Đường sắt cao tốc - biểu tượng và động lực của kỷ nguyên vươn mình

Ngành Ngân hàng với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam không chỉ là một công trình của ngành giao thông mà còn là động lực, mang tính biểu tượng, tạo ra sức bật cho nền kinh tế, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đây là Dự án có quy mô rất lớn, khối lượng công việc nhiều và phức tạp, lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam.
aa

Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam không chỉ là một công trình của ngành giao thông mà còn là động lực, mang tính biểu tượng, tạo ra sức bật cho nền kinh tế, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đây là Dự án có quy mô rất lớn, khối lượng công việc nhiều và phức tạp, lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam.

1. Quyết định lịch sử và kỳ vọng lớn lao

Với 443/454 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội khóa XV họp chiều ngày 30/11/2024 đã chính thức thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam với phác họa các thông số chủ yếu đầy ấn tượng và làm nức lòng nhân dân cả nước:

Tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541 km; đường đôi khổ 1.435 mm; tốc độ thiết kế 350 km/h; tải trọng 22,5 tấn/trục; sử dụng công nghệ đường sắt chạy trên ray, điện khí hóa, bảo đảm hiện đại, đồng bộ, an toàn và hiệu quả với 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, vận chuyển hành khách và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.

Tổng nhu cầu sử dụng đất của Dự án khoảng 10.827 ha, gồm đất trồng lúa khoảng 3.655 ha, đất lâm nghiệp khoảng 2.567 ha và các loại đất khác theo quy định của pháp luật về đất đai khoảng 4.605 ha. Sơ bộ số dân tái định cư khoảng 120.836 người.


Dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam: Biểu tượng phát triển, động lực kinh tế,
đánh dấu kỷ nguyên mới của Việt Nam (Nguồn ảnh: Báo Điện tử Chính phủ)


Điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (Thủ đô Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (Thành phố Hồ Chí Minh), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về thời gian triển khai, từ năm 2025 lập báo cáo nghiên cứu khả thi, phấn đấu cơ bản hoàn thành Dự án năm 2035. Tổng mức đầu tư của Dự án này là khoảng 1.713.548 tỉ đồng (tương đương 67,3 tỉ USD) do ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn và nguồn vốn hợp pháp khác.

Như vậy, có thể thấy, Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam không chỉ là dự án cơ sở hạ tầng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới nay mà còn kỳ vọng tạo ra ảnh hưởng sâu rộng, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội các địa phương trên cả nước và những ngành liên quan. Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam cho phép đa dạng và hiện đại hóa hệ thống vận tải đường sắt, rút ngắn thời gian di chuyển giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh xuống còn 5,5 giờ, mang lại thay đổi lớn cả về lượng và về chất trong hệ thống giao thông Việt Nam nói chung.

Hơn nữa, Dự án sẽ đóng góp phần tạo công ăn việc làm, thu nhập, lan tỏa sức hấp dẫn môi trường đầu tư của Việt Nam và các tỉnh có đường sắt đi qua, duy trì động lực và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam trong thập kỷ tới. Dự án sẽ tạo ra hàng trăm nghìn việc làm mới, giảm thiểu tình trạng tai nạn giao thông đường bộ và cắt giảm lượng khí thải nhờ sử dụng hệ thống giao thông xanh. Hơn nữa, sự phát triển của hệ thống giao thông đường sắt sẽ giảm tải cho hệ thống đường bộ, vốn đang chịu áp lực lớn từ tốc độ đô thị hóa cao.

Các ngành hưởng lợi lớn nhất được xác định bao gồm: Xây dựng, sản xuất thiết bị và dịch vụ tư vấn. Với tổng chi phí xây dựng chiếm 49,5% (33,3 tỉ USD), ngành xây dựng sẽ là một trong những ngành trọng yếu thúc đẩy tăng trưởng. Đồng thời, ngành sản xuất thiết bị, chiếm 16,3% tổng vốn (11 tỉ USD), sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế hợp tác và cung cấp công nghệ tiên tiến.

Bên cạnh đó, ngành du lịch nội địa sẽ nhận được động lực mạnh mẽ và tích cực để sớm phát triển các tour và sản phẩm du lịch mới, gắn liền với việc xây dựng và khai thác tuyến Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Những địa phương nằm trên tuyến đường này hứa hẹn trở thành điểm đến hấp dẫn hơn, thu hút đông đảo khách du lịch. Sự gia tăng lượng khách du lịch không chỉ thúc đẩy các ngành dịch vụ liên quan như khách sạn, nhà hàng và giải trí phát triển mà còn tạo động lực cho thị trường bất động sản trên toàn tuyến, dự báo sẽ gia tăng giá trị nhờ hạ tầng kết nối hiện đại. Đồng thời, doanh thu từ du lịch, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ và xuất khẩu tại chỗ cũng sẽ tăng trưởng, góp phần thúc đẩy sự khởi sắc của ngành du lịch cả nước và kinh tế từng địa phương, tạo nên một thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ trong hành trình phát triển của đất nước.

Tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam với khả năng chuyên chở hàng hóa khi cần thiết, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, vật tư và nhân lực trên khắp cả nước, không chỉ trong thời bình mà còn trong thời chiến, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh quốc phòng của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Đặc biệt, việc xây dựng 5 ga hàng hóa tại các trung tâm kinh tế lớn dọc tuyến đường sắt sẽ giúp giảm chi phí logistics, cải thiện tốc độ và hiệu quả vận chuyển. Điều này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, dự án còn mang lại lợi ích to lớn cho các ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm đóng tàu, sản xuất thiết bị cơ khí, và dịch vụ bảo trì đường sắt, tạo đà phát triển bền vững cho nhiều lĩnh vực kinh tế liên quan.

Việc thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam không chỉ đánh dấu bước khởi đầu mang tính biểu tượng mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình hiện đại hóa ngành đường sắt. Đồng thời, Dự án này sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, nâng tầm vị thế của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Đây là bước tiến cụ thể để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một đất nước hùng cường, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với thu nhập cao, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, như mục tiêu Đại hội Đảng đã đề ra. Đồng thời, đây cũng là hành động thiết thực nhằm đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. Một số chính sách đặc thù và vấn đề cần lưu ý

Một trong những thách thức lớn nhất khi triển khai Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam là bảo đảm nguồn vốn và duy trì an toàn nợ công. Với quy mô đầu tư lớn chưa từng có, việc quản lý tài chính hiệu quả và tránh thất thoát ngân sách trở thành ưu tiên hàng đầu. Nguồn vốn đầu tư cho dự án chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước, chiếm khoảng 70% tổng vốn, trong khi tỉ lệ vay nợ được giới hạn ở mức 30% để duy trì nợ công trong ngưỡng an toàn, dao động từ 36 - 37% GDP. Bên cạnh đó, sự tham gia của các nguồn vốn ODA giúp giảm áp lực lên ngân sách và bảo đảm nguồn lực triển khai Dự án một cách bền vững. Dự án cũng tạo điều kiện cho các ngân hàng và tổ chức tài chính trong nước tham gia cung cấp tín dụng, bảo lãnh vốn và tư vấn tài chính, góp phần thúc đẩy hệ thống tài chính quốc gia.

Để bảo đảm tiến độ và hiệu quả, một số chính sách đặc thù đã được ban hành, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện Dự án. Chính phủ được phép linh hoạt trong điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn, phát hành trái phiếu Chính phủ để bổ sung vốn, hoặc huy động các nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài. Trong những trường hợp cần thiết, Thủ tướng có quyền sử dụng nguồn tăng thu và tiết kiệm chi ngân sách trung ương, mà không cần tuân thủ thứ tự ưu tiên theo quy định thông thường.

Ngoài ra, các quyết định quan trọng như điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án, bổ sung cơ chế, hay chính sách đặc thù sẽ được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét ngay cả khi Quốc hội không họp. Điều này bảo đảm sự linh hoạt trong xử lý các vấn đề phát sinh, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao về sự giám sát chặt chẽ và trách nhiệm của các bên liên quan.

Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam có quy mô đầu tư lớn và thời gian thực hiện kéo dài, có nhiều rủi ro và thách thức khi triển khai. Điển hình là chi phí sẽ gia tăng cao. Việc giải phóng mặt bằng và tái định cư, chiếm tới 8,8% tổng chi phí (tương đương 5,9 tỉ USD), cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc đạt được sự đồng thuận từ cộng đồng địa phương. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng phải chủ động xây dựng những kịch bản dự báo và đối phó từ sớm để ngăn chặn nguy cơ gia tăng nợ xấu, lãng phí và thất thoát ngân sách.

Bên cạnh đó, việc quản lý và điều hành Dự án cần có năng lực chuyên môn cao và kỷ luật công vụ nghiêm ngặt. Chính phủ phải bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả trong mọi khâu, từ lập kế hoạch, phê duyệt, đến thực hiện Dự án, nhằm tránh các vấn đề tiêu cực như tham nhũng, lãng phí, hay thất thoát vốn.

Ngoài ra, để Dự án đạt được hiệu quả tối ưu, cần chú trọng kết nối Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam với các tuyến đường sắt khác và hệ thống hạ tầng giao thông trên cả nước. Công tác nghiên cứu khả thi phải được thực hiện kỹ lưỡng, với sự tính toán cẩn trọng về yếu tố kỹ thuật, vận hành, bảo trì và rủi ro. Việc chuyển giao công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng trong sự thành công lâu dài của Dự án. Không chỉ tập trung vào vận hành tuyến đường, quá trình chuyển giao còn bao gồm sản xuất, lắp đặt trang thiết bị và làm chủ các công nghệ cốt lõi như chế tạo tàu điện, đường ray, và hệ thống tín hiệu. Điều này sẽ giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhập khẩu, tạo tiền đề phát triển ngành công nghiệp đường sắt nội địa bền vững.

Dự án cũng mở ra cơ hội lớn cho khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào các hạng mục đầu tư, thông qua cơ chế hợp tác công - tư. Chính phủ cần đặt hàng các doanh nghiệp tư nhân với hợp đồng rõ ràng, đồng thời giám sát chặt chẽ việc thực hiện. Các nhà thầu quốc tế tham gia đấu thầu phải liên danh với đối tác trong nước, bảo đảm hoàn thành chuyển giao công nghệ trước khi triển khai, đồng thời ký hợp đồng chuyển giao công nghệ hoàn chỉnh. Những yêu cầu này không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước mà còn tạo ra giá trị gia tăng lâu dài, góp phần phát triển ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam, sẵn sàng sánh vai với các quốc gia phát triển trên thế giới.

Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng, việc rà soát, kiện toàn mô hình quản lý đầu tư nhằm đẩy nhanh tiến độ hoàn thành; phát triển nguồn nhân lực và phát triển công nghiệp đường sắt và công nghiệp phụ trợ trong ngành đường sắt sẽ giúp tiết kiệm hàng chục tỉ USD, tránh được tình trạng đội vốn và tăng chi phí bảo trì gây thất thoát, lãng phí nguồn lực đầu tư xã hội liên quan đến Dự án./.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo Điện tử Chính phủ, 2024, “Danh sách ga hành khách, ga hàng hóa dự kiến đường sắt tốc độ cao đi qua”, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/danh-sach-cac-ga-du-kien-tuyen-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-di-qua-119241001210325512.htm
2. Trường Thanh, 2024, “4 ngành kinh tế sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam”, https://nguoiquansat.vn/4-nganh-kinh-te-se-duoc-huong-loi-nhieu-nhat-tu-du-an-duong-sat-cao-toc-bac-nam-182143.html
3. Kỳ Nam, 2024, “Bộ trưởng Trần Hồng Minh: Quyết tâm cao nhất triển khai đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam”, https://www.baogiaothong.vn/nganh-gtvt-san-sang-quyet-tam-cao-nhat-thuc-hien-du-an-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-192241130152101187.htm
4. Hà Văn, 2024, “Thủ tướng: Đề xuất cơ chế đặc thù, đặc biệt cho Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam”, https://baochinhphu.vn/thu-tuong-de-xuat-co-che-dac-thu-dac-biet-cho-du-an-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-102241005111816962.htm


TS. Nguyễn Minh Phong
Hà Nội

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Ngành Ngân hàng thi đua đổi mới sáng tạo, tiên phong cùng đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng

Ngành Ngân hàng thi đua đổi mới sáng tạo, tiên phong cùng đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng

“Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất” là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài phát biểu khai mạc Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc năm 1952, đã trở thành mạch nguồn cảm hứng cho các phong trào thi đua yêu nước suốt gần tám thập niên qua. Với ngành Ngân hàng, tinh thần ấy càng được thấm sâu trong từng chủ trương, từng quyết sách, từng nhiệm vụ hằng ngày.
Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Tăng cường trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của đất nước, Đảng ủy Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) xác định siết chặt kỷ cương là yếu tố then chốt và đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng với thách thức kinh tế hiện nay.
Đoàn kết, trách nhiệm, tăng tốc, bứt phá, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Đoàn kết, trách nhiệm, tăng tốc, bứt phá, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ ngành Ngân hàng trong kỷ nguyên mới

Đảng ủy Ngân hàng Nhà nước xác định mục tiêu tổng quát trong nhiệm kỳ 2025 - 2030 là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững.
Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước đoàn kết, bứt phá, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nước

Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước đoàn kết, bứt phá, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới của đất nước

Đảng bộ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh toàn diện, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, giàu mạnh, phồn vinh và thịnh vượng...
Bức thư gửi về quá khứ

Bức thư gửi về quá khứ

Trong không khí tươi vui của những ngày mừng Xuân đại thắng, "Bức thư gửi về quá khứ" không chỉ là lời tri ân sâu sắc đến thế hệ cha ông đã hi sinh vì độc lập dân tộc, mà còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ huy hoàng và tương lai rạng rỡ, giữa những năm tháng lịch sử gian lao và một non sông hôm nay hùng cường, thịnh vượng, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Phụ nữ ngành Ngân hàng sẵn sàng bước vào  kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Phụ nữ ngành Ngân hàng sẵn sàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng, vai trò của phụ nữ ngày càng được khẳng định mạnh mẽ hơn. Phụ nữ ngành Ngân hàng đã và đang phát huy trí tuệ, năng lực trong lĩnh vực của mình, góp phần xây dựng ngành Ngân hàng nói riêng và xã hội văn minh, tiến bộ.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Doanh nghiệp - Động lực trong kỷ nguyên vươn mình

Doanh nghiệp - Động lực trong kỷ nguyên vươn mình

Động lực hàng đầu cho sự phát triển đất nước trong Kỷ nguyên mới là khơi dậy sự hứng khởi và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.
Xem thêm
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Thu giữ tài sản bảo đảm là “nhà ở duy nhất”: Ranh giới tự trợ giúp theo Luật Các Tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm là "nhà ở duy nhất" đang đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đặc biệt trong việc xác định ranh giới giữa cơ chế tự trợ giúp của tổ chức tín dụng và cưỡng chế tư pháp nhằm bảo đảm vừa kỷ luật tín dụng, vừa quyền cư trú tối thiểu của người dân.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.
Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông lệ quốc tế và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin đầu vào phục vụ công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Việc nâng cao chất lượng thông tin đầu vào thông qua ứng dụng công nghệ thông tin là một quá trình liên tục và cần thiết đối với công tác giám sát ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các giải pháp ngắn hạn như hoàn thiện hệ thống báo cáo và thiết lập hàng trăm công thức kiểm tra tự động trên hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng dữ liệu.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô