các đối tượng cần hỗ trợ vay vốn cũng tương đối lớn, đặc biệt trong các ngành, nghề dịch vụ, sản xuất, kinh doanh nhỏ.

Về doanh số cho vay, doanh số thu nợ

Biểu đồ 3: Doanh số cho vay, doanh số thu nợ chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù

(Tính đến ngày 30/9/2024)

Đơn vị tính: Triệu đồng

Nguồn: NHCSXH

Số liệu Biểu đồ 3 cho thấy, kể từ khi triển khai thực hiện chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù, tính đến ngày 30/9/2024, tổng doanh số cho vay đạt 617.557 triệu đồng; doanh số thu nợ đạt 21.531 triệu đồng. Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có doanh số cho vay và doanh số thu nợ người chấp hành xong án phạt tù lớn nhất. Nhìn chung, tỉ lệ thu nợ trên doanh số cho vay ở mỗi khu vực còn chưa cao do chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù mới được NHCSXH triển khai từ cuối năm 2023, nhiều khoản vay chưa đến hạn hoàn trả, bên cạnh đó, các khoản vay đối với người chấp hành xong án phạt tù có thời gian trả nợ linh hoạt để người vay có điều kiện phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống trước khi họ có đủ khả năng trả nợ.

Về tình hình nợ quá hạn

Tính đến ngày 30/9/2024, chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù của NHCSXH chưa phát sinh nợ quá hạn, nợ khoanh, đây có thể coi là kết quả đáng chú ý của chương trình sau một năm triển khai. Các phòng giao dịch, tổ nghiệp vụ nghiêm túc thực hiện theo sự chỉ đạo của NHCSXH, thường xuyên theo dõi sát sao từng khách hàng, từng khoản vay. Chất lượng cho vay người chấp hành xong án phạt tù được quản lý tốt, đem lại hiệu quả hoạt động cao, công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay người chấp hành xong án phạt tù được thực hiện nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động TDCSXH.

4. Đánh giá kết quả hoạt động cho vay người chấp hành xong án phạt tù của NHCSXH

Thực hiện Quyết định số 22/2023/QĐ-TTg, chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù được NHCSXH triển khai, đến nay, qua một năm thực hiện đã nhận được các kết quả đáng chú ý, góp phần hỗ trợ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập xã hội và xây dựng ổn định cuộc sống.

Chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù đã phát huy hiệu quả; thực hiện cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng. Từ nguồn vốn của chương trình, người chấp hành xong án phạt tù có khả năng tự tạo việc làm hoặc phát triển các hoạt động kinh tế nhỏ lẻ như buôn bán, sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… giảm thiểu nguy cơ tái phạm tội do không có việc làm, không có thu nhập; tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng, cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm gánh nặng cho xã hội. Thực tế triển khai chương trình cho thấy, nguồn vốn cho vay được chuyển tải tới đúng đối tượng thụ hưởng, chủ yếu để đầu tư vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, góp phần gia tăng sản xuất hàng hóa, tạo nguồn lực phát triển kinh tế địa phương. Việc lựa chọn và hỗ trợ đúng người thụ hưởng giúp nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả, tối ưu hóa nguồn lực tài chính; những người có kỹ năng, kinh nghiệm được hỗ trợ nguồn vốn kịp thời đã nắm bắt được cơ hội nghề nghiệp, tạo ra thu nhập ổn định và có điều kiện hoàn trả khoản vay cho ngân hàng đầy đủ, đúng hạn.

Chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù đã góp phần tạo việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp. Trên thực tế, nhiều người sau khi chấp hành xong án phạt tù gặp những rào cản nhất định khi gia nhập thị trường lao động; nhiều người trong số họ khó khăn khi học tập phát triển kỹ năng nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm, khó khăn về vốn… Bằng việc hỗ trợ nguồn vốn cho người chấp hành xong án phạt tù và những cơ sở sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù, chương trình đã góp phần tạo việc làm, giúp họ thoát khỏi tình trạng thất nghiệp, tạo động lực trong cuộc sống, giúp họ dễ dàng hơn trong việc hoàn lương, trở thành người có ích cho xã hội, lan tỏa tinh thần tích cực trong cộng đồng, hướng tới những giá trị nhân văn cao đẹp.

Hoạt động cho vay người chấp hành xong án phạt tù còn có tác động giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Khi người chấp hành xong án phạt tù có việc làm và thu nhập ổn định sẽ giảm thiểu sự phụ thuộc vào trợ cấp xã hội, giảm các chi phí cho các chương trình phúc lợi, mặt khác, khi cuộc sống của người chấp hành xong án phạt tù được ổn định, nguy cơ tái phạm tội sẽ giảm đi, góp phần tiết giảm chi phí liên quan đến các thủ tục pháp lý về xử lý tội phạm, giảm bớt gánh nặng cho hệ thống tư pháp, sự ổn định kinh tế cá nhân, góp phần vào sự ổn định của toàn xã hội. Khi người chấp hành xong án phạt tù có công việc tạo ra thu nhập, họ trở thành những cá nhân tự chủ về tài chính trong tương lai, qua đó có thể có nguồn thu đóng góp vào ngân sách nhà nước, đồng thời giúp họ tham gia vào các hoạt động xã hội lành mạnh, tốt đẹp.

5. Một số khuyến nghị

Để nâng cao hiệu quả chương trình cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù, tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Đối với các tỉnh, thành phố

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền đối với công tác hỗ trợ người chấp hành xong án phạt tù, tìm kiếm việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, gắn công tác đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực; nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách việc làm; xác định hỗ trợ việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và bản thân người lao động.

Thứ hai, tập trung ưu tiên nguồn lực, bố trí đủ, kịp thời nguồn vốn tín dụng chính sách, nhất là nguồn vốn cho vay người chấp hành xong án phạt tù để hỗ trợ người chấp hành xong án phạt tù một cách kịp thời, giúp họ ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, ổn định việc làm và có thu nhập.


đồng hỗ trợ và đồng hành với người chấp hành xong án phạt tù để giúp họ có thể chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tạo động lực và niềm tin cho người chấp hành xong án phạt tù hòa nhập, thay đổi nhận thức của cộng đồng về họ. Cung cấp các khóa học về kỹ năng quản lý tài chính để giúp cho người chấp hành xong án phạt tù sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ một cách hiệu quả và bền vững.

Đối với NHCSXH

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách cho vay tới người chấp hành xong án phạt tù và các cơ sở sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù. NHCSXH phối hợp với các cơ quan báo chí, đài truyền hình và truyền thông cộng đồng để xây dựng các chương trình, đăng tải thông tin giới thiệu về các chính sách cho vay của NHCSXH nói chung, cho vay người chấp hành xong án phạt tù nói riêng. Thực hiện thông tin, tuyên truyền ngắn gọn, dễ hiểu, tập trung vào các nội dung liên quan đến điều kiện vay vốn, thủ tục vay vốn, chính sách hỗ trợ cũng như lợi ích của chương trình; những thông tin này có thể được phổ biến tại các trại giam để người đang chấp hành án phạt tù nắm được chính sách hỗ trợ của Nhà nước, giúp họ có động lực cải tạo tốt để hoàn lương, hòa nhập cuộc sống sau khi chấp hành xong án phạt tù.

Hai là, phối hợp với các tổ chức hội, đoàn thể tại các địa phương tích cực hơn trong việc tuyên truyền cũng như triển khai kế hoạch kiểm tra hằng năm, đôn đốc người vay sử dụng vốn đúng mục đích, trả nợ, lãi đúng hạn, đồng thời, thông báo cho NHCSXH những trường hợp sử dụng vốn vay sai mục đích, đi khỏi nơi cư trú kịp thời.

Ba là, tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, tăng vòng quay vốn tín dụng chương trình người chấp hành xong án phạt tù bằng việc tiến hành đồng bộ các giải pháp như chỉ đạo cán bộ tín dụng theo dõi địa bàn thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương, theo dõi chặt chẽ nợ đến hạn theo phân kỳ, nợ đến hạn kỳ cuối để đôn đốc thu hồi cho vay quay vòng. Các chi nhánh NHCSXH cần chủ động tiếp cận, rà soát nắm bắt nhu cầu vay vốn của người chấp hành xong án phạt tù để đưa ra các giải pháp phù hợp, hiệu quả, đầu tư cho vay kịp thời, đúng quy định.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, thẩm định cho vay, cải tiến thủ tục, hồ sơ và quy trình cho vay. Đối với cho vay các chương trình tín dụng trong đó có chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù, công tác kiểm tra, giám sát là công tác thường xuyên và liên tục của các cấp, ban, ngành, trong đó chi nhánh, phòng giao dịch NHCSXH nơi cho vay hằng năm xây dựng kế hoạch kiểm tra, rà soát các khoản vay. Qua công tác kiểm tra sẽ phát hiện tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện, kịp thời có các biện pháp khắc phục và chấn chỉnh những thiếu sót trong quy trình, thủ tục cho vay. Kiểm tra kỹ các khoản vay có được sử dụng đúng mục đích không, người vay có đang sử dụng hiệu quả nguồn vốn không sẽ giúp ngân hàng kiểm soát tốt tỉ lệ nợ quá hạn.


6. Kết luận

Chương trình cho vay người chấp hành xong án phạt tù sau một năm được NHCSXH triển khai thực hiện đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong ngắn hạn và trong tương lai sẽ mang lại những tác động dài hạn với người chấp hành xong án phạt tù, giúp họ có cơ hội hoàn lương, sớm hòa nhập với cộng đồng, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần sự phối hợp đồng bộ giữa NHCSXH với các cấp chính quyền địa phương, cơ sở đào tạo, sử dụng lao động... để nâng cao hiệu quả chương trình tín dụng mang tính nhân văn này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Quyết định số 22/2023/QĐ-TTg ngày 17/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù.

2. Luật Các tổ chức tín dụng 2024.

3. Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

4. Văn bản số 7557/NHCS-TDSV của NHCSXH Hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối với người chấp hành xong án phạt tù.

5. Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với TDCSXH.

6. Lê Thị Mận (2013), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Lao động Xã hội.

7. PGS., TS. Tô Ngọc Hưng (2018), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê.

8. PGS., TS. Tô Ngọc Hưng (2022), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Lao động Xã hội.

9. PGS., TS. Tô Kim Ngọc, PGS., TS. Nguyễn Thanh Nhàn (2018), Giáo trình Tiền tệ Ngân hàng - Học viện Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê.

10. Phạm Minh Anh (2018), TDCSXH: Kết quả triển khai và đề xuất giải pháp, Viện chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính.

11. Trần Lan Phương (2016), Hoàn thiện công tác quản lý tín dụng chính sách của NHCSXH, Luận án tiến sĩ, Học viện Ngân hàng.


TS. Vương Thị Minh Đức
Học viện Ngân hàng, Phân viện Bắc Ninh


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thúc đẩy tín dụng xanh hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế

Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh. Đây là đánh giá của nhiều chuyên gia tại Tọa đàm đẩy mạnh triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và Lễ công bố "Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài" do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 21/5/2025 dưới sự chủ trì của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú.
Xem thêm
Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Hoạt động của ngân hàng chính sách trong cơ chế thị trường: Từ pháp luật đến thực tiễn thi hành

Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ, khuyến khích các đối tượng chính sách xã hội vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu chính đáng, là chủ trương đúng đắn, sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc, qua đó, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến việc sử dụng tài sản số, tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm ngân hàng tại Việt Nam

Tài sản số và tín chỉ carbon đang mở ra những cơ hội mới cho hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ việc đa dạng hóa tài sản bảo đảm đến thúc đẩy phát triển bền vững và đổi mới tài chính. Với tiềm năng lớn về nguồn cung tín chỉ carbon và sự phát triển của nền kinh tế số, Việt Nam có thể tận dụng các loại tài sản này để hỗ trợ mục tiêu Net Zero vào năm 2050 và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những rào cản về pháp lý, công nghệ và quản lý rủi ro hiện nay đang hạn chế khả năng ứng dụng của tài sản số, tín chỉ carbon. Việc hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các thách thức này.
Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Quán triệt Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi tạo động lực làm giàu trong toàn dân để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo Nghị quyết, từ năm 2026, Việt Nam sẽ chấm dứt cơ chế thuế khoán với hộ kinh doanh, chuyển sang cơ chế tự kê khai và nộp thuế theo doanh thu thực tế, đồng thời đẩy mạnh thu thuế điện tử.
Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc là một minh họa hậu quả sâu rộng của các xung đột thương mại. Tác động của nó còn vượt ra ngoài phạm vi hai nước này, khi các nền kinh tế phụ thuộc như Canada và Mexico cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số quốc gia lại tìm thấy cơ hội phát triển khi xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc xảy ra do sở hữu khả năng thay thế hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi thuế quan giữa hai quốc gia trên. Điều này phản ánh cách thức phức tạp và khó lường mà xung đột thương mại có thể định hình lại dòng chảy thương mại toàn cầu.
Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia  và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trong xu hướng phát triển nền kinh tế số, các giao dịch thường xuyên được thực hiện qua phương thức trực tuyến từ dịch vụ công đến các dịch vụ tài chính, cũng từ đó, rủi ro về bảo mật thông tin ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Các thông tin dữ liệu nói chung và thông tin dữ liệu cá nhân nói riêng là những vấn đề quan trọng trong các quan hệ xã hội và cần được bảo vệ như những quyền lợi chính đáng của con người.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng