Ngân hàng Phát triển Việt Nam tăng cường huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa

Hoạt động ngân hàng
Trong hơn 18 năm qua, hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận; trong đó, phần lớn là trái phiếu do VDB phát hành được Chính phủ bảo lãnh đã trở thành công cụ nợ quan trọng trên thị trường vốn, góp phần đa dạng hóa các loại công cụ nợ và tăng lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, gia tăng quá trình tích lũy tài chính, thúc đẩy phát triển thị trường vốn, đặc biệt là vốn dài hạn.
aa

Tóm tắt: Trong hơn 18 năm qua, hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận; trong đó, phần lớn là trái phiếu do VDB phát hành được Chính phủ bảo lãnh đã trở thành công cụ nợ quan trọng trên thị trường vốn, góp phần đa dạng hóa các loại công cụ nợ và tăng lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, gia tăng quá trình tích lũy tài chính, thúc đẩy phát triển thị trường vốn, đặc biệt là vốn dài hạn. Việc hợp vốn với các tổ chức tín dụng (TCTD) trong cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước tại VDB đã góp phần quan trọng thu hút các nguồn vốn dài hạn khác trong và ngoài nước để hỗ trợ các dự án phát triển, đóng góp tích cực vào mức tăng trưởng tín dụng trên GDP hằng năm của nền kinh tế, tăng tỉ lệ tiền tệ hóa toàn nền kinh tế, góp phần đầu tư phát triển, thúc đẩy thị trường tài chính, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Từ khóa: Huy động vốn, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh, tín dụng đầu tư của Nhà nước.

VIETNAM DEVELOPMENT BANK INCREASES THE MOBILIZATION OF INVESTMENT CAPITAL FOR ECONOMIC DEVELOPMENT IN THE DIRECTION OF INDUSTRIALIZATION AND MODERNIZATION


Abstract: With the results achieved over the past 18 years, capital mobilization by the Vietnam Development Bank (VDB), of which the majority are bonds issued by VDB guaranteed by the Government, has become an important debt instrument in capital market, contributing to persifying types of debt instruments and increasing the amount of goods on the stock market, increasing the process of financial accumulation, promoting the development of the capital market, especially long-term capital. The syndication with credit institutions to lend and the State’s investment credit at VDB has made an important contribution to attracting capital sources, other long-term domestic and foreign sources to finance development projects, positively contributing to the annual credit growth to GDP ratio of the economy, increasing the monetization rate of the entire economy, investing in economic development, promoting the development of financial markets, and shifting economic structure towards industrialization and modernization of the country.

Keywords: Raise capital, Government guaranteed bonds, State’s investment credit.

1. Hoạt động huy động vốn của VDB góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa

VDB được thành lập ngày 19/5/2006 theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, theo đó: Hoạt động của VDB không vì mục đích lợi nhuận, tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi; VDB được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nguồn vốn hoạt động của VDB bao gồm:

- Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước: Vốn điều lệ; vốn của ngân sách Nhà nước cấp cho các dự án theo kế hoạch hằng năm; vốn ODA được Chính phủ giao.

- Vốn huy động: Vốn từ phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi theo quy định của pháp luật; vốn vay của tiết kiệm bưu điện, Quỹ Bảo hiểm xã hội và các tổ chức tài chính, TCTD trong và ngoài nước.

- Nhận tiền gửi ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước.

- Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, TCTD và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, hội, tổ chức trong và ngoài nước.

- Vốn nhận ủy thác cấp phát, cho vay của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, hội, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

- Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.

Trong giai đoạn 2019 - 2023, nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn do các cuộc chiến tranh thương mại, xung đột vũ trang, vấn đề an ninh mạng ảnh hưởng tới sự ổn định và hợp tác quốc tế; đặc biệt là những thiệt hại nặng nề do dịch bệnh Covid-19 gây ra. Tuy nhiên, trước những khó khăn đó, VDB vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ huy động vốn bảo đảm cung ứng đủ vốn cho các dự án đầu tư phát triển của đất nước, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của quốc gia.

Bảng 1: Lãi suất huy động bình quân của VDB

Nguồn: Báo cáo năm 2019 - 2023 của VDB

Về khối lượng huy động vốn, trong giai đoạn 2019 - 2023, nguồn vốn huy động của VDB có xu hướng giảm do chính sách tín dụng chưa được điều chỉnh. VDB không triển khai được chính sách tín dụng mới, nhưng luôn giữ mức huy động vốn trung bình hằng năm khoảng 110.000 tỉ đồng/năm, trong đó số phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là khoảng 100.000 tỉ đồng/năm.

Trung bình mỗi năm vốn tín dụng mới do VDB cung ứng cho nền kinh tế đạt khoảng 1,5% GDP, tính chung trong giai đoạn 2019 - 2023 chiếm gần 4% tổng vốn tín dụng toàn thị trường, tương đương 1,5% GDP. (Biểu đồ 1)

Biểu đồ 1: Quy mô vốn huy động của VDB

Đơn vị tính: Tỉ đồng

Nguồn: Báo cáo năm 2019 - 2023 của VDB


Về cơ cấu nguồn vốn, tổng nguồn vốn bình quân của VDB giai đoạn 2019 - 2023 có xu hướng giảm nhưng vẫn duy trì khoảng 250.000 tỉ đồng/năm, trong đó, tỉ lệ vốn ủy thác chiếm khoảng 50% tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm khoảng 40% tổng nguồn vốn.

Vốn ủy thác là nguồn vốn quan trọng của VDB, trong đó chủ yếu là vốn ODA được Bộ Tài chính ủy quyền cho vay lại. Hiện nay, VDB là đơn vị được Bộ Tài chính ủy quyền cho vay lại vốn ODA của Chính phủ lớn nhất, với số vốn ủy quyền cho vay lại khoảng 70% số vốn ODA hằng năm của Chính phủ, thể hiện uy tín và vai trò quan trọng của VDB, qua đó tạo sự tin tưởng đối với các tổ chức quốc tế. (Biểu đồ 2)


Biểu đồ 2: Cơ cấu nguồn vốn của VDB

Đơn vị tính: Tỉ đồng

Nguồn: Báo cáo năm 2019 - 2023 của VDB


Về lãi suất huy động, trên thị trường những năm qua có nhiều thay đổi khó lường do tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động, ảnh hưởng của suy thoái và dịch bệnh Covid-19, các chính sách điều hành tiền tệ cũng được điều chỉnh liên tục. Tuy nhiên, do lợi thế của trái phiếu VDB được Chính phủ bảo lãnh có mặt bằng lãi suất thấp, lãi suất huy động bình quân đầu vào của VDB các năm đều ở mức thấp, đây là lợi thế rất lớn để VDB có thể cân đối được nguồn vốn giá rẻ cho đầu tư các dự án trọng điểm, quan trọng của quốc gia, thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo đúng định hướng đã đề ra.

Trong thời gian qua, VDB luôn bảo đảm huy động đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thông qua việc huy động và tài trợ vốn cho dự án phát triển, đặc biệt là các dự án trọng điểm của Chính phủ. Công tác huy động bảo đảm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng, qua đó đáp ứng tốt nhu cầu vốn đầu tư dự án của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết nhiệm vụ cung ứng vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế.

Tính chung, vốn tín dụng đầu tư do VDB giải ngân đến nay chiếm gần 4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng khoảng 1,5% GDP; trong đó, tín dụng từ nguồn vốn trong nước chiếm 2,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 0,9% GDP; giải ngân nguồn vốn ODA chiếm 1,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 0,6% GDP.

VDB là tổ chức phát hành trái phiếu lớn thứ hai nền kinh tế sau Kho bạc Nhà nước, trái phiếu do VDB phát hành đã góp phần thúc đẩy phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng. Xét trên thị trường vốn nợ, trái phiếu của VDB chiếm 20 - 25% thị phần các công cụ nợ. Xét theo tổng thể nền kinh tế, vốn trái phiếu VDB đóng góp 3,4% vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm 1,3% GDP. Đây là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh vị thế của VDB trên thị trường vốn và trong nền kinh tế.

Cơ cấu kì hạn trái phiếu VDB phát hành thời gian qua đã có thay đổi tích cực theo hướng kéo dài kì hạn huy động, góp phần vào sự phát triển chung của thị trường vốn, thị trường trái phiếu trong nước. Lãi suất phát hành trái phiếu VDB đã được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với thị trường, bảo đảm trong khung do Bộ Tài chính thông báo, góp phần hình thành nên đường cong lãi suất để tạo ra tham chiếu cho thị trường trái phiếu.

Với kết quả đạt được, trái phiếu do VDB phát hành trở thành công cụ quan trọng trên thị trường vốn, góp phần quan trọng thu hút các nguồn vốn dài hạn trong và ngoài nước tài trợ cho các dự án phát triển, góp phần tích cực vào tăng trưởng tín dụng hằng năm của nền kinh tế.

Bên cạnh hoạt động tín dụng, các hình thức hỗ trợ gián tiếp khác như hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thêm các kênh vốn thương mại, thúc đẩy gia tăng nguồn lực xã hội dành cho đầu tư phát triển, đồng thời làm gia tăng tín dụng của các TCTD, góp phần gia tăng tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Thực hiện mục tiêu chiến lược chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước đã có những bước chuyển biến hết sức căn bản, mạnh mẽ về cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực, ngành, nghề, tăng nhanh tỉ trọng vốn dành cho đầu tư phát triển các dự án công nghiệp nặng, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn và hiện đại hóa công nghiệp nhẹ, trong đó chú trọng đến công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.

Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dư nợ tín dụng luôn tăng, duy trì mức bình quân hơn 70%, cao hơn tỉ lệ vốn đầu tư của toàn xã hội trong công nghiệp và xây dựng, qua đó, thu hút, hỗ trợ các nguồn vốn khác trên thị trường cùng cho vay đầu tư dự án phát triển các ngành, lĩnh vực.

Đặc biệt, VDB đang quản lý nhiều dự án trọng điểm (Nhóm A) trên phạm vi cả nước, trong đó hầu hết các dự án đều thuộc lĩnh vực công nghiệp cơ bản (xi măng, thép, điện, giấy, phân bón, chế biến cao su, cơ khí, vệ tinh viễn thông) với tổng số vốn vay chiếm khoảng 50% tổng mức đầu tư, từ đó tác động tích cực đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, miền và cả nước. Bên cạnh đó, nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước qua VDB cũng góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư mới, sửa chữa, thay thế, khôi phục tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật, đổi mới quy trình công nghệ, xây dựng mới các công trình hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nhờ có nguồn vốn dài hạn với lãi suất thấp, một số ngành như điện lực, hóa chất, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chế biến nông, lâm, thủy sản… đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế đất nước.

2. Một số khó khăn, bất cập

Sau 18 năm hoạt động, một số bất cập trong các quy định của Nhà nước đối với cơ chế nguồn vốn, dẫn tới những rủi ro tiềm ẩn và khó khăn trong hoạt động được VDB nhận diện như sau:

Thứ nhất, khó khăn trong bố trí nguồn vốn của VDB

Để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ chính sách, VDB cần có nhiều nguồn vốn rẻ và dài hạn để cung ứng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nguồn vốn để VDB cho vay chỉ xoay quanh vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp và nguồn huy động trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, còn việc huy động các nguồn vốn khác trong nước là rất hạn chế. Nguồn vốn của VDB được tạo lập chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu trung và dài hạn (lãi suất cao) nhưng lại dùng để cho vay cả ngắn hạn (lãi suất thấp) nên tiềm ẩn nhiều rủi ro và ít hiệu quả. Ngoài ra, một phần nguồn huy động của VDB phải bù đắp cho phần nợ đọng của Nhà nước, phần còn lại mới để đáp ứng các yêu cầu của hoạt động nên kết quả hoạt động không cao.

Thứ hai, khó khăn do tác động của thị trường trong những năm qua

Nhằm góp phần bảo đảm tăng trưởng hằng năm cho nền kinh tế, VDB luôn cố gắng bố trí đủ nguồn để giải ngân các dự án đã ký hợp đồng tín dụng và trả nợ các khoản huy động đến hạn; trong khi đó, do tác động tiêu cực của thị trường, những năm gần đây, việc thu hồi nợ từ các dự án gặp nhiều khó khăn do phần nhiều vốn vay từ VDB có hiệu quả không cao, khả năng trả nợ thấp, nhạy cảm cao với biến động thị trường. Do vậy, VDB chỉ có thể trông chờ vào việc huy động trái phiếu và một số khoản huy động có tính thương mại khác để bù đắp thiếu hụt nguồn.

Thứ ba, thiếu cơ chế, hướng dẫn cụ thể từ cơ quan quản lý Nhà nước

Mặc dù Điều lệ quy định VDB được vay tái cấp vốn tại NHNN, được tham gia thị trường liên ngân hàng… nhưng trên thực tế, đến nay, vẫn còn thiếu các cơ chế, hướng dẫn cụ thể từ cơ quan quản lý Nhà nước khiến VDB không có công cụ chuyển nhượng để sử dụng khi cần thiết như các NHTM, từ đó bắt buộc phải tìm mọi cách để huy động cũng như dự trữ lượng vốn lớn để tránh mất thanh khoản. Việc làm này đã tạo thêm gánh nặng chi phí và rủi ro về pháp lý khi các cơ quan quản lý, thanh tra, kiểm toán giám sát. Tuy nhiên, việc huy động và dự trữ liên tục là cần thiết vì VDB phải bảo đảm thanh khoản do không có công cụ hỗ trợ thanh khoản như các NHTM (tham gia thị trường mở, liên ngân hàng, tái cấp vốn…).

Thứ tư, khó khăn trong cân đối vốn cho vay, trả nợ

Một số dự án có quy mô đầu tư lớn dự kiến sử dụng vốn vay dài hạn từ nước ngoài nhưng quá trình thu xếp nguồn vốn nước ngoài liên tục bị vỡ tiến độ bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chậm được xử lý bảo lãnh từ phía Nhà nước (vướng quy định về nợ công), khiến VDB phải tạm ứng nguồn huy động trái phiếu trong nước để bảo đảm tiến độ triển khai dự án, tạo ra áp lực trong việc cân đối vốn của VDB.

Hằng năm, ngoài vốn huy động để thực hiện nhiệm vụ trong năm, VDB phải huy động thêm một lượng vốn lớn để trả lãi vốn huy động đến hạn do ngân sách Nhà nước không đủ cấp bù lãi suất và phí quản lý, cũng không thu được đủ lãi từ hoạt động cho vay theo kế hoạch đặt ra những khó khăn trong cân đối vốn cho vay, trả nợ của VDB.

Thứ năm, nguồn vốn thiếu tính ổn định, nhiều rủi ro

Thời gian qua, nguồn vốn hoạt động của VDB chưa thật sự bền vững, rủi ro kì hạn, rủi ro lãi suất, áp lực huy động vốn vẫn còn cao, một số nguyên nhân có thể kể đến: Vốn chủ sở hữu yếu, khả năng tăng vốn chủ sở hữu cho phù hợp với quy mô nguồn vốn, tài sản để bảo đảm an toàn trong hoạt động còn hạn chế do khó khăn của ngân sách Nhà nước trong việc cấp vốn điều lệ, khả năng tự tích lũy để nâng cao vốn chủ sở hữu không có do bản chất hoạt động tài chính của VDB nhiều năm là thu không đủ bù chi, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nguồn vốn vẫn còn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước.

3. Một số giải pháp

Với chức năng chính là tập trung thực hiện vai trò công cụ chính sách để giúp Chính phủ huy động, phân phối, quản lý nguồn vốn cho vay ưu đãi theo đúng các quy định của Nhà nước, qua đó góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội được xác định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp đối với hoạt động huy động vốn của VDB như sau:

Thứ nhất, cần đa dạng hóa nguồn vốn và hình thức huy động vốn

Để bảo đảm nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế, cần tăng cường nguồn vốn huy động đạt và vượt các chỉ tiêu theo kế hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, để làm được điều này cũng là một thách thức không nhỏ đối với VDB. Bên cạnh thực hiện tốt việc huy động tiền gửi thông qua mở tài khoản thanh toán cho khách hàng, tăng cường, tái thiết lập quan hệ hợp tác ngày càng hiệu quả với các tổ chức có quan hệ truyền thống, phát hành trái phiếu, nhận ủy thác cấp phát, cho vay vốn, đi vay, VDB cần thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn. Đa dạng hóa nguồn vốn và hình thức huy động là một yêu cầu rất cần thiết đối với VDB trong điều kiện hiện nay khi mà việc huy động vốn hết sức khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng. Trong đó cần đa dạng hóa nguồn vốn và các hình thức huy động vốn: (i) Huy động từ khoản tài trợ của các tổ chức khác; (ii) Tích cực xây dựng cơ chế tham gia và tham gia có hiệu quả hoạt động trên thị trường tiền tệ, thị trường mở, thị trường liên ngân hàng, mở rộng hoạt động thanh toán với khách hàng; (iii) Chủ động mở ra những kênh huy động vốn ngoại tệ từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để có thể tiếp nhận trực tiếp vốn ủy thác thanh toán các dự án hoặc tài trợ của nước ngoài; (iv) Nghiên cứu, bổ sung và ban hành quy chế, quy trình, sổ tay nghiệp vụ huy động vốn, các văn bản hướng dẫn tác nghiệp để tổ chức bộ máy huy động vốn theo hướng chuyên nghiệp, thống nhất.

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác phát hành trái phiếu


Trong những năm qua, nguồn vốn từ phát hành trái phiếu ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của VDB; trở thành nguồn huy động vốn hết sức quan trọng đối với hoạt động của VDB. Do đó, việc nâng cao chất lượng công tác phát hành trái phiếu để huy động đủ nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển là một yêu cầu cấp thiết. Để công tác phát hành trái phiếu đạt kết quả cao hơn, cần thực hiện một số giải pháp sau: (i) Nghiên cứu và lập kế hoạch phát hành trái phiếu nhằm thanh toán các trái phiếu đến hạn; huy động mới để phục vụ nhiệm vụ, thực hiện các cam kết tín dụng đã ký; cấp tín dụng trung và dài hạn mới; (ii) Nghiên cứu và xác định được cơ cấu trái phiếu theo kì hạn hợp lý cho hoạt động của VDB căn cứ vào kì hạn bình quân danh mục tín dụng của VDB; dự báo về lãi suất của nền kinh tế; (iii) Phối hợp với Kho bạc Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các tổ chức kinh doanh chứng khoán xác định các phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm từng bước nâng quy mô phát hành, chuẩn hóa các loại trái phiếu phát hành để thiết lập mức lãi suất chuẩn và tăng tính thanh khoản cho giao dịch trái phiếu tại thị trường thứ cấp; (iv) Từng bước lành mạnh hóa tài chính, bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động của VDB để nâng cao hệ số tín nhiệm của ngân hàng trên thị trường vốn trong và ngoài nước; (v) Tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác với các tổ chức bảo lãnh phát hành, các nhà đầu tư. Có chính sách chăm sóc, tổ chức giao lưu để thắt chặt mối quan hệ với những tổ chức trên để được ưu tiên tư vấn cho các nhà đầu tư mua trái phiếu do VDB phát hành; (vi) Nghiên cứu thị trường, khả năng nguồn vốn huy động được, lãi suất, kì hạn để đưa ra các đợt phát hành phù hợp về thời gian cũng như hình thức phát hành; (vii) Xây dựng phương án phát hành trái phiếu gắn với công trình cụ thể (cho các dự án công trình có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn nhanh); (viii) Xây dựng đề án phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh bằng ngoại tệ để thu hút nguồn vốn ngoại tệ trong xã hội; (ix) Về lâu dài, cần xây dựng lộ trình triển khai phương án phát hành trái phiếu của VDB.

Thứ ba, quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích

VDB được thành lập nhằm thực hiện các chính sách tín dụng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đây vẫn là hoạt động cho vay có hoàn trả nên nếu nguồn vốn cho vay của VDB tiếp tục không tạo lãi, khách hàng của VDB không có khả năng hoàn trả, thì VDB không thể duy trì hoạt động. VDB cần phải xây dựng các quy định về kiểm tra, kiểm soát; khẳng định vị trí, vai trò của mình trong việc ra các quyết định cho vay. Các quy định cho vay cũng không được phép nới lỏng, toàn bộ chương trình tín dụng cần có quy trình kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm tính minh bạch trong việc đưa vốn đến đúng đối tượng được thụ hưởng, đồng thời bảo đảm sự phát triển của VDB không mang tính cạnh tranh, không làm ảnh hưởng đến các định chế tài chính khác kinh doanh theo cơ chế thị trường. VDB cần phải đề ra các quy định có tính kiểm soát cao đối với việc lựa chọn đối tượng vay vốn.

Thứ tư, áp dụng cơ chế về lãi suất cho vay hợp lý

Hiện tại, VDB đang thực hiện cho vay với lãi suất quy định tại Nghị định số 78/2023/NĐ-CP ngày 07/11/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, theo đó mức lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước do VDB quyết định nhưng không thấp hơn 85% lãi suất cho vay bình quân của các NHTM trong nước trong cùng thời kì, ngân sách Nhà nước không cấp bù lãi suất và phí quản lý đối với các khoản nợ vay này. Việc VDB tự chủ về tài chính là mục tiêu tốt, tuy nhiên, mục tiêu hỗ trợ cho đầu tư phát triển, các đối tượng ưu đãi có cơ hội tiếp cận lâu dài với dịch vụ ngân hàng đang đặt ra cho VDB nhiệm vụ cần phải xây dựng cơ chế lãi suất hợp lý, gắn với ưu đãi về thủ tục, điều kiện, thời hạn vay vốn... mới có thể thực hiện được mục tiêu của Chính phủ đề ra, qua đó, tạo điều kiện để VDB bảo đảm bù đắp đủ chi phí hoạt động nói chung, chi phí huy động vốn nói riêng.

Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

Nền tảng cơ sở vật chất hiện đại là một trong những nhân tố nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Tuy nhiên, công nghệ thông tin của VDB chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động, trong đó có đẩy mạnh công tác huy động vốn về hệ thống máy, thiết bị tin học, mạng truyền tin, mặc dù đã có nhưng chưa đủ về số lượng, chủng loại, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu; các chương trình phần mềm phục vụ công tác huy động vốn chưa đủ, chưa phong phú… Chính vì thế, VDB cần có kế hoạch đầu tư cải tiến, đổi mới thiết bị, công nghệ phù hợp với hoạt động, từ đó đưa ra các sản phẩm mới, tạo điều kiện cho ngân hàng trong công tác quản lý, điều hành.

Thứ sáu, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Yếu tố con người đã trở thành một bộ phận làm tăng tính cá biệt hóa, là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình kinh doanh và chuyển giao hầu hết các dịch vụ. Do đó, VDB cần phải quan tâm đến đội ngũ nhân viên hơn nữa - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: (i) Có cơ chế tuyển dụng phù hợp để thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao; (ii) Quy hoạch cán bộ các cấp, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ kế cận; (iii) Tổ chức bồi dưỡng định kì bằng việc mở những lớp tập huấn ngắn hạn, trao đổi nghề nghiệp trong phạm vi khu vực hoặc trong toàn Ngành; (iv) Khuyến khích nghiên cứu khoa học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. VDB cần có những quy định bắt buộc và khen thưởng về vật chất, tinh thần đối với cán bộ thực hiện nghiên cứu khoa học; (v) Có chế độ tiền lương thỏa đáng để nâng cao trách nhiệm, năng lực của cán bộ thuộc VDB; (vi) Có những chính sách cán bộ để những người công tác tại hệ thống trên toàn quốc gắn bó với VDB và đem hết khả năng thực hiện nhiệm vụ được giao.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 về việc thành lập VDB.

2. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 03/9/20015 về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của VDB.

3. Quốc hội (2019), Luật số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019 - Luật Chứng khoán.

4. Quốc hội (2024), Luật số 32/2024/QH15 ngày 18/01/2024 - Luật Các TCTD.

5. PGS., TS. Nguyễn Thị Mùi (2011), Giáo trình Quản trị NHTM - Nhà xuất bản Tài chính.

6. Báo cáo tình hình hoạt động của VDB các năm 2019 - 2023.


TS. Đặng Vũ Hùng, ThS. Nguyễn Hoàng Hải

Ngân hàng Phát triển Việt Nam

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội với Chiến lược phát triển đến năm 2030: Điểm tựa an sinh, động lực phát triển bền vững

Ngân hàng Chính sách xã hội đã không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả mô hình tổ chức, phương thức quản lý tín dụng đặc thù, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ cả hệ thống chính trị; đồng thời, huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân trong tham gia quản lý, giám sát và tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả các chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Tiền gửi dân cư tiếp tục tăng mạnh

Theo số liệu vừa được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) công bố, đến hết tháng 7/2025, tiền gửi của dân cư tiếp tục lập đỉnh mới với gần 7,75 triệu tỉ đồng, tăng 9,68% so với đầu năm. Riêng trong tháng 7/2025, tiền gửi cư dân đã tăng thêm khoảng 54.087 tỉ đồng. Trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn, kênh gửi tiết kiệm vẫn được nhiều người lựa chọn vì sự an toàn, lãi suất thực dương và đảm bảo được quyền lợi người gửi tiền. Trong khi đó, tiền gửi của doanh nghiệp đạt hơn 7,98 triệu tỉ đồng, tăng 4,04% so với cuối năm 2024.
Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

Công cụ đánh giá ESG trong doanh nghiệp và vai trò của tín dụng ngân hàng

ESG là công cụ để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Đây là nội dung trọng tâm được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm phát triển bền vững, không đơn thuần thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực hiện ESG là xu hướng tất yếu cho các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại, điều này được củng cố bởi các mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu toàn cầu.
Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Góc nhìn từ khách hàng thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi

Ngân hàng Chính sách xã hội đang giữ vai trò đặc biệt trong hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm yếu thế tiếp cận vốn tín dụng chính sách. Kết quả nghiên cứu này cho thấy những phản hồi tích cực từ phía khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đồng thời cũng chỉ ra một số khía cạnh cần tiếp tục cần cải tiến hơn nữa trong bối cảnh hiện nay để duy trì niềm tin và sự hài lòng lâu dài của người dân.
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 12: Tạo đà thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững trên địa bàn

Bám sát định hướng và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), NHNN Chi nhánh Khu vực 12 đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025 theo Quyết định số 2312/QĐ-NHNN ngày 16/6/2025 của Thống đốc NHNN (sửa đổi Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 24/2/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN chi nhánh Khu vực 12), thực hiện chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn hai tỉnh Hưng Yên và Bắc Ninh, góp phần ổn định tổ chức bộ máy và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng bền vững.
Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành trong văn hóa ngân hàng

Sự chân thành là giá trị cốt lõi giúp xây dựng uy tín và phát triển bền vững cho ngân hàng, đồng thời là chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài. Bài viết chỉ ra kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, qua đó cho thấy sự minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm là biểu hiện cụ thể của văn hóa chân thành.
Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tác động của nợ xấu đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đồng thời xem xét vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước trong mối quan hệ đó. Thông qua việc tiếp cận định lượng và phân tích mối quan hệ tương tác giữa nợ xấu và yếu tố sở hữu, nghiên cứu góp phần mở rộng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời cung cấp góc nhìn thực tiễn về hoạt động cho vay trong bối cảnh nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, nơi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn mang tính chi phối trong phân bổ nguồn lực tài chính.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi xanh trở thành một trụ cột phát triển quốc gia, ngân hàng vừa là nhà cung cấp vốn, vừa là bên thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất và đầu tư.
Xem thêm
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô