Có nên cho vay góp vốn, hoàn thanh toán và chứng minh tài chính

Hoạt động ngân hàng
Góp vốn theo giải thích tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp (2020) là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập. Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên công ty, chủ sở hữu công ty đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng mệnh giá cổ phần đã bán hoặc được đăng ký mua khi thành lập công ty cổ phần (khoản 34 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020).
aa

Tóm tắt: Ngoài những nhu cầu vay vốn không được cho vay được quy định tại Điều 8 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng có thể không được cho vay đối với các nhu cầu vốn để: (1) Góp vốn, hợp tác đầu tư, kinh doanh mà vốn góp hình thành nên vốn điều lệ của bên nhận vốn góp; góp vốn, hợp tác đầu tư, kinh doanh không hình thành nên vốn điều lệ của bên nhận vốn góp; nhận chuyển nhượng phần vốn góp tại công ty khác; (2) Thanh toán tiền đặt cọc để thực hiện các giao dịch trong tương lai mà tại thời điểm đặt cọc chưa đủ điều kiện để thực hiện theo quy định của pháp luật; bù đắp vốn tự có/hoàn tiền vay để mua bất động sản/hàng hóa; (3) Chứng minh khả năng tài chính của khách hàng vay trong các quan hệ giao dịch dân sự với bên thứ ba. Những quy định này trong dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 39/2016/TT-NHNN làm phát sinh nhiều ý kiến khác nhau từ phía người vay và các TCTD. Bài viết sẽ cho thấy được những lợi ích và rủi ro của các hoạt động cho vay nói trên.

Từ khóa: Góp vốn, hoàn thanh toán, chứng minh tài chính, cấm cho vay.

1. Góp vốn - lợi ích và rủi ro của cho vay góp vốn

Góp vốn theo giải thích tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp (2020) là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập. Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên công ty, chủ sở hữu công ty đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng mệnh giá cổ phần đã bán hoặc được đăng ký mua khi thành lập công ty cổ phần (khoản 34 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020). Do đó, cho vay góp vốn có thể hiểu là việc các TCTD cấp tín dụng bằng tiền để khách hàng góp vốn tạo thành vốn điều lệ của công ty hoặc tăng thêm vốn chủ sở hữu (không tạo thành nên vốn điều lệ của công ty). Cho vay hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh hay nhận chuyển nhượng phần vốn góp tại công ty khác cũng được xem là cho vay góp vốn.

Cho vay góp vốn đã được nhiều tổ chức tài chính nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước vay để góp vốn thành lập các công ty con thực hiện các dự án đầu tư (doanh nghiệp dự án). Nhiều ngân hàng thương mại trong nước cũng sẵn sàng cho khách hàng vay để góp thêm vốn chủ sở hữu hoặc thành lập các doanh nghiệp để thực hiện các dự án đầu tư.

Thông thường, đối với phương thức cho vay dự án đầu tư truyền thống, các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư mở rộng hay đầu tư thay thế mà không cần thành lập thêm doanh nghiệp, dự án sẽ được các TCTD cho vay để đáp ứng nhu cầu đầu tư của họ. Các TCTD thường yêu cầu người vay phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án. Nguồn trả nợ là từ dòng tiền hoạt động phát sinh từ dự án vay vốn kể cả các nguồn trả nợ khác của doanh nghiệp vay vốn. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hình thành trong tương lai từ vốn vay hoặc các tài sản khác của người vay.


Các TCTD chỉ được đáp ứng những nhu cầu vay vốn của khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật

Tuy nhiên, đối với phương thức tài trợ dự án hay tài trợ phi truyền thống, các doanh nghiệp phải góp vốn để thành lập công ty con. Công ty con này sẽ sử dụng vốn góp của công ty mẹ cùng với vốn vay từ các TCTD để thực hiện dự án. Trong trường hợp này, công ty con được gọi là công ty dự án và có tư cách pháp nhân độc lập với công ty mẹ. Công ty con sẽ đứng ra vay nợ (chứ không phải là công ty mẹ), đồng thời, sử dụng tài sản hình thành trong tương lai từ vốn vay để thế chấp cho các TCTD. Công ty mẹ có thể bảo lãnh vay vốn cho công ty con (công ty dự án) nhưng thường chỉ bảo lãnh vay vốn cho công ty dự án trong giai đoạn xây dựng. Sau khi dự án được chứng nhận hoàn thành xây dựng và được đưa vào vận hành chính thức, khoản tài trợ sẽ trở thành miễn truy đòi đối với công ty mẹ. Nguồn trả nợ trong tài trợ dự án chủ yếu là dòng tiền hoạt động phát sinh từ dự án chứ không thể có nguồn trả nợ nào khác. Do đó, một khi chấp nhận tài trợ cho dự án theo phương thức tài trợ phi truyền thống, các TCTD phải thẩm định chặt chẽ tính khả thi và triển vọng thành công của dự án, bởi vì, rủi ro của phương thức tài trợ dự án cao hơn rủi ro của phương thức tài trợ truyền thống. Chính vì vậy, tài trợ dự án trong thực tế thường diễn ra phổ biến ở lĩnh vực cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông, cấp điện, cấp nước, khai thác dầu khí và khoáng sản của các tập đoàn và các tổng công ty đa ngành, đa lĩnh vực, dưới hình thức công ty mẹ - con.

Đối với phương thức tài trợ dự án, công ty mẹ có thể đứng ra vay nợ để góp vốn thành lập công ty con. Trong trường hợp này, các TCTD phải thẩm định tính khả thi của phương án đầu tư thành lập công ty con và dự án đầu tư khả thi của công ty mẹ. Tài sản thế chấp có thể là tài sản góp vốn hoặc tài sản khác của công ty mẹ. Nguồn trả nợ là từ cổ tức hoặc lợi nhuận được chia kể cả các nguồn trả nợ khác của công ty mẹ. Tuy nhiên, nếu chỉ trông chờ vào nguồn trả nợ từ cổ tức hoặc lợi nhuận được chia sẽ rất rủi ro cho các TCTD cho vay trong trường hợp cổ tức hoặc lợi nhuận được chia thấp đáng kể so với dư nợ cho vay, làm tăng thêm thời hạn trả nợ ngoài mong muốn của các TCTD. Mặt khác, vốn góp tạo thành vốn điều lệ của công ty con sẽ không được hoàn lại mà chỉ được chuyển nhượng, nên vốn góp không được xem là nguồn trả nợ cho khoản vay như trong tài trợ truyền thống. Trong trường hợp nguồn trả nợ cho khoản vay góp vốn là nguồn trả nợ của công ty mẹ, đòi hỏi các TCTD cho vay sẽ phải thẩm định kỹ lưỡng khả năng trả nợ của công ty mẹ. Do đó, khối lượng công việc thẩm định cũng sẽ nhiều hơn.

Nếu không hiểu rõ đặc điểm rủi ro của tài trợ dự án luôn cao hơn rủi ro của tài trợ truyền thống, các TCTD sẽ có thể chấp nhận cho vay góp vốn để thành lập công ty dự án ở bất cứ lĩnh vực, ngành nghề nào, và điều này vô hình trung làm gia tăng rủi ro cho các TCTD. Bởi lẽ, nhìn chung thì cho vay các công ty con mới được thành lập sẽ rủi ro hơn là cho vay những công ty đã được thành lập và hoạt động được nhiều năm. Chính vì vậy mà các TCTD chỉ cho các công ty mới thành lập vay nếu như các TCTD thật sự tin tưởng vào triển vọng thành công của dự án và thường chỉ có ở những lĩnh vực đầy tiềm năng như hạ tầng giao thông, cấp điện, cấp nước, khai thác dầu khí hay khoáng sản như nói trên, chứ không phải lĩnh vực nào các TCTD cũng chấp nhận cho các công ty mới thành lập vay. Nói cách khác, việc cho vay đối với các công ty mới thành lập đã rất hạn chế thì việc cho vay góp vốn đối với công ty mẹ lại càng hạn chế hơn do rủi ro khá cao đối với các TCTD.

Khác với các khoản cho vay góp vốn thành lập công ty, các khoản cho vay góp thêm vốn chủ sở hữu sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn, do công ty nhận vốn góp đã được thành lập và đã có thời gian hoạt động nhiều năm hơn. Tuy nhiên, để quyết định có cho vay góp thêm vốn chủ sở hữu hay không, các TCTD cũng cần thẩm định chặt chẽ khả năng trả nợ của công ty góp vốn lẫn công ty nhận vốn góp, cũng như tài sản bảo đảm của người vay.

Cho vay góp vốn giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, hoặc gia tăng tỷ suất sinh lời từ các khoản đầu tư góp vốn. Tuy nhiên, rủi ro đối với người vay và các TCTD cũng sẽ nhiều hơn trong phương thức tài trợ dự án hay là phương thức tài trợ phi truyền thống. Do đó, các TCTD phải hết sức thận trọng khi quyết định cho vay góp vốn thành lập công ty ở những lĩnh vực mà tính khả thi và triển vọng thành công của dự án là không cao.

2. Lợi ích và rủi ro của cho vay đặt cọc và hoàn thanh toán

Đặt cọc là việc một bên (gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng (khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015). Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015). Đặt cọc là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 3 Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015.

Đặt cọc trong thực tế thường được thực hiện trong các giao dịch chuyển nhượng bất động sản. Tỷ lệ đặt cọc thường chiếm từ 20 - 30% giá trị bất động sản mua bán. Nếu sau khi đặt cọc và các bên ký kết hợp đồng mua, bán thì số tiền đặt cọc được xem như khoản thanh toán đầu tiên và người mua sẽ phải thanh toán tiếp các đợt còn lại theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.

Việc các TCTD chấp nhận cho khách hàng vay để đặt cọc mua bất động sản nói riêng, hàng hóa nói chung sẽ đáp ứng được nhu cầu tài chính mang tính cấp bách cho khách hàng. Tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các TCTD.

Rủi ro thứ nhất là năng lực tài chính của người vay yếu kém và có khả năng là không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng bị mất tiền cọc, và/hoặc thậm chí không trả được nợ vay đặt cọc cho các TCTD. Cũng cần lưu ý là, khi cho khách hàng vay thanh toán tiền mua tài sản, hàng hóa, dịch vụ, các TCTD thường yêu cầu người vay phải có vốn chủ sở hữu/vốn tự có tham gia đến 30% giá trị tài sản và các TCTD sẽ cho khách hàng vay nhu cầu vốn còn thiếu của khách hàng. Do đó, với tỷ lệ đặt cọc thậm chí đến 30% giá trị tài sản thì cũng hoàn toàn nằm trong khả năng đáp ứng bằng vốn tự có của khách hàng theo quy định của các TCTD. Cho nên các TCTD cũng không cần thiết phải đáp ứng nhu cầu này của khách hàng, trừ trường hợp mà tỷ lệ đặt cọc lên đến 30% giá trị tài sản trong khi TCTD chấp nhận cho vay đến 90% giá trị tài sản thì TCTD có thể cho vay 20% số tiền đặt cọc, chứ không phải là toàn bộ số tiền đặt cọc trong trường hợp này.

Rủi ro thứ hai là người mua bỏ cọc do giá cả tài sản giảm nhanh trên thị trường dẫn đến người mua bị lỗ.

Rủi ro thứ ba là tranh chấp xảy ra giữa bên mua và bên bán khiến việc đòi lại tiền cọc của người mua rất khó khăn. Chẳng hạn như, tài sản chưa đủ điều kiện để bán, người bán đổi ý không bán chấp nhận trả cọc và bồi thường nhưng người mua không đồng ý.

Cho vay đặt cọc nhìn chung là khá rủi ro cho các TCTD. Mặt khác, nếu so với những khoản cho vay để đáp ứng nhu cầu thanh toán tiền mua tài sản, hàng hóa hay dịch vụ, thông thường, các TCTD sẽ yêu cầu người vay phải chứng minh mục đích sử dụng tiền vay bằng các hợp đồng mua bán. Khi đó, quyền sở hữu tài sản được xem như đã chuyển từ bên bán sang bên mua, nhưng với hợp đồng đặt cọc, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về bên bán. Bản chất của hoạt động cho vay đặt cọc của các TCTD là cho vay để khách hàng thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chứ không phải là cho vay để khách hàng mua sắm tài sản. Hơn nữa, việc các TCTD dễ dãi trong việc đáp ứng nhu cầu vay đặt cọc mua bất động sản của khách hàng cũng sẽ góp phần làm cho các hoạt động đầu cơ bất động sản, “lướt sóng” hay “tay không bắt giặc” có điều kiện phát triển, gây nên tình trạng tăng nóng hoặc sốt ảo bất động sản.

Do đó, việc NHNN dự kiến cấm các TCTD cho vay đặt cọc nhằm hạn chế rủi ro cho các TCTD là có cơ sở. Tuy nhiên, việc NHNN dự kiến chỉ cấm các TCTD cho khách hàng vay thanh toán tiền đặt cọc để thực hiện các giao dịch trong tương lai mà tại thời điểm đặt cọc chưa đủ điều kiện để thực hiện theo quy định của pháp luật là không cần thiết, bởi vì, tại khoản 2 Điều 1 dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 39/2016/TT-NHNN cũng đã cấm các TCTD cho vay để đáp ứng các nhu cầu tài chính cho các giao dịch mà pháp luật cấm.

Với hoạt động cho vay hoàn thanh toán của các TCTD, ngoài việc giúp cho khách hàng đáp ứng được nhu cầu tài chính để đầu tư và thanh toán, hoạt động cho vay này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các TCTD và để lại nhiều hệ lụy.

Rủi ro thứ nhất là nhiều khả năng khách hàng không cần chứng minh mục đích sử dụng tiền vay và điều này dẫn việc các TCTD không cần hoặc không thể kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay của khách hàng. Điều này dẫn đến vi phạm nguyên tắc cho vay được nêu tại khoản 2 Điều 4 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN. Theo đó, khách hàng vay vốn TCTD phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích.

Rủi ro thứ hai là có khả năng khách hàng sử dụng tiền vay cho các mục đích đầu cơ tài sản (bất động sản, chứng khoán) tiềm ẩn rủi ro hoàn vốn và hoàn trả nợ vay của khách hàng. Đồng thời, hoạt động đầu cơ cũng góp phần đẩy giá tài sản tăng cao hơn giá trị thực của tài sản, để lại nhiều hệ lụy cho chính các TCTD và nền kinh tế.

Rủi ro thứ ba là cho vay đảo nợ. Có khả năng khách hàng vay hoàn thanh toán để trả các khoản nợ có nguy cơ trở thành nợ xấu tại các TCTD khác, dẫn đến làm giảm chất lượng của các khoản cho vay hoàn thanh toán.

Thật ra, khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải cung cấp phương án hay dự án sử dụng vốn vay khả thi và sử dụng tài sản vay hoàn thanh toán để thế chấp cho các TCTD như thông thường, chứ không cần thiết phải vay hoàn thanh toán để che giấu mục đích sử dụng vốn mang tính đầu cơ hoặc không hợp pháp của khách hàng.

3. Lợi ích và sự cần thiết của cho vay chứng minh tài chính

Cho vay chứng minh khả năng tài chính cũng là một sản phẩm tín dụng được nhiều TCTD cung cấp cho khách hàng trong nhiều năm qua ở Việt Nam. Cho vay chứng minh khả năng tài chính giúp cho khách hàng thuận lợi hơn trong thủ tục chứng minh khả năng tài chính cho con du học hay chứng minh khả năng tài chính để góp vốn thành lập doanh nghiệp, hợp tác kinh doanh… Tuy nhiên, để chứng minh khả năng tài chính, khách hàng không nhất thiết phải sử dụng cho vay chứng minh tài chính của các TCTD mà có thể sử dụng những thủ tục thay thế khác. Chẳng hạn, để chứng minh tài chính cho con du học, khách hàng có thể chứng minh bằng thủ tục xác nhận số dư các loại tiền gửi tại các TCTD hoặc hợp đồng cho vay du học của các TCTD. Để chứng minh tài chính bằng các loại bất động sản, khách hàng có thể sử dụng dịch vụ ủy thác quản lý tài sản hay dịch vụ bảo quản giấy tờ có giá của các TCTD. Ngoài ra, việc giải ngân vốn vay chứng minh tài chính vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn cho khách hàng rồi sau đó khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không cũng là vấn đề khó khăn đối với các TCTD. Thậm chí, có khả năng các TCTD cũng không cần kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay sau khi đã giải ngân bằng chuyển khoản vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng. Do đó, rất có khả năng khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích dẫn đến tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ sau này cho các TCTD.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Dân sự 2015.

2. Luật Doanh nghiệp 2020.

3. Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.


TS. Nguyễn Hoàng Vĩnh Lộc (Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh)

ThS. Đinh Văn Hoàn (Công ty cổ phần khu công nghiệp Tân Bình)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Vốn tín dụng chính sách tạo động lực cho phụ nữ phát triển kinh tế

Là “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trong việc truyền tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến với phụ nữ nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Phú Lộc, thành phố Huế luôn đồng hành, sát cánh với hội viên, giúp họ phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, quyền năng kinh tế cho chị em, qua đó, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Hiệu quả nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương

Bài viết tập trung phân tích hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương để cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2020 - 2024 thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng.
Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang là một nền kinh tế có độ mở lớn, việc giao thương với các quốc gia trên thế giới đã mở ra nhiều cơ hội trong việc kinh doanh ngoại tệ nói chung và hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh tại các TCTD nói chung. Theo đó, các TCTD đã tận dụng tốt cơ hội và lợi thế để triển khai các sản phẩm phái sinh đến khách hàng dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng cũng như sự điều tiết của thị trường.
Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Chuyển đổi số tại Ngân hàng Chính sách xã hội: Gia tăng tiện ích sử dụng cho khách hàng

Sự phát triển công nghệ ngân hàng số diễn ra mạnh mẽ với tốc độ khá nhanh, kéo theo sự thay đổi nhanh chóng dịch vụ tài chính; các sản phẩm ứng dụng công nghệ mới đa dạng đem lại những trải nghiệm mới và lợi ích sử dụng cho khách hàng.
“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

“Dòng chảy” vốn tín dụng tại tỉnh An Giang tạo động lực tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng, miền núi, biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và sự hỗ trợ từ những chính sách đặc thù, tỉnh An Giang đã và đang vươn lên trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư và phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Hoạt động ngân hàng - Dấu ấn trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024

Trong bức tranh kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024, hệ thống ngân hàng đã phát huy vai trò là huyết mạch quan trọng, chủ động bảo đảm nguồn vốn lưu thông linh hoạt, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của tỉnh.
25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

25 năm phát triển sản phẩm, dịch vụ của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam

Tại Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp thành hai cấp, định hướng hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng và cả một số ngân hàng lâm vào tình trạng mất vốn, nợ tồn đọng lớn, gây ảnh hưởng tới uy tín của hệ thống ngân hàng, lòng tin của người dân và doanh nghiệp.
Xem thêm
Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cấp thiết hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số và quá trình chuyển đổi xanh, vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các loại tài sản mới như tài sản số, tín chỉ carbon có thể và sẽ được chấp nhận như thế nào với vai trò là tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cùng chung nhận định đó là cần sớm hoàn thiện pháp luật về tài sản bảo đảm là tài sản số, tín chỉ carbon tại Hội thảo “Tài sản bảo đảm ngân hàng - Những vấn đề quan tâm hiện nay” do Thời báo Ngân hàng tổ chức ngày 28/4/2025.
Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Những rào cản trong phát triển kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính truyền thống sang nền kinh tế tuần hoàn là hướng đi đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược linh hoạt, kịp thời để đối phó với thách thức và tận dụng cơ hội từ thị trường nội địa, quốc tế

Trong bối cảnh các chính sách thuế quan và các biện pháp thương mại quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những chiến lược linh hoạt và kịp thời để đối phó với những thách thức, đồng thời tận dụng các cơ hội từ thị trường nội địa và quốc tế.
Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng trong việc bảo đảm an toàn giao dịch điện tử - Thực trạng và giải pháp

Để xây dựng hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo sự tương thích đối với Luật Giao dịch điện tử năm 2023, pháp luật Việt Nam đã có những quy định về nghĩa vụ của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc bảo đảm an toàn cho giao dịch điện tử. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều bất cập, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật để tăng cường tính an toàn, minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giao dịch điện tử.
Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Quy định thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 75/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 171/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.
Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đánh giá thực tiễn triển khai CBDC tại ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Đối với Việt Nam, CBDC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống thanh toán, tăng cường tài chính toàn diện và nâng cao hiệu quả giám sát tiền tệ. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần có một chiến lược rõ ràng, bao gồm: Xác định rõ mục tiêu của CBDC, xây dựng khung pháp lý toàn diện, đầu tư vào hạ tầng công nghệ, thử nghiệm các mô hình triển khai phù hợp và thúc đẩy hợp tác quốc tế để đảm bảo tính tương thích với hệ thống tài chính toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực  truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình chuyển đổi số báo chí và một số khuyến nghị đối với lĩnh vực truyền thông ngành Ngân hàng Việt Nam

Chuyển đổi số mang lại cơ hội cũng như thách thức lớn đối với hoạt động truyền thông, báo chí ngành Ngân hàng Việt Nam. Việc áp dụng công nghệ không chỉ giúp báo chí gia tăng khả năng truyền tải thông tin, mà còn làm thay đổi phương thức quản lý, sản xuất và phân phối tin tức. Điều này đòi hỏi báo chí ngành Ngân hàng phải đổi mới mô hình tổ chức, bảo đảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Thông điệp sau làn sóng tăng thuế đối ứng của Mỹ

Chính quyền Mỹ cho biết, khi xác định mức thuế quan đối ứng cho mỗi quốc gia, họ không chỉ xem xét thuế nhập khẩu mà còn các hoạt động khác mà họ cho là không công bằng, bao gồm thuế giá trị gia tăng, trợ cấp của chính phủ, chiến lược thao túng tiền tệ, chuyển nhượng công nghệ và các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Vươn mình trong hội nhập quốc tế

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Vươn mình trong hội nhập quốc tế". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hòa cùng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã từng bước tiếp cận và áp dụng các Hiệp ước vốn Basel. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 20 NHTM áp dụng Basel II và 10 NHTM tiên phong áp dụng Basel III. Đây là bước tiến quan trọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các chuẩn mực và quy định quốc tế.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc