Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Hoạt động ngân hàng
Bắc Ninh là tỉnh luôn tích cực đi đầu trong việc quán triệt triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40).
aa

Bắc Ninh là tỉnh luôn tích cực đi đầu trong việc quán triệt triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40). Thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh, các hoạt động tín dụng chính sách đối với các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác đã được triển khai rộng rãi, đồng bộ và hiệu quả. Trong 10 năm qua, kể từ khi thực hiện Chỉ thị số 40, tín dụng chính sách đã giúp hơn 575 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn được vay vốn để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và có thu nhập ổn định, có cơ hội học tập, vươn lên thoát nghèo, từng bước nâng cao điều kiện sống…, góp phần tích cực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững. Hiện nay, tỉnh Bắc Ninh đã không còn hộ thuộc diện nghèo.


Hội nghị công bố tỉnh Bắc Ninh không còn hộ nghèo; phát động phong trào “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát” trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ngày 31/10/2024


Đưa hoạt động tín dụng chính sách xã hội thành nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh

Nhìn lại 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40, những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã khẳng định sự đúng đắn của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã nhận thức rõ về vai trò, vị trí cũng như tầm quan trọng của tín dụng chính sách xã hội trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội của địa phương. Theo đó, hoạt động tín dụng chính sách xã hội đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là giai đoạn 5 năm 2021 - 2025.

Thực hiện chủ trương đa dạng hóa nguồn lực tín dụng chính sách xã hội, để bảo đảm có đủ nguồn vốn thực hiện các chương trình tín dụng chính sách trên địa bàn, cùng với nguồn vốn cân đối từ Trung ương, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo việc huy động và tập trung các nguồn lực tài chính, đáp ứng nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Hằng năm, HĐND tỉnh, huyện, thị xã, thành phố đều thực hiện bố trí dự toán ngân sách chuyển sang NHCSXH. Tính đến ngày 31/10/2024, tổng nguồn vốn NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đạt 4.114,4 tỉ đồng, tỉ lệ tăng trưởng 5,14% so với ngày 31/12/2023 và 134% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó: Nguồn vốn Trung ương đạt 3.495 tỉ đồng, tăng 95,5 tỉ đồng so với năm 2023; nguồn vốn huy động tại địa phương được Trung ương cấp bù lãi suất là 743,5 tỉ đồng, tăng 86,5 tỉ đồng so với năm 31/13/2023; huy động từ các tổ chức, cá nhân, dân cư là 572,9 tỉ đồng, tăng 85 tỉ đồng, đạt 113,3% kế hoạch; huy động thông qua tổ tiết kiệm và vay vốn là 170,8 tỉ đồng, tăng 1,4 tỉ đồng; nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương: 619,3 tỉ đồng, tăng 105,6 tỉ đồng.


Nguồn vốn vay ưu đãi đã giúp nhiều hộ gia đình xã Phú Lâm, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
có thêm nguồn lực phát triển kinh tế (nguồn ảnh: Internet)


Nguồn vốn trên địa bàn không ngừng tăng trưởng, ngày càng đáp ứng được tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác. Cơ cấu nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã chuyển biến theo hướng tăng nguồn vốn NHCSXH tự huy động được ngân sách nhà nước cấp bù lãi suất và nguồn lực tại địa phương, thể hiện rõ chủ trương “đa dạng hóa nguồn lực” với phương châm “nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm”. Nhờ đó, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội thời gian qua đã cơ bản đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Kết quả huy động vốn đã góp phần tích cực vào nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của NHCSXH. Đến ngày 31/10/2024, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 4.107,3 tỉ đồng, tăng 199,9 tỉ đồng so với năm 2023, tỉ lệ tăng trưởng 5,11%, tăng 2.363,3 tỉ đồng so năm 2014, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 13% với 76.500 khách hàng còn dư nợ. Trong đó, chương trình cho vay giải quyết việc làm tăng 230,4 tỉ đồng; chương trình nước sạch vệ sinh môi trường tăng 32,4 tỉ đồng; cho vay học sinh, sinh viên tăng 19,5 tỉ đồng; chương trình cho vay nhà ở xã hội tăng 3,9 tỉ đồng; chương trình cho vay các đối tượng chấp hành xong án phạt tù đạt 9,83 tỉ đồng; cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo giảm 83 tỉ đồng. Riêng 10 tháng năm 2024, doanh số cho vay tín dụng chính sách đạt 1.051,8 tỉ đồng; doanh số thu nợ đạt 851,4 tỉ đồng.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đang triển khai thực hiện trên 16 chương trình tín dụng chính sách và các chương trình do địa phương ủy thác thực hiện. Các cấp ủy, chính quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố đã quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho NHCSXH thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; các tổ chức hội đoàn thể đã thực hiện tốt các nội dung nhận ủy thác từ NHCSXH, chất lượng ủy thác ngày càng được nâng cao; hội đoàn thể các cấp đã phối hợp chặt chẽ với NHCSXH trên địa bàn và chính quyền địa phương trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách; làm tốt công tác bình xét cho vay; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ, thu lãi, hướng dẫn người vay sử dụng vốn hiệu quả; làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh điển hình, giúp nhau vươn lên thoát nghèo và làm giàu... đưa đồng vốn tín dụng ưu đãi đến với hộ nghèo và các đối tượng chính sách kịp thời, đúng đối tượng và phát huy hiệu quả; ưu tiên nguồn vốn cho vay để thực hiện các chương trình, dự án tín dụng chính sách xã hội và bảo đảm hoạt động ổn định, bền vững của hoạt động tín dụng chính sách xã hội.

Để tạo điều kiện hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhận ủy thác, các ngành chức năng tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn có hiệu quả, triển khai lồng ghép giữa chương trình vốn vay NHCSXH với các chương trình và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xây dựng và mở rộng các mô hình cho hộ nghèo, hộ sản xuất, kinh doanh vay vốn theo dự án có sự hướng dẫn, tư vấn của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đồng thời giới thiệu và tạo việc làm cho các đối tượng sau đào tạo nghề có việc làm thu nhập ổn định.

Các tổ chức hội, đoàn thể các cấp nhận ủy thác đã thể hiện rõ trách nhiệm nhận ủy thác, thực hiện các nội dung được ủy thác của các tổ chức chính trị - xã hội, luôn đồng hành với các đối tượng tham gia vay vốn, giúp các hộ vay tiếp cận với vốn tín dụng chính sách kịp thời, qua đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo thực hiện tín dụng chính sách xã hội công khai, dân chủ, đúng chủ trương, đúng đối tượng và đảm bảo an toàn vốn. Hoạt động nhận ủy thác được thực hiện thông qua 2.042 tổ tiết kiệm và vay vốn. Đến ngày 31/10/2024, tổng dư nợ ủy thác qua các tổ chức hội, đoàn thể đạt 3.910,6 tỉ đồng, chiếm 95,5% tổng dư nợ, tăng 204,7 tỉ đồng so với ngày 31/12/2023, tỉ lệ tăng là 5,52%. Trong đó, dư nợ ủy thác qua Hội Phụ nữ chiếm 51,6% tổng dư nợ nhận ủy thác; qua Hội Nông dân chiếm 29,5%; qua Hội Cựu Chiến binh chiếm 13,5%; qua tổ chức Đoàn Thanh niên chiếm 5,5%. Nợ quá hạn chiếm 0,18% tổng dư nợ ủy thác.

Công tác phối hợp giữa các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác với NHCSXH và chính quyền địa phương ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội ngày càng được nâng cao, tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức và nguyên tắc có vay - có trả cho người dân; tích cực rà soát, kiểm tra, đôn đốc, làm tốt công tác thu nợ đến hạn; thường xuyên chú trọng việc chấp hành các thủ tục, quy trình nghiệp vụ, quan tâm đến chất lượng hoạt động tại các Điểm giao dịch tại xã, hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn; thực hiện nghiêm túc từ khâu xác nhận hộ vay đúng đối tượng thụ hưởng đến công tác quản lý, giám sát hoạt động tín dụng chính sách trên địa bàn.

Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo Sở Lao động, Thương binh và Xã hội và các sở, ngành có liên quan, UBND các cấp phối hợp thực hiện tốt công tác điều tra, rà soát, bổ sung đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác để triển khai thực hiện kế hoạch giảm nghèo bền vững hằng năm, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, đề án về giải quyết việc làm gắn với hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh. Việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tín dụng chính sách xã hội đã được thực hiện một cách mạnh mẽ, góp phần giúp người dân nắm rõ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của NHCSXH về tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

Về phía Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Ninh, đã tập trung nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn; phương thức thực hiện ngày càng thực chất, tập trung vào những vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, góp phần tăng cường quyền làm chủ, sự đồng thuận của nhân dân trong hoạt động tín dụng chính sách xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Vốn tín dụng chính sách hằng năm đã góp phần hiệu quả vào việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững của tỉnh. Đặc biệt, ngày 31/10/2024, Tỉnh ủy - HĐND - UBND - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội nghị công bố tỉnh Bắc Ninh không còn hộ nghèo và phát động phong trào “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát” trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Theo đó, tính đến cuối tháng 10/2024, tỉnh Bắc Ninh đã không còn hộ nghèo (hiện chỉ còn 3.078 hộ cận nghèo, chiếm 0,82% tổng số hộ dân toàn tỉnh).

Tỉ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo của tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến nay

Nguồn: Tỉnh ủy Bắc Ninh và tác giả tổng hợp


Cùng với việc triển khai các cơ chế, chính sách của Trung ương dành cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, tỉnh Bắc Ninh cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh, đồng thời bố trí vốn ngân sách địa phương để triển khai thực hiện như: Quy chế trích lập, quản lý và sử dụng nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết số 104/NQ-HĐND ngày 17/4/2018 và Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 17/4/2018 của HĐND tỉnh về việc thông qua chủ trương sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay Thanh niên khởi nghiệp, Phụ nữ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Nghị quyết số 01/2023/NQ-HĐND của HĐND tỉnh quy định chuẩn nghèo đa chiều tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2023 - 2025; Thông báo kết luận số 861-TB/TU ngày 22/4/2024 của Tỉnh ủy Bắc Ninh tại Hội nghị thúc đẩy triển khai, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án Nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh…

Hoạt động tín dụng chính sách xã hội do NHCSXH thực hiện có bộ máy tổ chức, cơ chế quản lý đặc thù; tổng số thành viên tham gia hoạt động Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp hiện có 218 thành viên, trong đó cấp tỉnh có 12 thành viên; cấp huyện 206 thành viên (gồm 126 thành viên là Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn); Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp tỉnh, cấp huyện đã thực hiện tốt chức năng giám sát việc thực thi các Chỉ thị, Nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng quản trị NHCSXH và các văn bản chỉ đạo của Hội đồng quản trị tại các địa phương; chỉ đạo việc gắn tín dụng chính sách xã hội với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tín dụng chính sách; chỉ đạo kịp thời các sở, ban, ngành có liên quan và chính quyền cấp xã phối hợp với NHCSXH và các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác triển khai kịp thời, hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách trên địa bàn tỉnh.

Đội ngũ cán bộ, người lao động NHCSXH có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết, trách nhiệm với công việc, có ý thức kỷ luật và có phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự với đối tượng phục vụ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa ngân hàng được NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh thường xuyên quan tâm và xác định, “Hiện đại hóa tin học” là nội dung then chốt trong thực hiện mục tiêu nâng cao năng suất lao động, tiết giảm chi phí, tăng hiệu quả xử lý nghiệp vụ, góp phần nâng cao năng lực quản trị và năng suất lao động, phát huy hiệu quả hoạt động NHCSXH. Chi nhánh cũng đã triển khai các phần mềm ứng dụng phù hợp với đặc thù hoạt động của đơn vị để phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và triển khai các hoạt động nghiệp vụ, triển khai ứng dụng Mobile-Banking để hỗ trợ và phục vụ tốt hơn nữa các đối tượng khách hàng của NHCSXH.

Với 123 điểm giao dịch đặt tại trụ sở UBND cấp xã, 2.048 tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động trong toàn tỉnh, hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh được chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp quản lý chặt chẽ, hiệu quả. Tại điểm giao dịch xã, các chính sách tín dụng của Nhà nước, danh sách hộ vay vốn và các quy trình thủ tục của NHCSXH được niêm yết công khai; người vay giao dịch trực tiếp với NHCSXH vào ngày cố định hằng tháng để vay vốn, trả nợ, gửi tiền tiết kiệm trước sự chứng kiến của cán bộ tổ chức chính trị - xã hội, Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn và chính quyền cấp xã. Qua đó, đã tạo được lòng tin của nhân dân đối với các chính sách của Đảng, Nhà nước và hoạt động của NHCSXH; chính quyền cơ sở cũng có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với người dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc của người dân, góp phần giữ vững ổn định an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại cơ sở. UBND tỉnh, UBND cấp huyện cũng đã tạo điều kiện, hỗ trợ cấp đất để xây dựng trụ sở NHCSXH Chi nhánh tỉnh, Phòng giao dịch NHCSXH các huyện, thị xã, thành phố với tổng diện tích 12.576m2; với cơ sở vật chất trang bị đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng hoạt động phục vụ nhân dân.

Nhìn chung, sau khi Chỉ thị số 40 đi vào cuộc sống, các hoạt động tín dụng chính sách xã hội đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Vốn tín dụng chính sách xã hội đã giúp hơn 575 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn ưu đãi; được đầu tư đến 126/126 xã, phường, thị trấn, 100% thôn, làng, khu phố; giúp 98.119 hộ vượt qua ngưỡng nghèo; 65.933 hộ gia đình vay vốn học sinh, sinh viên;, 448.678 hộ gia đình vay vốn chương trình nước sạch vệ sinh môi trường; 53.328 hộ gia đình vay vốn giải quyết việc làm; 3.645 hộ gia đình vay vốn chương trình cho vay nhà ở xã hội… Qua đó, có thể khẳng định đây là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và ngày càng đi vào cuộc sống, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững; xây dựng nông thôn mới; đảm bảo an sinh xã hội; ổn định chính trị, an ninh trên địa bàn.

Một số khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong thời gian qua, việc triển khai các hoạt động chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Đó là, nguồn lực để thực hiện một số chương trình tín dụng chính sách hiện nay còn hạn chế so với nhu cầu vay vốn của các đối tượng chính sách trên địa bàn, nhất là tại một số chương trình tín dụng có nhu cầu lớn như chương trình cho vay giải quyết việc làm.

Tình hình biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp cũng đã ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của một bộ phận nhân dân, đặc biệt là hộ nghèo, hộ cận nghèo có nguy cơ tái nghèo khi gặp rủi ro nên đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Công tác phối hợp giữa các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm của các tổ chức, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội với hoạt động tín dụng chính sách xã hội chưa thật sự gắn kết nên còn một bộ phận người nghèo sử dụng vốn vay chưa hiệu quả, chưa thoát nghèo bền vững…

Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong bối cảnh mới

Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra cho hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng chính sách nói riêng nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi cần có những bước đổi mới, hoàn thiện mạnh mẽ hơn với sự vào cuộc tích cực hơn nữa của cả hệ thống chính trị. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của Chỉ thị số 40, thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của tín dụng chính sách xã hội; đề cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 40, Kết luận số 06-CT/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40 và Kết luận 1260-TB/KL của Thường trực Tỉnh ủy đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội; xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chương trình công tác thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp.

Hai là, tổ chức thực hiện tốt chủ trương huy động các nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững. Ưu tiên cân đối nguồn vốn ngân sách nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án tín dụng chính sách xã hội và bảo đảm hoạt động ổn định, bền vững của NHCSXH; hằng năm, cân đối nguồn vốn từ ngân sách địa phương để bổ sung nguồn vốn cho vay các đối tượng chính sách xã hội trên địa bàn. Chỉ đạo rà soát, xây dựng cơ chế đặc thù của địa phương và ban hành chính sách tín dụng ưu đãi bảo đảm các đối tượng thụ hưởng đều được vay vốn khi có nhu cầu, phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh.

Ba là, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội; công tác điều tra, xác định đối tượng được vay vốn; phối hợp có hiệu quả giữa các hoạt động tập huấn kỹ thuật, đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ với hoạt động cho vay vốn của NHCSXH, giúp người vay sử dụng vốn có hiệu quả.

Bốn là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh trong việc tập hợp lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người nghèo và các đối tượng chính sách khác; nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội đối với quá trình thực hiện tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn. Các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác của NHCSXH có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung được ủy thác; phối hợp với chính quyền địa phương trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội; hướng dẫn bình xét đối tượng vay vốn; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, hướng dẫn người vay sử dụng vốn hiệu quả; lồng ghép việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội với các chương trình, dự án của các hội, đoàn thể. Thực hiện có hiệu quả công tác tư vấn, hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, các mô hình giúp nhau vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác gắn với tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức tự vươn lên thoát nghèo của hộ nghèo và đối tượng chính sách, giảm dần sự trông chờ, lệ thuộc vào trợ cấp của Nhà nước. Phối hợp xây dựng các chương trình, dự án, gắn kết giữa đầu tư các mô hình kinh tế với nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa; đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo nghề giúp hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay.

Sáu là, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các ngành, hội đoàn thể với NHCSXH, tạo điều kiện cho NHCSXH sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi đến đúng đối tượng thụ hưởng.

Tài liệu tham khảo:


1. Tỉnh ủy Bắc Ninh, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.
2. NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh, Báo cáo kết quả hoạt động 10 tháng năm 2024.
3. https://bacninh.gov.vn/news/-/details/20182/hoi-nghi-cong-bo-tinh-bac-ninh-khong-con-ho-ngheo-76103024
4. https://baobacninh.vn/bac-ninh-phan-au-khong-con-ho-ngheo-90874.html


Hoàng Nguyên

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô