Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chính sách
Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
aa

Tóm tắt: Trong chế độ tài sản theo luật định, pháp luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HNGĐ) Việt Nam quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, tại các ngân hàng khi cho khách hàng cá nhân vay vốn thường gặp một số vướng mắc, chủ yếu gặp phải trong việc xác định hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân. Thông qua bài viết này, nhóm tác giả phân tích các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra một số trường hợp cụ thể phát sinh trong thực tiễn hoạt động ngân hàng liên quan đến việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, góp phần tháo gỡ vướng mắc và làm rõ hệ quả pháp lý của vấn đề này.

Từ khóa: Khách hàng cá nhân, vợ chồng, chia tài sản chung, khả năng tài chính để trả nợ.

DIVISION OF MARITAL PROPERTY DURING THE MARRIAGE- LEGAL CONSEQUENCES
AND CONNECTION TO BANK LENDING ACTIVITIES

Abstract: Under the statutory matrimonial property regime, the Vietnamese Law on Marriage and Family provides that spouses have the right to divide their common property during the marriage. However, in practice, commercial banks often encounter certain legal difficulties when granting loans to individual customers, particularly in determining the legal consequences of dividing marital property during the marriage. This article aims to analyze the current legal framework and highlight specific cases arising in banking practice related to division of marital property. On that basis, the authors propose certain recommendations to improve the relevant legal provisions, resolve existing obstacles, and clarify the legal implications of this issue.

Keywords: Individual customers, spouses, division of marital property, financial capacity for debt repayment.

1. Đặt vấn đề

Khi khách hàng cá nhân có nhu cầu vay vốn, ngân hàng cần phải xác định khách hàng đó có đáp ứng đủ điều kiện vay vốn hay không1. Một trong những điều kiện quan trọng được quy định tại khoản 4 Điều 7 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là khả năng tài chính để trả nợ của khách hàng.

Vấn đề này sẽ không khó khăn nếu khách hàng là người độc thân, có nguồn thu nhập ổn định và cơ chế xác định tài sản riêng rõ ràng. Tuy nhiên, nếu khách hàng là người đang có vợ hoặc có chồng2, nhưng có nhu cầu lập hợp đồng vay riêng (chịu nghĩa vụ riêng về tài sản) thì nhiều ngân hàng/tổ chức tín dụng lại gặp khó khăn trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn, đặc biệt là với những khách hàng đã hoặc đang thực hiện việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Bởi lẽ, đối với chế độ hôn nhân theo luật định thì (i) Từ Luật HNGĐ năm 1986, Luật HNGĐ năm 2000 đến Luật HNGĐ năm 2014 đều thừa nhận vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân3; (ii) Việc chia tài sản này “sẽ làm cho một bộ phận tài sản đáng lẽ sẽ là tài sản chung nay lại trở thành tài sản riêng”4; và (iii) Khách hàng đã đăng ký kết hôn vẫn hoàn toàn có thể lập hợp đồng vay riêng5.

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên6. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt7. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng (khách hàng cá nhân) sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản. Hay nói cách khác, việc xác định khách hàng có “khả năng tài chính để trả nợ riêng” khi họ đang trong quan hệ hôn nhân đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi ngân hàng cần phải có cơ chế để đảm bảo an toàn pháp lý khi chấp nhận nghĩa vụ vay nợ do một bên vợ chồng thực hiện.

Để tìm được hướng xử lý cho vấn đề này, trước hết chúng ta cần làm rõ cơ chế và hệ quả pháp lý từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

2. Quy định của pháp luật về hệ quả pháp lý từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014 hiện nay ghi nhận vợ, chồng có quyền tự thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng trong chế độ tài sản luật định được xác định theo Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014, gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng (trừ trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân); các khoản thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung; tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; ngoài ra, tài sản mà vợ chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng khi có tranh chấp, cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung, phù hợp với nguyên tắc tự do thỏa thuận trong quan hệ dân sự. Về mặt hình thức, thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp vợ, chồng yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì việc phân chia sẽ được áp dụng theo nguyên tắc giải quyết chia tài sản khi ly hôn.

Về hệ quả, sự kiện chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại này sẽ kéo theo cơ chế xác định tài sản chung của vợ chồng có một số thay đổi so với Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. Cụ thể, nếu không có sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng8. Tuy nhiên, nếu vợ, chồng thực hiện việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì kể từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, hệ quả pháp lý phải được xác định dựa trên quy định tại Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ. Theo đó, phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng (trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác). Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu phát sinh tài sản từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó sẽ được coi là thuộc sở hữu chung của vợ chồng9.

Lưu ý rằng, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản đã được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba, và việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật định.

3. Vướng mắc gặp phải và hướng xử lý tại các ngân hàng

Như trên đã đề cập, hệ quả rõ nhất sau khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là căn cứ xác định tài sản chung - riêng sẽ có những thay đổi. Tuy nhiên trong hoạt động đánh giá khả năng tài chính để trả nợ của khách hàng, việc áp dụng quy định này đang gặp phải một số vướng mắc, bất cập. Cụ thể:

Thứ nhất, vướng mắc trong việc xác định thu nhập do lao động và các nguồn thu nhập hợp pháp khác của khách hàng (có được sau thời điểm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân) có phải là nguồn tài chính để trả nợ hay không?

Vấn đề này được thể hiện qua tình huống sau: Ông A và bà B là vợ chồng theo Giấy Chứng nhận kết hôn năm 2020 (không áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận). Năm 2023, bà B muốn sử dụng tài sản riêng của mình để thế chấp vay vốn ngân hàng, với mục đích sửa chữa nhà cho bố mẹ ruột của bà B. Đối với khoản vay tại ngân hàng, ông A và bà B thống nhất đây là khoản vay riêng của bà B và bà B sẽ tự trả bằng nguồn thu nhập của bà. Ông A không có nghĩa vụ chung cũng như trách nhiệm liên đới đến khoản vay này của bà B. Tuy nhiên, khi bà B liên hệ ngân hàng X để vay vốn, yêu cầu vay của bà B không được chấp nhận bởi ngân hàng xác định thu nhập của bà B sử dụng để trả nợ cho ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B theo quy định tại Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. Do đó, việc vay vốn và nghĩa vụ trả nợ phải do cả hai vợ chồng ông A, bà B cùng thực hiện.

Sau đó, bà B liên hệ với một ngân hàng khác thì được hướng dẫn, yêu cầu ông A, bà B lập một văn bản thỏa thuận, trong đó xác định kể từ thời điểm lập văn bản, tất cả các nguồn thu nhập của bà B (có trước và sau khi chia) là tài sản riêng của bà B, bà B được toàn quyền sử dụng. Ngân hàng yêu cầu ông A, bà B thực hiện công chứng, chứng thực văn bản thỏa thuận này.

Tuy nhiên khi ông A, bà B thực hiện công chứng văn bản này thì tổ chức hành nghề công chứng thứ nhất không đồng ý vì các nguồn thu nhập chưa hình thành ở thời điểm phân chia nên không có căn cứ để phân chia. Ngược lại, tổ chức hành nghề công chứng thứ hai lại đồng ý công chứng vì xác định thỏa thuận giữa ông A và bà B là thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 38 Luật HNGĐ và phù hợp điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, hai bên có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; việc xác lập là hoàn toàn tự nguyện; mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Đây là tình huống gặp phải ở rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng, các tổ chức hành nghề công chứng và mỗi đơn vị, tổ chức lại có cách ứng xử khác nhau như trên đã đề cập.

Về mặt pháp lý, nếu đối chiếu với các quy định hiện hành thì pháp luật về HNGĐ dường như chưa có câu trả lời cụ thể cho vấn đề này. Khoản 1Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014 và Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP dường như “quên nhắc đến thu nhập từ lao động và các nguồn thu nhập hợp pháp khác”10. Trong khi đó, hệ quả pháp lý đối với phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng thì đã được minh thị là tài sản riêng của vợ, chồng. Điều này dẫn đến thực tiễn có nhiều cặp vợ chồng khi tiến hành thỏa thuận phân chia tài sản, họ thỏa thuận luôn việc phân chia tài sản chung là tiền lương, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh… phát sinh sau khi thỏa thuận chia tài sản chung có hiệu lực sẽ là tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng như trường hợp vợ chồng ông A, bà B nêu trên.

Chính vì sự chưa rõ ràng trong quy định của pháp luật nên đã dẫn đến có nhiều quan điểm xử lý khác nhau như quan điểm của hai ngân hàng và các tổ chức hành nghề công chứng đã nêu.

Theo nhóm tác giả, tinh thần của Luật HNGĐ năm 2014 đang cho phép vợ chồng được quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng điều này không làm chấm dứt chế độ tài sản theo luật định, do đó bản chất các tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân không thể “thoát ly” khỏi Điều 33 Luật này (trừ trường hợp đã thuộc phạm trù điều chỉnh của Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014). Đây cũng là lý do trước đây khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ năm 200011 có quy định xác định “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng” nhưng đến Luật HNGĐ năm 2014 thì lại không còn quy định. Hay nói cách khác, việc thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không có tính chất như “chế độ tài sản theo thỏa thuận”, vợ chồng chỉ được quyền phân chia các tài sản đang có, còn tài sản chưa hình thành, chưa hiện hữu thì không được phân chia.

Tuy nhiên như đã phân tích, sự không rõ ràng trong quy định về hệ quả pháp lý đối với thu nhập do lao động và các nguồn thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã dẫn đến nhiều cách hiểu trong thực tiễn áp dụng. Mẫu văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại các tổ chức hành nghề công chứng cũng rất tùy nghi, phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người đứng đầu tổ chức hành nghề công chứng. Thậm chí có nhiều mẫu văn bản còn ghi sẵn ở phần các thỏa thuận khác là “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”12. Vậy rõ ràng đây là điểm bất cập mà pháp luật HNGĐ cần được sửa đổi, bổ sung để làm rõ.

Thứ hai, vợ chồng có thỏa thuận xác lập văn bản cam kết tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, thì có áp dụng quy định về hệ quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân?

Câu hỏi này đặt ra bởi thực tiễn hiện nay có rất nhiều trường hợp vợ, chồng không tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng lại có một thỏa thuận với tên gọi văn bản cam kết tài sản riêng do hai vợ chồng xác lập; hoặc văn bản xác nhận tài sản riêng do một người lập (cho người còn lại)13 … với mục đích là thỏa thuận một tài sản nào đó (được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân14) là tài sản riêng. Đặc biệt liên quan đến tài sản là bất động sản thì những văn bản như vừa nêu càng xuất hiện phổ biến15.

Theo tìm hiểu của nhóm tác giả, tại nhiều ngân hàng, hồ sơ cho vay/nhận bảo đảm liên quan đến tài sản được xác nhận là tài sản riêng bằng hình thức thỏa thuận như trên cũng không phải là hiếm gặp. Tuy nhiên, hiện nay, Luật HNGĐ năm 2014 chưa có cơ chế pháp lý ghi nhận việc vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được thỏa thuận một tài sản nào đó là của riêng. Vậy, hệ quả của các thỏa thuận cam kết tài sản riêng này có tương tự như hệ quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hay không?

Theo nhóm tác giả, hình thức văn bản cam kết/xác nhận tài sản (hình thành trong thời kỳ hôn nhân) là tài sản riêng không thể hiện đúng bản chất “phân chia” theo thỏa thuận của vợ chồng như quy định tại Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014. Nếu thỏa thuận đó hàm chứa việc chuyển phần quyền sở hữu/quyền sử dụng của người này sang người khác (của vợ sang chồng hay ngược lại) mà không có đền bù thì đó là hợp đồng tặng cho; còn nếu có đền bù thì là hợp đồng mua bán/chuyển nhượng16. Hiện nay quy định về quyền được xác nhận một tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của một bên chồng/vợ vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ, do đó, hệ quả của văn bản cam kết tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân không thể áp dụng theo Điều 40 Luật HNGĐ năm 2014.

Tuy nhiên, dưới góc độ phát triển kinh tế, một số ngân hàng vẫn chấp nhận và xử lý hồ sơ có liên quan đến văn bản thỏa thuận/cam kết tài sản riêng này. Điều này tiềm ẩn rủi ro bởi việc “không có cơ sở pháp lý để đáp ứng yêu cầu của vợ chồng về việc công chứng thỏa thuận coi tài sản nào đó là tài sản riêng”17 vẫn là trở ngại lớn, có thể gây thiệt hại cho ngân hàng hay các bên thứ ba tham gia giao dịch với vợ, chồng. Cụ thể là, nếu không có cơ sở pháp lý, thỏa thuận/cam kết tài sản riêng này có thể bị tuyên bố vô hiệu khi các bên có tranh chấp dẫn đến khoản vay và/hoặc giao dịch bảo đảm bị ảnh hưởng hiệu lực (vô hiệu toàn bộ/một phần tùy thuộc vào hồ sơ thực tế và quan điểm của cơ quan giải quyết tranh chấp). Qua tìm hiểu của nhóm tác giả, mỗi ngân hàng tùy vào quan điểm và khả năng nhận diện rủi ro khác nhau sẽ có các biện pháp giảm thiểu rủi ro khác nhau, điển hình như: Yêu cầu văn bản phải được lập dưới hình thức thỏa thuận có chữ ký của hai vợ chồng; nội dung văn bản thể hiện tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân này là tài sản riêng, bất kể nguồn gốc tài sản; hoặc văn bản thỏa thuận/cam kết phải được công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch/chứng thực chữ ký; hoặc yêu cầu văn bản thỏa thuận được đăng ký biến động đất đai (đối với tài sản là bất động sản) sau khi vợ chồng xác lập thỏa thuận.

Tuy nhiên, đây vẫn là những biện pháp riêng của từng đơn vị, và với những yêu cầu không thống nhất từ các ngân hàng, phụ thuộc vào ý chí và quan điểm của từng ngân hàng khác nhau có thể tiềm ẩn những yêu cầu không phù hợp đối với khách hàng hoặc trái với quan điểm, nhận định của cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều này sẽ gây khó khăn, hạn chế quyền tiếp cận vốn vay và thế chấp tài sản, đồng thời tiềm ẩn rủi ro cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng khi cho vay, nhận thế chấp.

4. Kết luận và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Việc người đang có vợ, có chồng muốn tự mình xác lập khoản vay, giảm thiểu rủi ro về tài chính cho kinh tế gia đình là nhu cầu rất phổ biến trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên nếu không áp dụng chế độ tài sản thỏa thuận từ trước, thì pháp luật hiện hành chỉ dừng lại ở quy định cho phép vợ chồng thỏa thuận chia những tài sản đã có, còn những tài sản hình thành trong tương lai thì không (trừ trường hợp đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sau khi chia). Điều này đặt ra bất cập bởi vì đa phần các cặp vợ chồng tại Việt Nam hiện nay vẫn đang áp dụng chế độ tài sản theo luật định (chế độ tài sản theo thỏa thuận không được ghi nhận trước ngày 01/01/2015 và theo một số khảo sát thì cho đến giữa năm 2021, chưa có thỏa thuận nào về quan hệ tài sản của vợ chồng được công chứng18). Bên cạnh đó, việc phân chia nguồn thu nhập do lao động không chỉ có ý nghĩa đối với vợ chồng mà còn có ý nghĩa với bên thứ ba như ngân hàng, các tổ chức tín dụng khi cho một bên vợ hoặc chồng vay vốn. Đặt dưới góc nhìn khoa học pháp lý, cũng đã có nhiều bài viết, phân tích từ các chuyên gia về sự cần thiết minh thị trong hệ quả pháp lý khi vợ, chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân19. Tổng hợp các lý do trên, cùng những vướng mắc đặc thù gặp phải tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khi các đơn vị này đang phải chấp nhận rủi ro trong quá trình hoạt động, nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cần bổ sung hướng dẫn, xác định hệ quả pháp lý sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đối với các khoản thu nhập do lao động, thu nhập hợp pháp khác. Cụ thể, để phù hợp với thực tiễn, tại thời điểm vợ chồng tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì nội dung văn bản thỏa thuận hoặc quyết định của Tòa án phải xác định rõ ý chí của vợ, chồng đối với các khoản thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác. Trường hợp vợ, chồng không thể hiện ý chí, hoặc thỏa thuận không rõ ràng, thì mới xác định đây là tài sản chung của vợ chồng. Luật HNGĐ năm 2014 cho phép các bên được phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dựa trên cơ chế tôn trọng quyền tự quyết của vợ chồng. Nếu nội dung này trong văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì sẽ có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 201520. Điều này sẽ tạo cơ hội cho vợ, chồng trong quá trình thực hiện quyền đối với tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được trọn vẹn, tránh tình trạng phải phân chia nhiều lần không cần thiết, gây lãng phí thời gian, công sức và các ngân hàng/tổ chức tín dụng khi cho vay, nhận thế chấp có thêm căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền lợi khi có tranh chấp phát sinh liên quan.

Vì vậy, quy định tại Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, nhóm tác giả kiến nghị, bổ sung như sau: “Vợ, chồng có quyền thỏa thuận về thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và các khoản thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Trường hợp không có thỏa thuận, hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và các khoản thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật này”.

Thứ hai, pháp luật HNGĐ cần ghi nhận và hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân đối với chế độ tài sản theo luật định. Bởi lẽ, việc “dựa” theo Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014 để đưa ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro tại các ngân hàng vẫn tiềm ẩn rủi ro. Vậy nếu bản chất của thỏa thuận xác nhận tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật khác có liên quan; không trái với các nguyên tắc chung về tài sản (quy định từ Điều 29 đến Điều 32 Luật HNGĐ năm 2014); nội dung của thỏa thuận không nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ, vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình thì thỏa thuận đó cần được ghi nhận. Ngược lại, nếu vi phạm các điều trên thì thỏa thuận có thể bị tuyên vô hiệu. Quy định này phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại khi con người có quyền sở hữu riêng về tài sản và nhiều quốc gia cũng ghi nhận tương tự về vấn đề này21.

Thứ ba, trong công tác thực thi pháp luật, cần phổ rộng và cập nhật, thống nhất cách xử lý cho các bên liên quan như tổ chức hành nghề công chứng, ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc tôn trọng quyền được thỏa thuận chia tài sản của vợ, chồng nói chung và phân chia nguồn thu nhập nói riêng. Cần tránh tình trạng mỗi ngân hàng, tổ chức lại có một cách hiểu và chấp nhận rủi ro khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không có sự thống nhất, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các đơn vị, tổ chức khi thực thi các quy định pháp luật. Đồng thời, cần khắc phục tình trạng các ngân hàng, tổ chức hành nghề công chứng đưa ra những mẫu văn bản thỏa thuận không thống nhất, không thể hiện đúng tinh thần pháp luật cũng như ý chí của người xác lập văn bản làm ảnh hưởng quyền và lợi ích chính đáng của khách hàng, người dân khi thực hiện các thủ tục có liên quan.y

1 Điều 7 và Điều 22 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.

2 Xác định theo khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HNGĐ.

3 Điều 18 Luật HNGĐ năm 1986, Điều 29 Luật HNGĐ năm 2000, Điều 38 Luật HNGĐ năm 2014.

4 Đặng Lê Phương Uyên (2019). “Hậu quả về quan hệ tài sản của vợ chồng khi chia tài sản chung”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, truy cập ngày 21/11/2024, https://www.tapchitoaan.vn/hau-qua-ve-quan-he-tai-san-cua-vo-chong-khi-chia-tai-san-chung

5 Điều 45 Luật HNGĐ năm 2014.

6 Khoản 3 Điều 45 Luật HNGĐ năm 2014.

7 Điều 213 BLDS năm 2015, Điều 29 Luật HNGĐ năm 2014.

8 Khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014. Ngoài ra, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung, tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, tài sản mà không có căn cứ để chứng minh là tài sản riêng thì cũng là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng (trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng).

9 Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ.

10 Nguyễn Ngọc Điện (2021). Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình - Quan hệ tài sản vợ chồng, thừa kế (tập 2), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 87.

11 Có hiệu lực từ ngày 18/10/2001 đến ngày 15/02/2015.

12 https://lawnet.vn/hopdong/mau-van-ban-thoa-thuan-phan-chia-tai-san-chung-trong-thoi-ky-hon-nhan-195.html; hoặc https://luatduyhung.com/thoa-thuan-phan-chia-tai-san-chung-trong-hon-nhan/, truy cập ngày 23/02/2025.

13 Nguyễn Huy Cường (2020). “Thực tiễn công chứng văn bản xác nhận tài sản riêng của vợ, chồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11/2020, tr. 53.

14 Những tài sản này không phải là tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân (Khoản 1 Điều 43 Luật HNGĐ năm 2014); cũng không phải là tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng (Khoản 2 Điều 43 Luật HNGĐ năm 2014).

15 Xem thêm: Đào Duy An (2021), “Một số vấn đề lưu ý khi chứng nhận giao dịch xác lập tài sản riêng của vợ chồng”, Thực hiện pháp luật về công chứng, chuyên đề số 2, https://daoduyan.com/2022/07/motso-van-de-luu-y-khi-chung-nhan-giao-dich-xac-laptai-san-rieng-cua-vo-chong/, truy cập ngày 30/06/2025.

16 Đỗ Văn Đại, Nguyễn Phương Ân (2024), Chuyên đề 26: Thỏa thuận chia bất động sản chung của vợ chồng, Sách chuyên khảo: “Giao dịch dân sự về bất động sản” (tập 2) do GS., TS. Đỗ Văn Đại chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, 2024, tr. 288.

17 Nguyễn Ngọc Điện, sđd (7), tr. 102.

18 Nguyễn Ngọc Điện, sđd (7), tr. 56.

19 Nguyễn Phương Lan (2023). Một số vấn đề phát sinh từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tạp chí Kiểm sát, truy cập ngày 28/02/2025, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/mot-so-van-de-phat-sinh-tu-viec-chia-tai-san-chung-d10-t12434.html

20 Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

21 Điều 1065 Bộ luật Dân sự Trung Quốc năm 2020: “Nam và nữ có thể thỏa thuận rằng tài sản trước hôn nhân của họ và tài sản mà họ có được trong thời kỳ hôn nhân của họ có thể thuộc sở hữu riêng hoặc chung, hoặc sở hữu riêng một phần và sở hữu chung một phần. Thỏa thuận sẽ được lập thành văn bản...”.

Tài liệu tham khảo:

1. Đỗ Văn Đại, Nguyễn Phương Ân (2024). Chuyên đề 26: Thỏa thuận chia bất động sản chung của vợ chồng,

Sách chuyên khảo: “Giao dịch dân sự về bất động sản” (tập 2) do GS., TS. Đỗ Văn Đại chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Đặng Lê Phương Uyên (2019). “Hậu quả về quan hệ tài sản của vợ chồng khi chia tài sản chung”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, truy cập ngày 21/11/2024, https://www.tapchitoaan.vn/hau-qua-ve-quan-he-tai-san-cua-vo-chong-khi-chia-tai-san-chung

3. Nguyễn Huy Cường (2020). “Thực tiễn công chứng văn bản xác nhận tài sản riêng của vợ, chồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11/2020.

4. Nguyễn Ngọc Điện (2021). Giáo trình Luật HNGĐ - Quan hệ tài sản vợ chồng, thừa kế (tập 2), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Nguyễn Phương Lan (2023). “Một số vấn đề phát sinh từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Kiểm sát, truy cập ngày 28/02/2025, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/mot-so-van-de-phat-sinh-tu-viec-chia-tai-san-chung-d10-t12434.html

6. Đào Duy An (2021), “Một số vấn đề lưu ý khi chứng nhận giao dịch xác lập tài sản riêng của vợ chồng”, Thực hiện pháp luật về công chứng, chuyên đề số 2, truy cập ngày 30/6/2025, https://daoduyan.com/2022/ 07/motso-van-de-luu-y-khi-chung-nhan-giao-dich-xac-laptai-san-rieng-cua-vo-chong/

ThS. Nguyễn Phương Ân *; Luật sư Trần Bá Bình **
* Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; ** Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh

Tin bài khác

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1560/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới.
Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Phát biểu khai mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 12 - khóa XIII

Sáng 18/7/2025, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 12) đã khai mạc trọng thể. Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì và phát biểu khai mạc Hội nghị. Tạp chí Ngân hàng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai tại các tổ chức tín dụng

Trong những năm gần đây, chế định pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ngày càng được các cơ quan có thẩm quyền chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này vẫn chưa thực sự đầy đủ và còn những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng, bởi đây là một loại tài sản mang tính chất đặc thù và tiềm ẩn nhiều rủi ro so với các loại tài sản hiện hữu. Vì vậy, cần có cơ chế rõ ràng, hướng dẫn cụ thể để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, giảm thiểu những rủi ro cho các TCTD trong việc nhận thế chấp loại hình tài sản này.
Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát - Bước ngoặt chiến lược thúc đẩy Fintech và chuyển đổi số ngành Ngân hàng

Ngày 29/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2025/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là Nghị định đầu tiên tại Việt Nam thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình, dịch vụ tài chính mới ứng dụng công nghệ, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình thể chế hóa đổi mới sáng tạo tài chính tại Việt Nam. Không chỉ góp phần hiện thực hóa chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và chuyển đổi số ngành Ngân hàng, Nghị định này còn tạo ra các tác động sâu rộng đối với cả hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Xem thêm
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý, xử lý tài sản bảo đảm ngân hàng bằng tài sản số, tín chỉ các-bon và bài học cho Việt Nam

Trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, tài sản bảo đảm được hiểu là tài sản do bên vay cung cấp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay. Tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng cho tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Việc yêu cầu tài sản bảo đảm không chỉ là một biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng