Thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Tháp

Bài viết khoa học chuyên sâu
Là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp có nhiều tiềm năng, lợi thế trong phát triển nông nghiệp. Do vậy, đa phần các nguồn thu nhập của hộ gia đình địa phương được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, thời gian gần đây, do tình trạng đất canh tác bị bạc màu và các yếu tố bất lợi từ điều kiện tự nhiên, thị trường tiêu thụ không ổn định, cũng như hạn chế về nguồn lực sản xuất; các hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã và đang xây dựng chiến lược sinh kế theo hướng đa dạng hóa các nguồn thu nhập cả lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.
aa

Tóm tắt: Đa dạng hóa thu nhập không những giúp hộ gia đình nâng cao mức sống mà còn là cơ sở giúp các nhà hoạch định chính sách ra quyết định trong công cuộc giảm nghèo và hướng đến phát triển bền vững. Nghiên cứu này sử dụng chỉ số đa dạng Simpson (Simpsons index of diversity - SID) để kiểm định mức độ đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp, thời điểm trước sáp nhập địa giới đơn vị hành chính tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Tiền Giang. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp 399 hộ gia đình trong tháng 6/2025. Kết quả nghiên cứu cho thấy thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình ở tỉnh Đồng Tháp còn thấp (49,12 triệu đồng/năm) và mức độ đa dạng hóa thu nhập cũng rất thấp với chỉ số SID là 0,26. Qua đó, nghiên cứu đưa ra các hàm ý chính sách nhằm đa dạng hóa sinh kế và nâng cao thu nhập của hộ gia đình ở tỉnh Đồng Tháp.

Từ khóa: Chỉ số SID, đa dạng hóa thu nhập, thu nhập hộ gia đình.

INCOME AND INCOME DIVERSIFICATION OF HOUSEHOLD: A CASE STUDY OF DONG THAP PROVINCE

Abstract: Income diversification not only helps households improve their living standards but also serves as a basis for policy makers to make decisions in poverty reduction and towards sustainable development. In this study, the Simpson's index of diversity (SID) is used to examine the level of income diversification of households in Dong Thap province - the period prior to the administrative boundary merger between Dong Thap and Tien Giang provinces. Data were collected through direct interviews with 399 households in June 2025. The research results show that the average income per capita of households remains low (49.12 million VND/year) and income diversification is also limited with SID of 0,26. Thereby, the study provides policy implications to diversify livelihoods and increase household income in Dong Thap province.

Keywords: Simpsons index of diversity, diversification of income, household income.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

1. Giới thiệu

Là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp có nhiều tiềm năng, lợi thế trong phát triển nông nghiệp. Do vậy, đa phần các nguồn thu nhập của hộ gia đình địa phương được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, thời gian gần đây, do tình trạng đất canh tác bị bạc màu và các yếu tố bất lợi từ điều kiện tự nhiên, thị trường tiêu thụ không ổn định, cũng như hạn chế về nguồn lực sản xuất; các hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã và đang xây dựng chiến lược sinh kế theo hướng đa dạng hóa các nguồn thu nhập cả lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.

Bên cạnh đó, tỉ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm khá cao nhưng thu nhập của nhóm này lại thấp hơn so với những ngành, nghề khác. Điều này là do tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, thiếu kỹ năng nghề khiến người lao động khó tiếp cận việc làm chất lượng cao, chủ yếu làm việc phổ thông, thu nhập bấp bênh. Lao động làm việc phi chính thức cao (không có hợp đồng, không bảo hiểm), dẫn đến thu nhập không ổn định và thấp. Hoạt động kinh tế trên địa bàn tỉnh tiếp tục chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài như suy thoái kinh tế toàn cầu, bất ổn chính trị và thay đổi chính sách thương mại quốc tế, đặc biệt là chính sách thuế quan của Mỹ, làm gia tăng chi phí sản xuất và ảnh hưởng đến tiêu dùng, xuất khẩu. Theo đó, ngành nông nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, giá cả một số mặt hàng chủ lực như lúa, trái cây và sen có xu hướng giảm, ảnh hưởng đến thu nhập người dân. Sản xuất công nghiệp và xuất khẩu chịu nhiều áp lực từ thị trường, chi phí nguyên vật liệu tăng, chính sách thuế quan quốc tế bất ổn; công nghiệp chế biến tập trung vào sản phẩm truyền thống (cá tra đông lạnh, xay xát gạo), thiếu đầu tư vào chế biến sâu để nâng giá trị gia tăng... Do đó, đa dạng hóa thu nhập được xem là chiến lược gia tăng thu nhập có hiệu quả cho các hộ gia đình nhằm giảm thiểu những rủi ro, bất lợi từ điều kiện tự nhiên, sự biến động của giá cả thị trường.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, tỉnh Đồng Tháp rất quan tâm đến vấn đề nâng cao thu nhập cho người dân; tỉnh đã không ngừng đầu tư cơ sở vật chất, hệ thống hạ tầng giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Tháp phát triển ổn định và khởi sắc trên nhiều lĩnh vực. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tỉnh Đồng Tháp 6 tháng đầu năm 2025 (thời điểm trước sáp nhập địa giới đơn vị hành chính tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Tiền Giang) đạt 33.399 tỉ đồng, tăng 6,98% so với cùng kỳ năm 2024 (tăng 2.179 tỉ đồng), bằng 45,5% so với kế hoạch năm. Các khu vực kinh tế đều tăng trưởng khá tốt, trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,49%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,79%; khu vực thương mại và dịch vụ (kể cả thuế) tăng 8,47% (Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, 2025).

2. Tổng quan nghiên cứu

2.1. Cơ sở lý thuyết

Đa dạng hóa thu nhập là thuật ngữ thường được sử dụng để mô tả trường hợp nông hộ phân phối nguồn lực của họ cho các hoạt động khác nhau. Theo Barrett và Reardon (2001), đa dạng hóa được hiểu phổ biến như là một hình thức tự bảo đảm thu nhập trên cơ sở lựa chọn các hoạt động ít có sự biến động ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập. Theo Ellis (2000), đa dạng hóa thu nhập là một quá trình sử dụng đa dạng nguồn lực cho các hoạt động khác nhau nhằm mục đích cải thiện điều kiện sống của hộ gia đình. Trong nghiên cứu này, đa dạng hóa thu nhập được xem là quá trình mà hộ gia đình quyết định tham gia thực hiện các hoạt động khác nhau nhằm mục đích gia tăng số lượng các nguồn thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp trong tổng thu nhập của hộ (Ellis, 1998). Những hộ gia đình có thu nhập ngoài nguồn thu nhập chính mang lại từ các hoạt động nông nghiệp được xem là hộ đa dạng hóa thu nhập. Ngược lại, hộ gia đình chỉ có thu nhập từ nông nghiệp được xem là không đa dạng hóa thu nhập.

Một số nghiên cứu điển hình về thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình đã được thực hiện nhằm chỉ ra thực trạng đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình. Thu nhập tính theo bình quân đầu người/năm là tổng các nguồn thu nhập của hộ/năm chia đều cho các thành viên trong gia đình (United Nations, 2007; Đinh Phi Hổ và Hoàng Thị Thu Huyên, 2010). Thu nhập có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định mức sống của người dân. Mức sống dân cư cao hay thấp, sự phân hóa giàu nghèo, chênh lệch giữa hộ nghèo và hộ giàu phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, nhưng quan trọng nhất vẫn là mức thu nhập của mỗi hộ gia đình. Thu nhập được xem là nhân tố quyết định quy mô và cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình. Hay nói cách khác, thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định (thường là một năm), bao gồm thu từ tiền công, tiền lương; thu từ hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh phi nông, lâm nghiệp và thủy sản và thu khác được tính vào thu nhập.

Một số chỉ số được sử dụng để đo lường đa dạng hóa thu nhập như NIS (số lượng các nguồn thu), chỉ số SID, chỉ số NFS (tỉ lệ thu nhập phi nông nghiệp), trong đó SID được sử dụng khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu (Huỳnh Ngọc Chương và cộng sự, 2021; Đàm Thị Thu Trang, 2023).

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

Cỡ mẫu phỏng vấn được áp dụng theo công thức Yamane (1967): n = N / (1 + N.e2)

Trong đó: n là số mẫu cần phỏng vấn, N là tổng thể của đối tượng được phỏng vấn, e là sai số cho phép với độ tin cậy 95%.

Theo số liệu của Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2024, tổng dân số của ba đơn vị hành chính được khảo sát là thành phố Cao Lãnh là 165.946 người, huyện Tháp Mười là 133.394 người, huyện Lấp Vò là 177.851 người, do đó cỡ mẫu đạt yêu cầu được xác định theo công thức Yamane vào khoảng 399 quan sát. Số liệu được thu thập trong tháng 6/2025 từ các hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp thời điểm trước sáp nhập địa giới đơn vị hành chính tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Tiền Giang thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng phương pháp phi ngẫu nhiên thuận tiện với bảng câu hỏi cấu trúc.

Ngoài ra, còn thu thập thông tin thứ cấp từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm báo cáo, số liệu của các cơ quan thống kê; các nghiên cứu trong và ngoài nước để phục vụ cho nghiên cứu. Các thông tin đã thu thập được tổng hợp, tính toán và phân tích bằng phần mềm Excel và SPSS 26.0.

2.2.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

Nghiên cứu sử dụng chỉ số SID được sử dụng phổ biến trong nhiều nghiên cứu trước đó để đo lường tính đa dạng hóa thu nhập hộ gia đình (Huỳnh Ngọc Chương và cộng sự, 2021; Đàm Thị Thu Trang, 2023) với công thức được xác định như sau:

Thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Tháp

Chỉ số SID dao động từ 0 đến 1, khi hộ gia đình chỉ tham gia một hoạt động SID = 0 và khi số hoạt động tăng tỉ trọng Pi sẽ giảm xuống và chỉ số SID sẽ tiến về 1. Mức độ đa dạng hóa thu nhập dựa vào chỉ số SID được đánh giá: Không đa dạng (từ 0 - 0,25), ít đa dạng (từ 0,26 - 0,50), đa dạng (từ 0,51 - 0,75), rất đa dạng ( > 0,75). Các nguồn thu nhập của hộ gia đình được khảo sát trong nghiên cứu bao gồm: Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản) và phi nông nghiệp (kinh doanh, làm thuê…).

3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

3.1. Đặc điểm của mẫu khảo sát

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn của các hộ gia đình tương đối thấp, chỉ có 30 hộ có trình độ sơ cấp, trung cấp chiếm tỉ trọng 7,5%; còn lại là 139 hộ có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỉ trọng 34,8%. Có đến 57,7 người có trình độ văn hóa từ lớp 12 trở xuống; trong đó có 2,3% chưa tốt nghiệp, không đi học; 29,1 có trình độ tiểu học, trung học cơ sở và 26,3% có trình độ trung học phổ thông, điều này có thể ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận thông tin và tìm kiếm các nguồn thu nhập của hộ. Độ tuổi chủ hộ tập trung trong khoảng 41 - 50 tuổi là 32,6% và trên 50 tuổi là 42,4%, ở độ tuổi này các chủ hộ vẫn còn đủ sức khỏe để tiếp tục tham gia các hoạt động sản xuất nhằm mang lại nguồn thu nhập đa dạng. Về cơ cấu nghề nghiệp, các hộ gia đình hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm 68,4% (Bảng 1).

Bảng 1: Thông tin chung về đối tượng khảo sát

Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

Giới tính chủ hộ là một trong những yếu tố có ảnh hưởng nhất định đến quyết định loại hình sản xuất, kinh doanh trong gia đình với tỉ lệ chiếm 74,7% chủ hộ là nam giới, điều này phù hợp vì theo truyền thống nam giới thường là người đủ kinh nghiệm để quyết định các vấn đề trong gia đình hay các vấn đề liên quan đến thu nhập, định hướng hoặc có thể quyết định loại hình sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, quy mô hộ cũng phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, dân số và kinh tế, góp phần không nhỏ vào sự đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình. Bảng 2 cho thấy, mỗi hộ có trung bình 2 - 4 thành viên. Số hộ có 4 thành viên trở lên chiếm tỉ lệ 31,8% số hộ được khảo sát (tương đương 125/399 hộ khảo sát). Đây là điều kiện thuận lợi cho phép hộ gia đình tham gia nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh và đa dạng hóa nguồn thu nhập. Điều đó cho thấy, hộ càng có nhiều thành viên thì khả năng đa dạng hóa thu nhập của hộ càng cao.

Bảng 2: Quy mô hộ gia đình được khảo sát tại tỉnh Đồng Tháp

Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

Theo kết quả tại Bảng 3 cho thấy, có 216 hộ có 2 lao động chiếm tỉ lệ cao nhất với 54,1%, số hộ có 3 lao động (94 hộ) chiếm 23,6% và số hộ có 4 lao động là (56 hộ) chiếm 14,0%; có 33 hộ chỉ có một hoặc không thành viên lao động chiếm 8,3%. Điều này gây trở ngại rất lớn đến việc tạo thu nhập của hộ gia đình, những hộ có hoàn cảnh neo đơn này cần có một hướng phát triển khác riêng biệt so với những hộ còn lại.

Bảng 3: Số lao động của hộ gia đình được khảo sát tại tỉnh Đồng Tháp

Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

3.2. Cơ cấu nguồn thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp

Bảng 4 mô tả tổng thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp. Theo đó, có thể thấy, số hộ có thu nhập trên 150 triệu đồng/năm chiếm tỉ trọng cao nhất với 54,4% (217/399 hộ được khảo sát).

Bảng 4: Tổng thu nhập của hộ gia đình được khảo sát tại tỉnh Đồng Tháp

Thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Tháp
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

Về mức độ đa dạng hóa thu nhập, có thể thấy, nhiều hộ gia đình đã cải thiện thu nhập bằng cách đa dạng hóa sang các lĩnh vực phi nông nghiệp như kinh doanh, buôn bán nhỏ, làm nhân viên bán hàng, làm các ngành nghề thủ công truyền thống... Một số hộ gia đình tranh thủ thời gian nông nhàn hoặc do không có ruộng đất thì đi làm thuê theo mùa vụ hoặc làm công nhân tại các khu công nghiệp, nhưng thu nhập từ nguồn này cũng không cao và nguồn thu này chiếm tỉ trọng thấp nhất. Do vậy, các hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp đang thực hiện tương đối đa dạng nguồn thu với nhiều hoạt động khác nhau từ nông nghiệp đến phi nông nghiệp. Trong đó, thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất với 72,8% và tỉ trọng thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp cũng có sự gia tăng, điều đó cho thấy có chuyển dịch cơ cấu thu nhập của hộ gia đình. Tuy nhiên, tỉ trọng các nguồn thu nhập từ phi nông nghiệp không đồng đều, mức độ phân bổ nguồn lực cho các hoạt động chênh lệch, đa số các hộ có một hoạt động chính bên cạnh một hay một vài hoạt động hỗ trợ. Điều này cho thấy tuy đa dạng nhưng hoạt động sản xuất của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp rất manh mún (Bảng 5).

Bảng 5: Cơ cấu nguồn thu nhập của hộ gia đình được khảo sát tại tỉnh Đồng Tháp

Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

3.3. Chỉ số đa dạng thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nguồn thu nhập khác từ hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và các hoạt động phi nông nghiệp như hoạt động kinh doanh, buôn bán hàng hóa hoặc dịch vụ là các nguồn thu thực tế trên địa bàn.

Bảng 6: Số lượng nguồn thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp

Thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Tháp
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

Bảng 6 cho thấy, trong 153 hộ có duy nhất một nguồn thu nhập thì thu nhập bình quân mỗi hộ là 49,3 triệu đồng/năm và đương nhiên có chỉ số đa dạng hóa SID là 0. Gần với kết quả đó nhóm hộ có 2 nguồn thu nhập (184 hộ) có mức thu nhập trung bình là 51,3 triệu đồng/năm và chỉ số đa dạng hóa trung bình của nhóm hộ này là 0,3. Kế đến là 57 hộ gia đình có 3 nguồn thu nhập trở lên với mức thu nhập trung bình là 60,7 triệu đồng/năm, cao hơn nhóm hộ có 2 nguồn thu nhập là 9,4 triệu đồng/năm với chỉ số đa dạng hóa thu nhập là 0,5. Hộ có 4 nguồn thu nhập trở lên lại không có hiệu quả thu nhập như nhóm có 2 đến 3 nguồn thu. Ngoài ra, các hộ chủ yếu là các hộ lớn tuổi, không tham gia bất cứ hoạt động nào để tạo thu nhập, họ sống nhờ hoàn toàn vào tiền trợ cấp cho người già hoặc tiền hưu trí, tiết kiệm…

Qua nghiên cứu cho thấy, giá trị trung bình của chỉ số SID là 0,26, với giá trị nhỏ nhất là 0 và lớn nhất là 0,73 (Bảng 7). Theo Huỳnh Ngọc Chương và cộng sự (2021), giá trị trung bình của SID dành cho nhóm hộ của Việt Nam là 0,95, điều này phản ảnh là mức độ đa dạng hóa thu nhập của các hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp ít đa dạng và 88,2% hộ gia đình chỉ có một hoặc hai nguồn tạo ra thu nhập (nhóm hộ không đa dạng và nhóm hộ ít đa dạng).

Bảng 7: Mức độ đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp

Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025
Nguồn: Khảo sát trực tiếp của tác giả, 2025

Mặc dù mức độ đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp có sự thay đổi theo hướng tích cực, tuy nhiên, do nguồn lực sản xuất của hộ gia đình còn nhiều hạn chế, do đa phần hộ gia đình ở nông thôn có trình độ học vấn thấp nên thu nhập tạo ra cũng không cao. Mặt khác, do cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch còn chậm, sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào thị trường, thiếu tính ổn định nên nên thu nhập của người dân từ sản xuất nông nghiệp thiếu tính bền vững.

4. Kết luận và hàm ý chính sách

4.1. Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình là 49,12 triệu đồng/năm, chỉ số SID trung bình là 0,26 ở mức độ ít đa dạng. Kết quả phân tích cũng cho thấy mức độ đa dạng hóa của các nhóm hộ là khác nhau và có một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ đa dạng hóa thu nhập như diện tích đất canh tác, tỉ lệ lao động trong hộ, trình độ học vấn, nghề nghiệp của chủ hộ... Những hộ gia đình thực hiện đa dạng hóa sẽ dẫn đến thu nhập của họ tăng thêm so với những hộ chưa đa dạng hoá; trong đó, thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp đóng vai trò quan trọng góp phần tăng thu nhập cho hộ gia đình tại tỉnh Đồng Tháp.

4.2. Hàm ý chính sách

Một là, tăng cường tuyên truyền vận động người dân nhất là các chủ hộ nâng cao trình độ học vấn, đồng thời giúp cho người lao động có khả năng lựa chọn nghề phù hợp với năng lực bản thân và đáp ứng nhu cầu xã hội. Thường xuyên mở các lớp cập nhật kiến thức. Mở rộng đào tạo nghề, đặc biệt là những nghề hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp. Để tạo điều kiện cho người lao động nông thôn tham gia học nghề, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ học phí, cấp học bổng cho người học, ưu tiên giới thiệu việc làm hay hỗ trợ vốn cho người lao động sản xuất, kinh doanh ngay sau khi học xong.

Hai là, có chính sách khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay với mục đích mở rộng sản xuất, kinh doanh. Thông tin đến người dân qua các kênh thông tin đại chúng về các gói vay hỗ trợ lãi suất thấp, nhằm tạo nguồn vốn tín dụng cho người dân để sản xuất, kinh doanh. Chú trọng tạo nguồn vốn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế để bảo đảm vốn cho phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là vốn sản xuất của hộ nông dân để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Ba là, chú trọng giải quyết việc làm cho những hộ ít hoặc không đất sản xuất. Thực hiện đào tạo nghề cho lực lượng lao động tại địa phương. Đồng thời, tăng cường công tác khuyến nông, xây dựng điểm mô hình thu nhập cao, phát triển các loại đặc sản, cây có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng của tỉnh Đồng Tháp.

Bốn là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên nông nghiệp. Đối với những hộ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, để tăng thu nhập thì cần tập trung tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tăng giá trị gia tăng trên các sản phẩm chủ lực của tỉnh. Đồng thời, đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế liên quan để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, cụ thể như: Thực hiện các công trình đê bao khép kín, chủ động tưới tiêu trong sản xuất; phát triển đồng bộ mạng lưới truyền tải điện gắn với các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung để tạo điều kiện đưa máy móc, thiết bị cơ giới vào phục vụ sản xuất; tiếp tục nâng cấp và phát triển mạng lưới chợ, hình thành chợ nông sản để giải quyết tốt đầu ra của sản phẩm; nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường liên xã, tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa, huy động tối đa mọi nguồn lực để thực hiện hoàn thành các tuyến đường liên ấp phục vụ tốt nhu cầu đi lại và giao thương của nhân dân.

Tài liệu tham khảo:

1. Cục Thống kê (2025), Niên giám thống kê năm 2024. Nxb. Thống kê, Hà Nội.

2 Chi cục Thống kê tỉnh Đồng Tháp (2025), Niên giám thống kê năm 2024. Nxb. Thống kê, Hà Nội.

3. Đàm Thị Thu Trang (2023), Tác động của đa dạng sinh kế đến thu nhập hộ gia đình ở Việt Nam: Kết quả từ mô hình hồi quy với biến công cụ. Tạp chí kinh tế và dự báo, 3, trang 16 - 19.

4. Đinh Phi Hổ, Hoàng Thị Thu Huyên (2010), Một số giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của nông hộ vùng Trung du ở tỉnh Phú Thọ. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 236, trang 26 - 30.

5. Huỳnh Ngọc Chương, Trần Thị Bảo Ngọc, Lê Hoàng Đạt, Nguyễn Thị Hải Yến (2021), Các yếu tố ảnh hưởng đến sự đa dạng hóa sinh kế của nông hộ ở Việt Nam, Tạp chí phát triển Khoa học và Công nghệ - Kinh tế - Luật và Quản lý, 6(1), trang 2073-2082.

6. Hứa Thị Phương Chi, Nguyễn Minh Đức (2016), Những nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hóa thu nhập của nông hộ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến, 4(3), trang 46 - 55.

7. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp (2025), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2025, số 330/BC-UBND, ngày 17/5/2025.

8. Barrett, C.B. & Reardon, T. (2001). Nonfarm income diversification and livelihood strategies in rural Africa: concepts, dynamics, and policy implication. Food Policy, 26(4), pages 315-331.

9. Ellis, F. (1998), Household strategies and rural livelihood diversification, The Journal of Development Studies, 35(1), pages 1-38.

10. Ellis, F. (2000), The determinants of rural livelihood diversification in developing countries, The Journal of Agricultural Economics, 51(2), pages 289 - 302.

11. Khai T. T., and Danh N. N. (2014), Determinants of income diversification and its effect on household income in rural Viet Nam, Journal of economic development, 221(7), pages 20 - 41.

12. United Nations (2007), The Wye Group Handbook: On Rural Household’s Livelihood and Well-Being: Statistics on Rural Development and Agriculture Household Income. New York and Geneva, United Nation.

Phạm Ngọc Hòa
Học viên cao học, Trường Đại học Đồng Tháp

Tin bài khác

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xanh tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xanh tại Việt Nam

Mặc dù ngân hàng xanh đã phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc thúc đẩy khách hàng tại Việt Nam sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xanh vẫn còn nhiều thách thức, người tiêu dùng Việt Nam có xu hướng thận trọng, chưa hoàn toàn quen thuộc với các sản phẩm tài chính - ngân hàng mang tính xanh và bền vững. Do đó, việc hiểu rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xanh là rất cần thiết, nhằm xây dựng chiến lược marketing và phát triển sản phẩm phù hợp, qua đó góp phần thúc đẩy ngân hàng xanh phát triển bền vững tại Việt Nam.
Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Gắn kết ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam: Bằng chứng thực nghiệm và hàm ý chính sách

Nghiên cứu này đã phân tích mối quan hệ giữa áp dụng ESG và hiệu quả tài chính trong ngành Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2017 - 2024. Kết quả cho thấy hiệu quả ESG tổng thể có mối liên hệ tích cực mạnh mẽ và ngày càng tăng cường với hiệu quả tài chính. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa ESG và hiệu quả tài chính gia tăng đáng kể theo thời gian, với bước ngoặt rõ rệt trong giai đoạn 2022 - 2024. Những phát hiện này đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu về ngân hàng bền vững tại các thị trường mới nổi Đông Nam Á và đưa ra những hàm ý thực tiễn có giá trị cho các bên liên quan trong ngành Ngân hàng Việt Nam. Khi Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu và cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, tầm quan trọng của các thực hành tài chính bền vững dự kiến sẽ ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Quản lý rủi ro thẻ tín dụng -  Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro thẻ tín dụng - Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Thẻ tín dụng ngày càng phổ biến khiến các ngân hàng thương mại đối mặt với rủi ro nợ xấu và kiểm soát chi tiêu. Bài viết phân tích kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học giúp NHTM Việt Nam xây dựng chính sách tín dụng an toàn và ứng dụng công nghệ kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển tín dụng xanh tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Tín dụng xanh là một trong những trụ cột quan trọng của hệ thống tài chính xanh. Thời gian qua, Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang thúc đẩy phát triển tín dụng xanh. Tuy được ghi nhận có sự tăng trưởng đều qua các năm nhưng số lượng lĩnh vực đầu tư xanh cũng như tỉ trọng còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, cần có nghiên cứu chuyên sâu về phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam.
Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Nhóm nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các nhân tố tác động đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 78 doanh nghiệp trong giai đoạn 2019 - 2023. Sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính trên phần mềm Stata 17, kết quả cho thấy các yếu tố như kiểm soát nội bộ, khả năng sinh lời, vốn trí tuệ, đòn bẩy tài chính và chất lượng kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, từ đó nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cụ thể giúp các doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý thông tin tài chính, đồng thời, cung cấp góc nhìn hữu ích dành cho các nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Ứng dụng mô hình hồi quy nhị phân trong việc dự đoán rủi ro phá sản của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

Phân tích báo cáo tài chính cung cấp thông tin rõ ràng về tình hình tài chính, vốn và công nợ của doanh nghiệp, giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều hành và đầu tư chính xác. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa các chỉ số tài chính của nhóm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản và nhóm doanh nghiệp không có nguy cơ phá sản. Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản thường có chỉ số tài chính không ổn định (quá cao hoặc quá thấp) so với các doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng