Ngân hàng với những chính sách vì người dân, doanh nghiệp

Hoạt động ngân hàng
Trong năm 2025, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự linh hoạt, chủ động, quyết liệt của NHNN trong điều hành và những nỗ lực, trách nhiệm cao của hệ thống ngân hàng sẽ từng bước hóa giải những thách thức để đạt các mục tiêu.
aa

“Năm 2024, thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, ngành Ngân hàng đã triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Không những thế, trước ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 3 (Yagi), với tinh thần tương thân tương ái, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động, kịp thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) với tinh thần trách nhiệm cao nhất triển khai các chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng”. Đó là những chia sẻ của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú về những chính sách, giải pháp điều hành tín dụng của NHNN năm 2024 nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.

Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú trả lời phỏng vấn. (Nguồn ảnh: SBV)

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú (Nguồn ảnh: SBV)

Phóng viên: Thưa Phó Thống đốc, như ông từng nói ngân hàng và doanh nghiệp có mối quan hệ cộng sinh, ngân hàng luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, vì thế trong năm 2024, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Ông có thể chia sẻ thêm về điều này?

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Năm 2024, NHNN và ngành Ngân hàng đã triển khai đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Thứ nhất, về điều hành lãi suất, sau khi điều chỉnh giảm mạnh lãi suất vào năm 2023, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành ở mức thấp để định hướng thị trường giảm lãi suất cho vay, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Đây là bước đi thể hiện sự chủ động của NHNN, trong khi lãi suất thế giới vẫn neo ở mức cao và chỉ đến cuối năm mới điều chỉnh giảm, góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với kiểm soát lạm phát. Mặt bằng lãi suất cho vay đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã giảm 0,48% so với năm 2023 (riêng 4 NHTM có vốn Nhà nước gồm Vietcombank, Agribank, BIDV, VietinBank, lãi suất cho vay đã giảm gần 1%).

Thứ hai, về điều hành tín dụng, để tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD cung ứng nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế, ngày 31/12/2023, NHNN đã giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng. Trong điều kiện lạm phát được kiểm soát tốt dưới mức mục tiêu, năm 2024 NHNN đã chủ động hai lần điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (vào ngày 28/8/2024 và ngày 28/11/2024) mà không cần đề nghị từ phía các TCTD để kịp thời đáp ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh; đồng thời, tiếp tục triển khai chủ trương của Quốc hội, Chính phủ về nghiên cứu dỡ bỏ dần biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.

Thứ ba, NHNN đã tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động cấp tín dụng với 16 văn bản được ban hành trong khoảng thời gian ngắn, trong đó có nhiều quy định mới nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của các TCTD, cũng như nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của người dân, doanh nghiệp, như khách hàng có thể thực hiện vay vốn trên môi trường số mà không cần trực tiếp đến ngân hàng (cho vay bằng phương tiện điện tử), đơn giản hóa thủ tục vay vốn đối với các khoản cho vay có mức giá trị nhỏ bao gồm cả việc cấp tín dụng qua thẻ...

Thứ tư, NHNN cũng đã tổ chức các Hội nghị trực tuyến toàn Ngành; làm việc trực tiếp tại một số địa phương về công tác tín dụng; triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp... để đối thoại trực tiếp nhằm nắm bắt các khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc tiếp cận vốn vay ngân hàng, kịp thời xử lý, tháo gỡ.

Bên cạnh đó, NHNN đã có nhiều chỉ đạo, yêu cầu các TCTD thực hiện tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất tiền gửi và nỗ lực hơn nữa để giảm mặt bằng lãi suất cho vay thông qua tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số.

Đồng thời, ngành Ngân hàng đã đẩy mạnh triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó một số chương trình triển khai hiệu quả và nhiều lần được nâng quy mô như chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm, thủy sản; chương trình cho vay liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng đồng bằng sông Cửu Long; chương trình 120 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư (hiện số vốn đăng ký đã trên 145 nghìn tỉ đồng). Đặc biệt, ngành Ngân hàng đã khẩn trương, kịp thời thực hiện các giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão số 3.

Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trên đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Đến ngày 31/12/2024, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 15,08% so với cuối năm 2023.

Phóng viên: Năm 2024 cũng chứng kiến những hậu quả nặng nề của thiên tai, đặc biệt là cơn bão số 3. Với tinh thần tương thân tương ái, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, ngành Ngân hàng đã triển khai các chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi bão số 3 ra sao, thưa Phó Thống đốc?

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Bão số 3 vừa qua đã ảnh hưởng nặng nề đến đời sống kinh tế - xã hội của nhiều địa phương. Theo thống kê của 26 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, có khoảng 124 nghìn khách hàng bị ảnh hưởng với dư nợ là khoảng 192 nghìn tỉ đồng, chiếm 3,1% tổng dư nợ trên địa bàn. Với tinh thần tương thân tương ái, đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp, ngành Ngân hàng đã chủ động triển khai quyết liệt, kịp thời với tinh thần trách nhiệm cao nhất các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng.

Về phía NHNN, NHNN đã ban hành 4 văn bản và tổ chức Hội nghị trực tuyến với UBND 26 tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng bởi bão số 3 để chỉ đạo và triển khai các giải pháp của ngành Ngân hàng hỗ trợ tháo khó khăn giúp người dân doanh nghiệp như: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất kinh doanh sau bão; (ii) Thực hiện xử lý nợ đối với khách hàng bị thiệt hại về vốn vay theo quy định hiện hành; (iii) Xây dựng các chương trình, các gói tín dụng mới với lãi suất phù hợp, khẩn trương xét duyệt cho vay mới và tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho người vay nhất là vấn đề tài sản bảo đảm, hạn mức tín dụng nhằm giúp khách hàng khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh sau bão.

Về phía các TCTD, trên cơ sở chỉ đạo của NHNN và với tinh thần đồng hành, chia sẻ cùng khách hàng, các TCTD đã tích cực và khẩn trương ban hành, công bố công khai các chương trình, các gói tín dụng nhằm kịp thời hỗ trợ, khắc phục thiệt hại do bão lũ gây ra, tạo điều kiện để khách hàng khôi phục và thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đến ngày 30/11/2024, các NHTM đã cho vay mới theo các chương trình ưu đãi với doanh số lũy kế là khoảng 43 nghìn tỉ đồng; đồng thời, đã hạ lãi suất cho những khoản vay hiện hữu đối với dư nợ khoảng 102 nghìn tỉ đồng.

Đồng thời, thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 (Yagi) nhanh chóng ổn định tình hình Nhân dân, đẩy nhanh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1510/QĐ-TTg ngày 04/12/2024 về phân loại tài sản có, mức trích lập dự phòng rủi ro, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro đối với khoản nợ của khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3; Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 53/2024/TT-NHNN ngày 04/12/2024 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3.

Với các quy định này, khách hàng vay vốn tại TCTD gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3 được TCTD xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ; chính sách được thực hiện đến hết ngày 31/12/2025. Các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão số 3 của ngành Ngân hàng đã phát huy hiệu quả, giúp giảm bớt tác động tiêu cực sau bão đối với đời sống và kinh tế của người dân, doanh nghiệp. Việc giữ vững nguồn lực tài chính và các hỗ trợ kịp thời đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phục hồi sau thiên tai, giúp cho người dân và doanh nghiệp sớm vượt qua khó khăn và trở lại hoạt động bình thường.

Hệ thống ngân hàng tiếp tục triển khai các giải pháp tín dụng linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu vốn tín dụng của người dân và doanh nghiệp. (Nguồn ảnh: Internet)
Hệ thống ngân hàng tiếp tục triển khai các giải pháp tín dụng linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu vốn tín dụng của người dân và doanh nghiệp. (Nguồn ảnh: Internet)

Phóng viên: Năm 2023 - 2024, ngành Ngân hàng đã tổ chức nhiều Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp. Thông qua hoạt động này, quan hệ tín dụng cũng như những lợi ích cho cả giữa doanh nghiệp và ngân hàng đạt được ra sao, thưa ông?

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp được triển khai từ năm 2014, với hàng chục nghìn cuộc đối thoại, kết nối đã được tổ chức trong 10 năm qua; trong đó, riêng năm 2023 đến hết quý III năm 2024, đã tổ chức gần 2.000 cuộc đối thoại, kết nối thông qua nhiều hình thức và quy mô đa dạng trên toàn quốc và tại các địa phương nhằm nắm bắt các khó khăn, vướng mắc và kịp thời có giải pháp tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng ngân hàng.

Chương trình không chỉ tháo gỡ các nút thắt trong quan hệ tín dụng mà còn mang lại nhiều lợi ích cho cả khách hàng và TCTD, cụ thể:

Về phía khách hàng, đông đảo khách hàng được tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý; các khó khăn, vướng mắc được ngành Ngân hàng và các cơ quan liên quan (sở, ban, ngành) tìm giải pháp tháo gỡ; khách hàng kịp thời cập nhật thông tin cơ chế, chính sách về tín dụng, thanh toán, tiền gửi… và các chương trình, sản phẩm của các TCTD. Đối với các khách hàng gặp khó khăn về dòng tiền do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai, được các TCTD áp dụng chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, giúp khách hàng được cơ cấu lại nợ phù hợp với dòng tiền mà không bị chuyển sang nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn; từ đó tạo điều kiện cho khách hàng được tiếp tục vay mới nhằm duy trì, phục hồi sản xuất kinh doanh.

Về phía các TCTD, thông qua chương trình giúp các TCTD khơi thông được dòng vốn, tăng trưởng tín dụng bền vững, chất lượng, an toàn, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm chia sẻ khó khăn với khách hàng từ phía các ngân hàng.

Theo số liệu báo cáo, lũy kế từ đầu năm 2023 đến hết quý III/2024, thông qua chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, các TCTD đã cho vay được gần 3,3 triệu tỉ đồng cho hơn 470 nghìn lượt khách hàng; cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 2.700 lượt khách hàng với dư nợ trên 25 nghìn tỉ đồng; ngoài ra, các TCTD còn thực hiện hỗ trợ bằng các hình thức khác như điều chỉnh giảm lãi suất, giảm phí…

Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp được thực hiện thông qua các hội nghị, diễn đàn trao đổi, đối thoại, gặp gỡ… không chỉ tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của cả phía doanh nghiệp và TCTD mà còn giúp cho cả doanh nghiệp và ngân hàng hiểu nhau hơn, chia sẻ hơn và hợp tác theo quan điểm cộng sinh.

Phóng viên: Năm 2025 tiếp tục còn nhiều khó khăn, thách thức và đan xen cả những cơ hội, xin Phó Thống đốc cho biết về định hướng điều hành tín dụng trong năm 2025 của NHNN?

Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Năm 2025 là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặt ra mục tiêu cho năm 2025, đó là tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 đạt trên 8%) trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (bình quân khoảng 4,5%), bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tập trung cao độ cho việc bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý; cải cách, tinh gọn bộ máy, thủ tục hành chính; thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số... đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu đổi mới sáng tạo, tạo đột phá phát triển đất nước trong tình hình mới, hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên đặt ra không ít những khó khăn, thách thức đối với ngành Ngân hàng nói chung và công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN nói riêng trong năm 2025. Tuy nhiên, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự linh hoạt, chủ động, quyết liệt của NHNN trong điều hành và những nỗ lực, trách nhiệm cao của hệ thống ngân hàng sẽ từng bước hóa giải những thách thức để đạt các mục tiêu.

Bám sát mục tiêu, định hướng của Đảng, Chính phủ, NHNN tiếp tục điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác góp phần ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

Đối với điều hành tín dụng, sang năm 2025, NHNN tiếp tục chủ động rà soát để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng.

Tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng, phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD: (i) Hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; (ii) Xây dựng các sản phẩm tín dụng cho các ngành, lĩnh vực phù hợp với chiến lược kinh doanh, khả năng cân đối nguồn lực của TCTD, chú trọng đầu tư tín dụng vào các dự án, công trình trọng điểm; (iii) Tích cực triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp sau bão số 3 (cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo Quyết định số 1510/QĐ-TTg và Thông tư số 53/2024/TT-NHNN, giảm lãi suất, cho vay mới khôi phục, duy trì sản xuất kinh doanh…); (iv) Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Ngành Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Chương trình cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản; Chương trình cho vay liên kết thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp khu vực đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị quyết 33/NQ-CP của Chính phủ…) và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.

Ngoài ra, NHNN tiếp tục hỗ trợ và tạo điều kiện để Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ được giao của ngành Ngân hàng tại các Chương trình mục tiêu quốc gia; tiếp tục triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Phó Thống đốc!

Hải Anh (thực hiện)

Tin bài khác

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14 thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14 thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 14 đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn triển khai mạnh mẽ các giải pháp tín dụng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội địa phương, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Phối hợp đào tạo chuyên sâu: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Ngân hàng Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu có nhiều biến động phức tạp, việc xây dựng một cơ chế phối hợp đào tạo đồng bộ, hiệu quả trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo cung cấp đội ngũ nhân sự chất lượng cao với năng lực quản trị rủi ro, cạnh tranh quốc tế, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành Ngân hàng và sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
Xem thêm
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ II)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá

“Kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân. Để biến khát vọng thành hiện thực, Việt Nam cần thấm nhuần sâu sắc quan điểm “con người là trung tâm, là chủ thể và là động lực của phát triển”; coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho tương lai; đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách giáo dục, phát triển hạ tầng số, xây dựng văn hóa học tập suốt đời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài.
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.
Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về xử lý rủi ro tín dụng và một số bài học chính sách đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu ba khía cạnh: Kinh nghiệm xử lý rủi ro tín dụng của các quốc gia phát triển; xử lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế; khung chuẩn mực và công nghệ trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng quốc tế. Trên cơ sở đó, đúc rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao cho Việt Nam nói chung và NHTM nói riêng trong xử lý rủi ro tín dụng.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô