Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân.
aa

Vì thế, quay trở lại với các tư tưởng chính trực, đúng đắn và nhân văn được thực tế và lịch sử thừa nhận về quyền con người (QCN) của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính tất yếu khách quan. Tuy nhiên, thời đại ngày nay đã khác với những năm 50, 60 của thế kỷ XX nên những vấn đề mà người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đối mặt trong lĩnh vực phát triển kinh tế nhằm bảo đảm QCN cũng có nhiều vấn đề mới, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo và khoa học và phù hợp.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người
Nông dân xã Ái Quốc (Hải Hưng) báo cáo kết quả sản xuất với Bác Hồ (1958)

1. Trong lĩnh vực kinh tế, QCN được Hồ Chí Minh giải thích một cách giản dị, đó là làm cho dân được ấm no và giàu có. Để nhân dân Việt Nam được no cơm, ấm áo, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: phải phát triển sản xuất. Người nói: “Muốn xã hội giàu thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản xuất”. Muốn phát triển sản xuất, phải tiết kiệm để tích lũy vốn cho đầu tư phát triển, phải nắm vững và tích cực cải tiến công nghệ, phải áp dụng các hình thức tổ chức sản xuất tối ưu.

Dù theo chủ nghĩa nào thì phát triển kinh tế cũng là điều kiện vật chất để công dân cải thiện cuộc sống và vị thế trong xã hội. Thực tế cho thấy, ở các nước có chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, khi thu nhập đầu người khá cao, vượt qua nhiều mức thu nhập thỏa mãn nhu cầu tất yếu, chính phủ có thể tăng thu thuế để cung cấp nhiều loại phúc lợi xã hội cho dân cư, tức bảo đảm QCN một cách phổ biến. Một chính phủ không có nguồn lực tài chính thì khó có thể duy trì bộ máy quyền lực của mình, nói gì đến hỗ trợ công dân bằng phúc lợi xã hội. Chính vì thế, ưu tiên phát triển kinh tế, với tư cách điều kiện và nội dung quan trọng bảo đảm QCN, một trong những tư tưởng kiên định của Hồ Chí Minh cần được phát huy.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người
Bác Hồ về thăm Khu gang thép Thái Nguyên năm 1964

Trong giai đoạn đến 2030 và 2045, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao năng suất lao động để đạt được thu nhập cao trên cơ sở ứng dụng thành quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội, bảo đảm QCN. Đây là nhiệm vụ không hề dễ dàng, nhưng không phải bất khả thi. Trên thế giới đã có nhiều nước hoàn thành quá trình này trong 25 - 30 năm. Năm 2020 Việt Nam đã lỡ hẹn với mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cần tính toán các kế hoạch khả thi. Một trong những điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ này là đội ngũ lao động đáp ứng yêu cầu và quản lý nhà nước nhằm tạo môi trường thích ứng. Trong điều kiện đó, tư tưởng người lao động phải tự giác, tự chủ hoàn thành nhiệm vụ của mình, không dựa dẫm, ỷ lại vào xã hội, nhà nước và yêu cầu đối với cán bộ mà Hồ Chí Minh đề ra là vừa hồng, vừa chuyên phải được vận dụng thực chất và phù hợp với tình hình mới.

Phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập vào thị trường thế giới trong đó quyền chi phối còn nằm trong tay các nước tư bản lớn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mọi công dân phải linh hoạt ứng biến, một mặt, giống như khẳng định của Hồ Chí Minh, phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bởi chỉ có xã hội chủ nghĩa mới cho phép quảng đại người lao động có điều kiện vật chất và tinh thần làm chủ xã hội, làm chủ chính mình. Tuy nhiên, phải thoát khỏi tư tưởng nóng vội cho rằng có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp hành chính.

Phát triển kinh tế phải tuân theo quy luật là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó, phải phát huy mọi nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho từng người dân tự chủ quyết định trong điều kiện kinh tế thị trường bằng cách thừa nhận và đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, trong đó lấy cạnh tranh lành mạnh làm thuốc thử loại bỏ thành phần kinh tế có hiệu quả hoạt động thấp hơn các thành phần kinh tế khác. Không nên áp đặt cho thành phần nào đó vai trò kiểm soát nền kinh tế.

Mặt khác, cần tuân thủ pháp luật quốc tế, vì đó là điều kiện đầu tiên để Việt Nam có thể hội nhập, từ đó tăng khả năng, cơ hội và nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững, dù rằng pháp luật quốc tế chưa phải công bằng do sự kiểm soát của các nước tư bản chủ nghĩa. Ở đây nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đưa ra vẫn có giá trị định hướng, soi sáng cho chúng ta. Đó là, Việt Nam sẽ thiết lập quan hệ với tất cả các nước tôn trọng và đối xử thành thật với chúng ta. Mọi vấn đề lợi ích phải dựa trên nguyên tắc cùng có lợi và chủ quyền quốc gia.

2. Các tư tưởng về tự do, độc lập, bình đẳng giữa các dân tộc, trên cơ sở đó thiết lập thể chế để người dân lao động được quyền tự chủ trong các quyết định liên quan đến họ của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với Việt Nam trong giai đoạn đến 2030 và 2045. Tuy nhiên, vận dụng các tư tưởng đó vào thực tiễn cần phù hợp với thời đại và đặc thù Việt Nam thể hiện qua một số quan điểm sau đây:

Một là, Việt Nam ngày nay đã khác xa thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay Việt Nam không chỉ độc lập, thống nhất, mà còn trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng như có quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Vì thế, cách hiểu về độc lập, nhất là độc lập về kinh tế đã khác những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Độc lập kinh tế không phải là không phụ thuộc vào đầu tư, thương mại với nước khác. Độc lập về kinh tế thể hiện ở khía cạnh Việt Nam có tiếng nói trong xây dựng pháp luật quốc tế cũng như có cơ cấu kinh tế tiến bộ hiện đại, định vị vững vàng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Hai là, mặc dù xu hướng toàn cầu hóa đã định hình rõ nét, chi phối đời sống kinh tế của các nước trên thế giới, nhưng mâu thuẫn lợi ích giữa các nước theo nguyên tắc cạnh tranh vẫn tồn tại dai dẳng có thể dẫn đến các xung đột, chiến tranh. Việt Nam cần hòa bình để phát triển kinh tế nên chính sách đối ngoại phải hết sức tinh nhạy, mềm dẻo nhằm theo tinh thần của Hồ Chí Minh là: hợp tác với tất cả các nước tôn trọng độc lập và quan hệ trung thực với Việt Nam, nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho dân cư.

Ba là, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, vận động, cung cấp tri thức, kỹ năng để công dân Việt Nam có thể làm chủ theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nếu Việt Nam có đội ngũ lao động có kỹ năng, tri thức, thái độ lao động vượt trội so với các nước khác, có các doanh nghiệp được tổ chức tốt, có môi trường đáp ứng yêu cầu chi phí thấp cho đầu tư thì có thể hoàn thành công nghiệp hóa trong thời gian ngắn và tăng nhanh thu nhập cho dân cư, tăng thu ngân sách nhà nước và trụ vững trên thị trường thế giới.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế theo tinh thần của Hồ Chí Minh, đó là những người tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đi cùng với chính sách đãi ngộ thỏa đáng để họ tập trung cho công việc. Hơn nữa cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng như thiết lập cơ chế giám sát của dân cư để bảo đảm cán bộ quản lý kinh tế phải là những tấm gương trong tạo điều kiện cho nhân dân và bản thân họ làm chủ xã hội theo tinh thần xã hội chủ nghĩa.

3. Để có thể vận dụng hiệu quả và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, thiết nghĩ, Đảng, Chính phủ và mọi công dân cần thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nghiên cứu sâu sắc, chắt lọc các tư tưởng tinh túy còn giá trị đến ngày nay của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN. Những tư tưởng sau đây của Hồ Chí Minh cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng: (i) QCN chỉ có thể được thực hiện khi dân tộc có quyền độc lập, tự quyết và quyền này phải được các nước tôn trọng. Muốn vậy phải trở thành một nước giàu, mạnh; (ii) phải phát triển kinh tế toàn diện cả công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trên cơ sở cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất; (iii) mỗi người, cả nông dân, công nhân, trí thức, công thương… đều phải nỗ lực tự chủ phát triển kinh tế trên cương vị người làm chủ, không thể trông chờ, chây ì dựa vào nhà nước, người khác, nước khác; (iv) Đảng, Nhà nước thông qua cán bộ quản lý kinh tế phải tạo điều kiện cho công dân làm chủ thông qua chế độ quản lý dân chủ, chế độ dân phê bình cán bộ, cán bộ đi sâu đi sát nhân dân.

Thứ hai, sau khi đã xác định rõ các tư tưởng cốt lõi, cần xây dựng kế hoạch, phương thức tuyên truyền, vận động thực chất, phù hợp với từng ngành nghề, từng đối tượng như Hồ Chí Minh đã làm, như đối với công nhân, đối với nông dân, người làm dịch vụ, đối với các dân tộc ít người, thanh niên, phụ nữ... Điều quyết định là gây dựng ở mỗi công dân ý chí tự lực, tự cường, có ý chí vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Đồng thời cũng xác định rõ những nghĩa vụ, yêu cầu, nhiệm vụ mà mỗi công dân phải hoàn thành trên cương vị của mình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hạn chế khai thác khía cạnh thần thánh hóa Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ ba, muốn phát triển kinh tế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần kỹ thuật, thái độ làm việc tích cực, sáng tạo của người lao động, thái độ tận tâm, phong cách dân chủ của cán bộ quản lý. Muốn vận dụng các tư tưởng này vào thực tiễn Việt Nam hiện nay cần cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu đào tạo được đội ngũ lao động chuyên nghiệp, thành thạo nghề và có năng lực sáng tạo để làm chủ quá trình sản xuất. Cần chọn lọc, bồi dưỡng, quản lý, đãi ngộ, kiểm soát để có đội ngũ cán bộ quản lý vừa hồng, vừa chuyên.

Thứ tư, thực hiện QCN cần những con người nhận thức được quyền của mình và xã hội hỗ trợ họ thể chế thực hiện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, ngoài việc đề cao giáo dục tuyên truyền trong các trường phổ thông, trường dạy nghề về QCN, cần xây dựng thể chế hỗ trợ công dân thực hiện QCN. Trong kinh tế là các thể chế hỗ trợ bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Trong quan hệ xã hội là các thể chế hỗ trợ người yếu thế, người thuộc các dân tộc ít người. Cần thừa nhận và hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ đại diện cho lợi ích của các nhóm dân cư trong giải quyết các quan hệ kinh tế với Nhà nước.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế bảo đảm quyền con người
Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao

Thứ năm, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với chính sách thuế và phúc lợi xã hội hợp lý để phân phối của cải xã hội công bằng giữa những nhóm người có điều kiện khách quan khác nhau, nhưng có nhu cầu giống nhau.

Hồ Chí Minh là tấm gương của đạo đức cách mạng, là người suốt đời phấn đấu vì dân, vì nước. Những tư tưởng của người về phát triển kinh tế tạo điều kiện bảo đảm QCN vẫn còn nguyên giá trị định hướng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Thực hiện nghiêm chỉnh, thực chất những tư tưởng định hướng đó Việt Nam nhất định sẽ đạt được các mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đặt ra cho giai đoạn đến 2030 và 2045.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2010, tập 4, 10, 11, 12

2. Sơn Thái: Vấn đề nhân quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh, https://nhandan.vn/van-de-nhan-quyen-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-post713213.html

3. Nguyễn Minh Trí: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825568/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-va-su-van-dung--o-viet-nam-hien-nay.aspx

4. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quyền con người, https://quangbinh.gov.vn/chi-tiet-tin/-/view-article/1/14012495790587/841390789364003

5. Tường Duy Kiên: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-vao-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-hien-nay

PGS.,TS. Vũ Văn Phúc, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương
https://xaydungdang.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh

Tin bài khác

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: "BÁC VẪN CÙNG CHÚNG CHÁU HÀNH QUÂN".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc bảo vệ môi trường, luôn nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên đối với xã hội và con người. Người coi thiên nhiên như người bạn tri kỷ và là phần không thể tách rời của tài nguyên quốc gia.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quan điểm Hồ Chí Minh về quản lý xã hội và sự vận dụng của Nhà nước trong kỷ nguyên mới

Quản lý xã hội luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc, nhà nước nào cũng phải quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách hiệu quả. Bởi lẽ, có quản lý tốt xã hội thì nhà nước mới vận hành, phát triển một cách trật tự, ổn định và bền vững, giúp cho đất nước phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, từ đó mới nâng cao được chất lượng đời sống của Nhân dân trên các mặt, các lĩnh vực. Theo Hồ Chí Minh, để quản lý xã hội - xã hội mới, chúng ta phải tiến hành nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau; tính chất quản lý phải toàn diện, rộng khắp trên tất cả các mặt của xã hội; yêu cầu quản lý thật chặt chẽ, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng; cách thức quản lý phải đa dạng, phong phú, linh hoạt.
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và  quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong tinh giản biên chế ở Việt Nam

Trong giai đoạn hiện nay, tinh giản biên chế trở thành một nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết; cần phát huy mạnh mẽ vai trò, sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành sáng tạo của Nhà nước và sự đoàn kết, đồng thuận của Nhân dân để mang lại hiệu quả thiết thực.
Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Nguyễn Thị Định - Vị nữ tướng huyền thoại suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định - vị nữ tướng huyền thoại với những dấu ấn chiến công lừng lẫy gắn liền với phong trào Đồng Khởi, với “Đội quân tóc dài”, với phương thức đánh địch bằng “Ba mũi giáp công”, vị thuyền trưởng chỉ huy tàu “không số” đầu tiên chở 12 tấn vũ khí từ miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc…, tên tuổi và sự nghiệp của bà luôn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết với tiêu đề "Học tập suốt đời". Trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tổng Bí thư.
Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Tổ chức tốt Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030

Trân trọng giới thiệu bài viết: "Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030" của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm.
Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến

Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến

Chi bộ Tạp chí Ngân hàng tổ chức sinh hoạt chuyên đề quý I/2025 tại Khu di tích lịch sử Trung đoàn 52 Tây Tiến, đồi Nà Bó, thị trấn Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Xem thêm
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng

Chiều 28/5, đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng trong thời gian tới.
Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngành Ngân hàng tiếp tục tiên phong trong chuyển đổi số, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Ngày 27/5/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” của ngành Ngân hàng gắn với Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc NHNN chủ trì cùng toàn thể Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị thuộc NHNN, các tổ chức tín dụng (TCTD)... tại điểm cầu Trung tâm và kết nối đến các điểm cầu NHNN khu vực.
Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Một số phương pháp lập dự toán và lợi ích của việc lập dự toán trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Trong quá trình phát triển kinh tế của lĩnh vực công cũng như lĩnh vực tư nhân, việc giới hạn nguồn lực luôn là một vấn đề nan giải đối với các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, một trong các biện pháp được áp dụng phổ biến là lập dự toán. Việc nghiên cứu, sử dụng biện pháp lập dự toán một cách hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý kiểm soát nguồn lực tài chính thuận lợi hơn để đạt được mục tiêu đã đề ra và xa hơn nữa có thể đạt được mục tiêu tiết kiệm, chống lãng phí.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng 2024: Khắc phục các hạn chế, bất cập trong việc xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu

Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xử lý tài sản và giảm thiểu nợ xấu. Những quy định mới tại Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy sự ổn định và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền gắn với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lĩnh vực tài chính, ngân hàng

(Chinhphu.vn) - Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Công điện số 67/CĐ-TTg ngày 19/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ gửi Bộ trưởng Bộ Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu triển khai thực hiện Kế hoạch xây dựng các nghị định phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền gắn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.
Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách

Bài viết này tổng hợp bài học từ các nền kinh tế đã thành công vượt qua "bẫy thu nhập trung bình" như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia và Trung Quốc. Trên cơ sở đó, tác giả nêu một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam nhằm duy trì đà tăng trưởng, tránh rơi vào “bẫy” và hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị

Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng hai con số từ năm 2026. Đây là một mục tiêu đầy thách thức, khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định và tăng trưởng khu vực đang có xu hướng chậm lại, cùng với việc Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng với các đối tác thương mại, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 vẫn có thể đạt được, với điều kiện phải có sự điều hành chính sách linh hoạt, đồng bộ và cải cách thể chế đủ mạnh để khơi thông các điểm nghẽn về đầu tư, năng suất và thị trường…
Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Chiến lược của các nhà đầu tư toàn cầu: Con đường gập ghềnh đến “xanh hóa”

Bài viết phân tích chiến lược của các ngân hàng toàn cầu, sự rút lui của một số ngân hàng lớn khỏi các liên minh khí hậu và xu hướng chuyển đổi sang “tài trợ xanh” và "tài trợ chuyển đổi", trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý đối với Việt Nam.

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 63/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Thông tư số 64/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về triển khai giao diện lập trình ứng dụng mở trong ngành Ngân hàng

Thông tư số 57/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 56/2024/TT-NHNN ngày 24/12/2024 Quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép lần đầu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện nước ngoài

Thông tư số 55/2024/TT-NHNN ngày 18/12/2024 Sửa đổi khoản 4 Điều 2 Thông tư số 19/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc