Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chính sách
Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
aa

Tóm tắt: Trong chế độ tài sản theo luật định, pháp luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HNGĐ) Việt Nam quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, tại các ngân hàng khi cho khách hàng cá nhân vay vốn thường gặp một số vướng mắc, chủ yếu gặp phải trong việc xác định hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân. Thông qua bài viết này, nhóm tác giả phân tích các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra một số trường hợp cụ thể phát sinh trong thực tiễn hoạt động ngân hàng liên quan đến việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần tháo gỡ vướng mắc và làm rõ hệ quả pháp lý của vấn đề này.

Từ khóa: Khách hàng cá nhân, vợ chồng, chia tài sản chung, khả năng tài chính để trả nợ.

DIVISION OF MARITAL PROPERTY DURING THE MARRIAGE- LEGAL CONSEQUENCES
AND CONNECTION TO BANK LENDING ACTIVITIES

Abstract: Under the statutory matrimonial property regime, the Vietnamese Law on Marriage and Family provides that spouses have the right to divide their common property during the marriage. However, in practice, commercial banks often encounter certain legal difficulties when granting loans to individual customers, particularly in determining the legal consequences of dividing marital property during the marriage. This article aims to analyze the current legal framework and highlight specific cases arising in banking practice related to division of marital property. On that basis, the authors propose certain recommendations to improve the relevant legal provisions, resolve existing obstacles, and clarify the legal implications of this issue.

Keywords: Individual customers, spouses, division of marital property, financial capacity for debt repayment.

1. Đặt vấn đề

Khi khách hàng cá nhân có nhu cầu vay vốn, ngân hàng cần phải xác định khách hàng đó có đáp ứng đủ điều kiện vay vốn hay không1. Một trong những điều kiện quan trọng được quy định tại khoản 4 Điều 7 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là khả năng tài chính để trả nợ của khách hàng.

Vấn đề này sẽ không khó khăn nếu khách hàng là người độc thân, có nguồn thu nhập ổn định và cơ chế xác định tài sản riêng rõ ràng. Tuy nhiên, nếu khách hàng là người đang có vợ hoặc có chồng2, nhưng có nhu cầu lập hợp đồng vay riêng (chịu nghĩa vụ riêng về tài sản) thì nhiều ngân hàng/tổ chức tín dụng lại gặp khó khăn trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn, đặc biệt là với những khách hàng đã hoặc đang thực hiện việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Bởi lẽ, đối với chế độ hôn nhân theo luật định thì (i) Từ Luật HNGĐ năm 1986, Luật HNGĐ năm 2000 đến Luật HNGĐ năm 2014 đều thừa nhận vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân3; (ii) Việc chia tài sản này “sẽ làm cho một bộ phận tài sản đáng lẽ sẽ là tài sản chung nay lại trở thành tài sản riêng”4; và (iii) Khách hàng đã đăng ký kết hôn vẫn hoàn toàn có thể lập hợp đồng vay riêng5.

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên6. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt7. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng (khách hàng cá nhân) sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản. Hay nói cách khác, việc xác định khách hàng có “khả năng tài chính để trả nợ riêng” khi họ đang trong quan hệ hôn nhân đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi ngân hàng cần phải có cơ chế để đảm bảo an toàn pháp lý khi chấp nhận nghĩa vụ vay nợ do một bên vợ chồng thực hiện.

Để tìm được hướng xử lý cho vấn đề này, trước hết chúng ta cần làm rõ cơ chế và hệ quả pháp lý từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

2. Quy định của pháp luật về hệ quả pháp lý từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014 hiện nay ghi nhận vợ, chồng có quyền tự thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản luật định được xác định theo Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014, gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng (trừ trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân); các khoản thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung; tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; ngoài ra, tài sản mà vợ chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng khi có tranh chấp, cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung, phù hợp với nguyên tắc tự do thỏa thuận trong quan hệ dân sự. Về mặt hình thức, thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp vợ, chồng yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì việc phân chia sẽ được áp dụng theo nguyên tắc giải quyết chia tài sản khi ly hôn.

Về hệ quả, sự kiện chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại này sẽ kéo theo cơ chế xác định tài sản chung của vợ chồng có một số thay đổi so với Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. Cụ thể, nếu không có sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng8. Tuy nhiên, nếu vợ, chồng thực hiện việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì kể từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, hệ quả pháp lý phải được xác định dựa trên quy định tại Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ. Theo đó, phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng (trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác). Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu phát sinh tài sản từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó sẽ được coi là thuộc sở hữu chung của vợ chồng9.

Lưu ý rằng, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản đã được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba, và việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật định.

3. Vướng mắc gặp phải và hướng xử lý tại các ngân hàng

Như trên đã đề cập, hệ quả rõ nhất sau khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là căn cứ xác định tài sản chung - riêng sẽ có những thay đổi. Tuy nhiên trong hoạt động đánh giá khả năng tài chính để trả nợ của khách hàng, việc áp dụng quy định này đang gặp phải một số vướng mắc, bất cập. Cụ thể:

Thứ nhất, vướng mắc trong việc xác định thu nhập do lao động và các nguồn thu nhập hợp pháp khác của khách hàng (có được sau thời điểm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân) có phải là nguồn tài chính để trả nợ hay không?

Vấn đề này được thể hiện qua tình huống sau: Ông A và bà B là vợ chồng theo Giấy Chứng nhận kết hôn năm 2020 (không áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận). Năm 2023, bà B muốn sử dụng tài sản riêng của mình để thế chấp vay vốn ngân hàng, với mục đích sửa chữa nhà cho bố mẹ ruột của bà B. Đối với khoản vay tại ngân hàng, ông A và bà B thống nhất đây là khoản vay riêng của bà B và bà B sẽ tự trả bằng nguồn thu nhập của bà. Ông A không có nghĩa vụ chung cũng như trách nhiệm liên đới đến khoản vay này của bà B. Tuy nhiên, khi bà B liên hệ ngân hàng X để vay vốn, yêu cầu vay của bà B không được chấp nhận bởi ngân hàng xác định thu nhập của bà B sử dụng để trả nợ cho ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B theo quy định tại Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. Do đó, việc vay vốn và nghĩa vụ trả nợ phải do cả hai vợ chồng ông A, bà B cùng thực hiện.

Sau đó, bà B liên hệ với một ngân hàng khác thì được hướng dẫn, yêu cầu ông A, bà B lập một văn bản thỏa thuận, trong đó xác định kể từ thời điểm lập văn bản, tất cả các nguồn thu nhập của bà B (có trước và sau khi chia) là tài sản riêng của bà B, bà B được toàn quyền sử dụng. Ngân hàng yêu cầu ông A, bà B thực hiện công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận này.

Tuy nhiên khi ông A, bà B thực hiện công chứng văn bản này thì tổ chức hành nghề công chứng thứ nhất không đồng ý vì các nguồn thu nhập chưa hình thành ở thời điểm phân chia nên không có căn cứ để phân chia. Ngược lại, tổ chức hành nghề công chứng thứ hai lại đồng ý công chứng vì xác định thỏa thuận giữa ông A và bà B là thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 38 Luật HNGĐ và phù hợp điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, hai bên có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; việc xác lập là hoàn toàn tự nguyện; mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Đây là tình huống gặp phải ở rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng, các tổ chức hành nghề công chứng và mỗi đơn vị, tổ chức lại có cách ứng xử khác nhau như trên đã đề cập.

Về mặt pháp lý, nếu đối chiếu với các quy định hiện hành thì pháp luật về HNGĐ dường như chưa có câu trả lời cụ thể cho vấn đề này. Khoản 1Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP dường như “quên nhắc đến thu nhập từ lao động và các nguồn thu nhập hợp pháp khác”10. Trong khi đó, hệ quả pháp lý đối với phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng thì đã được minh thị là tài sản riêng của vợ, chồng. Điều này dẫn đến thực tiễn có nhiều cặp vợ chồng khi tiến hành thỏa thuận phân chia tài sản, họ thỏa thuận luôn việc phân chia tài sản chung là tiền lương, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh… phát sinh sau khi thỏa thuận chia tài sản chung có hiệu lực sẽ là tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng như trường hợp vợ chồng ông A, bà B nêu trên.

Chính vì sự chưa rõ ràng trong quy định của pháp luật nên đã dẫn đến có nhiều quan điểm xử lý khác nhau như quan điểm của hai ngân hàng và các tổ chức hành nghề công chứng đã nêu.

Theo nhóm tác giả, tinh thần của Luật HNGĐ năm 2014 đang cho phép vợ chồng được quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng điều này không làm chấm dứt chế độ tài sản theo luật định, do đó bản chất các tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân không thể “thoát ly” khỏi Điều 33 Luật này (trừ trường hợp đã thuộc phạm trù điều chỉnh của Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014). Đây cũng là lý do trước đây khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ năm 200011 có quy định xác định “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng” nhưng đến Luật HNGĐ năm 2014 thì lại không còn quy định. Hay nói cách khác, việc thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không có tính chất như “chế độ tài sản theo thỏa thuận”, vợ chồng chỉ được quyền phân chia các tài sản đang có, còn tài sản chưa hình thành, chưa hiện hữu thì không được phân chia.

Tuy nhiên như đã phân tích, sự không rõ ràng trong quy định về hệ quả pháp lý đối với thu nhập do lao động và các nguồn thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã dẫn đến nhiều cách hiểu trong thực tiễn áp dụng. Mẫu văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại các tổ chức hành nghề công chứng cũng rất tùy nghi, phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người đứng đầu tổ chức hành nghề công chứng. Thậm chí có nhiều mẫu văn bản còn ghi sẵn ở phần các thỏa thuận khác là “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”12. Vậy rõ ràng đây là điểm bất cập mà pháp luật HNGĐ cần được sửa đổi, bổ sung để làm rõ.

Thứ hai, vợ chồng có thỏa thuận xác lập văn bản cam kết tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, thì có áp dụng quy định về hệ quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân?

Câu hỏi này đặt ra bởi thực tiễn hiện nay có rất nhiều trường hợp vợ, chồng không tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng lại có một thỏa thuận với tên gọi văn bản cam kết tài sản riêng do hai vợ chồng xác lập; hoặc văn bản xác nhận tài sản riêng do một người lập (cho người còn lại)13 … với mục đích là thỏa thuận một tài sản nào đó (được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân14) là tài sản riêng. Đặc biệt liên quan đến tài sản là bất động sản thì những văn bản như vừa nêu càng xuất hiện phổ biến15.

Theo tìm hiểu của nhóm tác giả, tại nhiều ngân hàng, hồ sơ cho vay/nhận bảo đảm liên quan đến tài sản được xác nhận là tài sản riêng bằng hình thức thỏa thuận như trên cũng không phải là hiếm gặp. Tuy nhiên, hiện nay, Luật HNGĐ năm 2014 chưa có cơ chế pháp lý ghi nhận việc vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được thỏa thuận một tài sản nào đó là của riêng. Vậy, hệ quả của các thỏa thuận cam kết tài sản riêng này có tương tự như hệ quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hay không?

Theo nhóm tác giả, hình thức văn bản cam kết/xác nhận tài sản (hình thành trong thời kỳ hôn nhân) là tài sản riêng không thể hiện đúng bản chất “phân chia” theo thỏa thuận của vợ chồng như quy định tại Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014. Nếu thỏa thuận đó hàm chứa việc chuyển phần quyền sở hữu/quyền sử dụng của người này sang người khác (của vợ sang chồng hay ngược lại) mà không có đền bù thì đó là hợp đồng tặng cho; còn nếu có đền bù thì là hợp đồng mua bán/chuyển nhượng16. Hiện nay quy định về quyền được xác nhận một tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của một bên chồng/vợ vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ, do đó, hệ quả của văn bản cam kết tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân không thể áp dụng theo Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014.

Tuy nhiên, dưới góc độ phát triển kinh tế, một số ngân hàng vẫn chấp nhận và xử lý hồ sơ có liên quan đến văn bản thỏa thuận/cam kết tài sản riêng này. Điều này tiềm ẩn rủi ro bởi việc “không có cơ sở pháp lý để đáp ứng yêu cầu của vợ chồng về việc công chứng thỏa thuận coi tài sản nào đó là tài sản riêng”17 vẫn là trở ngại lớn, có thể gây thiệt hại cho ngân hàng hay các bên thứ ba tham gia giao dịch với vợ, chồng. Cụ thể là, nếu không có cơ sở pháp lý, thỏa thuận/cam kết tài sản riêng này có thể bị tuyên bố vô hiệu khi các bên có tranh chấp dẫn đến khoản vay và/hoặc giao dịch bảo đảm bị ảnh hưởng hiệu lực (vô hiệu toàn bộ/một phần tùy thuộc vào hồ sơ thực tế và quan điểm của cơ quan giải quyết tranh chấp). Qua tìm hiểu của nhóm tác giả, mỗi ngân hàng tùy vào quan điểm và khả năng nhận diện rủi ro khác nhau sẽ có các biện pháp giảm thiểu rủi ro khác nhau, điển hình như: Yêu cầu văn bản phải được lập dưới hình thức thỏa thuận có chữ ký của hai vợ chồng; nội dung văn bản thể hiện tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân này là tài sản riêng, bất kể nguồn gốc tài sản; hoặc văn bản thỏa thuận/cam kết phải được công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch/chứng thực chữ ký; hoặc yêu cầu văn bản thỏa thuận được đăng ký biến động đất đai (đối với tài sản là bất động sản) sau khi vợ chồng xác lập thỏa thuận.

Tuy nhiên, đây vẫn là những biện pháp riêng của từng đơn vị, và với những yêu cầu không thống nhất từ các ngân hàng, phụ thuộc vào ý chí và quan điểm của từng ngân hàng khác nhau có thể tiềm ẩn những yêu cầu không phù hợp đối với khách hàng hoặc trái với quan điểm, nhận định của cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều này sẽ gây khó khăn, hạn chế quyền tiếp cận vốn vay và thế chấp tài sản, đồng thời tiềm ẩn rủi ro cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng khi cho vay, nhận thế chấp.

4. Kết luận và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Việc người đang có vợ, có chồng muốn tự mình xác lập khoản vay, giảm thiểu rủi ro về tài chính cho kinh tế gia đình là nhu cầu rất phổ biến trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên nếu không áp dụng chế độ tài sản thỏa thuận từ trước, thì pháp luật hiện hành chỉ dừng lại ở quy định cho phép vợ chồng thỏa thuận chia những tài sản đã có, còn những tài sản hình thành trong tương lai thì không (trừ trường hợp đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sau khi chia). Điều này đặt ra bất cập bởi vì đa phần các cặp vợ chồng tại Việt Nam hiện nay vẫn đang áp dụng chế độ tài sản theo luật định (chế độ tài sản theo thỏa thuận không được ghi nhận trước ngày 01/01/2015 và theo một số khảo sát thì cho đến giữa năm 2021, chưa có thỏa thuận nào về quan hệ tài sản của vợ chồng được công chứng18). Bên cạnh đó, việc phân chia nguồn thu nhập do lao động không chỉ có ý nghĩa đối với vợ chồng mà còn có ý nghĩa với bên thứ ba như ngân hàng, các tổ chức tín dụng khi cho một bên vợ hoặc chồng vay vốn. Đặt dưới góc nhìn khoa học pháp lý, cũng đã có nhiều bài viết, phân tích từ các chuyên gia về sự cần thiết minh thị trong hệ quả pháp lý khi vợ, chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân19. Tổng hợp các lý do trên, cùng những vướng mắc đặc thù gặp phải tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khi các đơn vị này đang phải chấp nhận rủi ro trong quá trình hoạt động, nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cần bổ sung hướng dẫn, xác định hệ quả pháp lý sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đối với các khoản thu nhập do lao động, thu nhập hợp pháp khác. Cụ thể, để phù hợp với thực tiễn, tại thời điểm vợ chồng tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì nội dung văn bản thỏa thuận hoặc quyết định của Tòa án phải xác định rõ ý chí của vợ, chồng đối với các khoản thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác. Trường hợp vợ, chồng không thể hiện ý chí, hoặc thỏa thuận không rõ ràng, thì mới xác định đây là tài sản chung của vợ chồng. Luật HNGĐ năm 2014 cho phép các bên được phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dựa trên cơ chế tôn trọng quyền tự quyết của vợ chồng. Nếu nội dung này trong văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì sẽ có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 201520. Điều này sẽ tạo cơ hội cho vợ, chồng trong quá trình thực hiện quyền đối với tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được trọn vẹn, tránh tình trạng phải phân chia nhiều lần không cần thiết, gây lãng phí thời gian, công sức và các ngân hàng/tổ chức tín dụng khi cho vay, nhận thế chấp có thêm căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền lợi khi có tranh chấp phát sinh liên quan.

Vì vậy, quy định tại Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, nhóm tác giả kiến nghị, bổ sung như sau: “Vợ, chồng có quyền thỏa thuận về thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và các khoản thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Trường hợp không có thỏa thuận, hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và các khoản thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật này”.

Thứ hai, pháp luật HNGĐ cần ghi nhận và hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân đối với chế độ tài sản theo luật định. Bởi lẽ, việc “dựa” theo Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014 để đưa ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro tại các ngân hàng vẫn tiềm ẩn rủi ro. Vậy nếu bản chất của thỏa thuận xác nhận tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật khác có liên quan; không trái với các nguyên tắc chung về tài sản (quy định từ Điều 29 đến Điều 32 Luật HNGĐ năm 2014); nội dung của thỏa thuận không nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ, vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình thì thỏa thuận đó cần được ghi nhận. Ngược lại, nếu vi phạm các điều trên thì thỏa thuận có thể bị tuyên vô hiệu. Quy định này phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại khi con người có quyền sở hữu riêng về tài sản và nhiều quốc gia cũng ghi nhận tương tự về vấn đề này21.

Thứ ba, trong công tác thực thi pháp luật, cần phổ rộng và cập nhật, thống nhất cách xử lý cho các bên liên quan như tổ chức hành nghề công chứng, ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc tôn trọng quyền được thỏa thuận chia tài sản của vợ, chồng nói chung và phân chia nguồn thu nhập nói riêng. Cần tránh tình trạng mỗi ngân hàng, tổ chức lại có một cách hiểu và chấp nhận rủi ro khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không có sự thống nhất, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các đơn vị, tổ chức khi thực thi các quy định pháp luật. Đồng thời, cần khắc phục tình trạng các ngân hàng, tổ chức hành nghề công chứng đưa ra những mẫu văn bản thỏa thuận không thống nhất, không thể hiện đúng tinh thần pháp luật cũng như ý chí của người xác lập văn bản làm ảnh hưởng quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng, người dân khi thực hiện các thủ tục có liên quan.y

1 Điều 7 và Điều 22 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.

2 Xác định theo khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ.

3 Điều 18 Luật HNGĐ năm 1986, Điều 29 Luật HNGĐ năm 2000, Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014.

4 Đặng Lê Phương Uyên (2019). “Hậu quả về quan hệ tài sản của vợ chồng khi chia tài sản chung”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, truy cập ngày 21/11/2024, https://www.tapchitoaan.vn/hau-qua-ve-quan-he-tai-san-cua-vo-chong-khi-chia-tai-san-chung

5 Điều 45 Luật HNGĐ năm 2014.

6 Khoản 3 Điều 45 Luật HNGĐ năm 2014.

7 Điều 213 BLDS năm 2015, Điều 29 Luật HNGĐ năm 2014.

8 Khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. Ngoài ra, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung, tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, tài sản mà không có căn cứ để chứng minh là tài sản riêng thì cũng là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng (trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng).

9 Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ.

10 Nguyễn Ngọc Điện (2021). Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình - Quan hệ tài sản vợ chồng, thừa kế (tập 2), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 87.

11 Có hiệu lực từ ngày 18/10/2001 đến ngày 15/02/2015.

12 https://lawnet.vn/hopdong/mau-van-ban-thoa-thuan-phan-chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-195.html; hoặc https://luatduyhung.com/thoa-thuan-phan-chia-tai-san-chung-trong-hon-nhan/, truy cập ngày 23/02/2025.

13 Nguyễn Huy Cường (2020). “Thực tiễn công chứng văn bản xác nhận tài sản riêng của vợ, chồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11/2020, tr. 53.

14 Những tài sản này không phải là tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân (Khoản 1 Điều 43 Luật HNGĐ năm 2014); cũng không phải là tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng (Khoản 2 Điều 43 Luật HNGĐ năm 2014).

15 Xem thêm: Đào Duy An (2021), “Một số vấn đề lưu ý khi chứng nhận giao dịch xác lập tài sản riêng của vợ chồng”, Thực hiện pháp luật về công chứng, chuyên đề số 2, https://daoduyan.com/2022/07/motso-van-de-luu-y-khi-chung-nhan-giao-dich-xac-laptai-san-rieng-cua-vo-chong/, truy cập ngày 30/06/2025.

16 Đỗ Văn Đại, Nguyễn Phương Ân (2024), Chuyên đề 26: Thỏa thuận chia bất động sản chung của vợ chồng, Sách chuyên khảo: “Giao dịch dân sự về bất động sản” (tập 2) do GS., TS. Đỗ Văn Đại chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, 2024, tr. 288.

17 Nguyễn Ngọc Điện, sđd (7), tr. 102.

18 Nguyễn Ngọc Điện, sđd (7), tr. 56.

19 Nguyễn Phương Lan (2023). Một số vấn đề phát sinh từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Kiểm sát, truy cập ngày 28/02/2025, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/mot-so-van-de-phat-sinh-tu-viec-chia-tai-san-chung-d10-t12434.html

20 Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

21 Điều 1065 Bộ luật Dân sự Trung Quốc năm 2020: “Nam và nữ có thể thỏa thuận rằng tài sản trước hôn nhân của họ và tài sản mà họ có được trong thời kỳ hôn nhân của họ có thể thuộc sở hữu riêng hoặc chung, hoặc sở hữu riêng một phần và sở hữu chung một phần. Thỏa thuận sẽ được lập thành văn bản...”.

Tài liệu tham khảo:

1. Đỗ Văn Đại, Nguyễn Phương Ân (2024). Chuyên đề 26: Thỏa thuận chia bất động sản chung của vợ chồng,

Sách chuyên khảo: “Giao dịch dân sự về bất động sản” (tập 2) do GS., TS. Đỗ Văn Đại chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Đặng Lê Phương Uyên (2019). “Hậu quả về quan hệ tài sản của vợ chồng khi chia tài sản chung”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, truy cập ngày 21/11/2024, https://www.tapchitoaan.vn/hau-qua-ve-quan-he-tai-san-cua-vo-chong-khi-chia-tai-san-chung

3. Nguyễn Huy Cường (2020). “Thực tiễn công chứng văn bản xác nhận tài sản riêng của vợ, chồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11/2020.

4. Nguyễn Ngọc Điện (2021). Giáo trình Luật HNGĐ - Quan hệ tài sản vợ chồng, thừa kế (tập 2), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Nguyễn Phương Lan (2023). “Một số vấn đề phát sinh từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Kiểm sát, truy cập ngày 28/02/2025, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/mot-so-van-de-phat-sinh-tu-viec-chia-tai-san-chung-d10-t12434.html

6. Đào Duy An (2021), “Một số vấn đề lưu ý khi chứng nhận giao dịch xác lập tài sản riêng của vợ chồng”, Thực hiện pháp luật về công chứng, chuyên đề số 2, truy cập ngày 30/6/2025, https://daoduyan.com/2022/ 07/motso-van-de-luu-y-khi-chung-nhan-giao-dich-xac-laptai-san-rieng-cua-vo-chong/

ThS. Nguyễn Phương Ân *; Luật sư Trần Bá Bình **
* Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; ** Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh

Tin bài khác

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện khung giám sát rủi ro hệ thống để tăng cường ổn định tài chính - tiền tệ quốc gia

Dự thảo Thông tư quy định trình tự, thủ tục nhận diện, đánh giá, phòng ngừa và hạn chế rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tài chính đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa giám sát tài chính tại Việt Nam. Nếu được triển khai một cách đồng bộ, gắn kết với các công cụ chính sách vĩ mô và cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ, Thông tư sẽ góp phần nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng, củng cố niềm tin thị trường, đồng thời tạo dựng nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Song đề chính sách trong thị trường bất động sản - Ổn định tín dụng và công bằng xã hội

Khi tín dụng bất động sản được siết chặt nhằm hạn chế đầu cơ và kiểm soát rủi ro hệ thống, sẽ làm hạ nhiệt rõ rệt thị trường nhà ở. Tuy nhiên, thay vì làm giá nhà giảm mạnh, chính sách này lại kéo theo sự sụt giảm thanh khoản, đình trệ các dự án và nghịch lý giá nhà vẫn neo ở mức cao. Đây là biểu hiện tiêu biểu của một song đề chính sách trong quản lý kinh tế thị trường...
Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN là bước điều chỉnh quan trọng trong quản lý dự trữ bắt buộc, với tác động đa chiều đến tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính sách này không chỉ giải phóng nguồn lực hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng yếu, kém, mà còn tăng cường kỷ luật thị trường, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và củng cố niềm tin của công chúng.
Xem thêm
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Hoàn thiện phương pháp tính CPI tại Việt Nam: Góc nhìn từ yếu tố bất động sản và chi phí nhà ở

Việc đưa bất động sản vào giỏ hàng hóa Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn liên quan đến vấn đề khái niệm, phương pháp luận và quản lý dữ liệu thống kê. Giải pháp phù hợp cần hướng tới việc phản ánh đúng chi phí sử dụng nhà ở mà vẫn tránh lẫn lộn với biến động giá tài sản đầu cơ, nhằm duy trì vai trò của CPI như một chỉ số đo lường lạm phát tiêu dùng thuần túy, đồng thời vẫn nâng cao giá trị thông tin cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô.
Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Tiềm năng, thách thức và định hướng phát triển

Du lịch nông nghiệp nội vùng tại Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên là loại hình có triển vọng, bởi vùng này vừa sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi vừa giàu bản sắc văn hóa và sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, đặc biệt càng có nhiều cơ hội và không gian phát triển rộng lớn. Tuy vậy, sự phát triển vẫn đối mặt với những thách thức như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, hạn chế về hạ tầng và sự tham gia chưa đầy đủ của cộng đồng. Do đó, các địa phương cần xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, trong đó nhấn mạnh vai trò liên kết các điểm du lịch nông nghiệp nội vùng, đầu tư hạ tầng, phát triển sản phẩm dựa trên lợi thế bản địa và tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.
Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Hợp tác thương mại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á: Thực trạng, đánh giá và gợi ý cho Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc đánh giá thực trạng, xu hướng và động lực phát triển quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN trở nên cấp thiết nhằm xác định cơ hội hợp tác mới, đặc biệt là đối với các nước trung gian như Việt Nam.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô