Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Quan điểm Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước kế thừa, phát huy, vận dụng và phát triển trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
aa

Tinh giản bộ máy nhà nước không phải là nội dung mới, mà là vấn đề luôn được nhiều nước trên thế giới quan tâm, thực hiện một cách quyết liệt, nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước; thúc đẩy ý thức, tinh thần, trách nhiệm phục vụ Nhân dân. Ở Việt Nam, vấn đề tinh giản bộ máy nhà nước không phải là vấn đề mới, mà luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước và Nhân dân quan tâm, chăm lo, thực hiện một cách mạnh mẽ, có chiến lược cụ thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà nước tiêu biểu luôn đặt lợi ích, quyền lợi, dân chủ nhân dân lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là người đầu tiên phác thảo, khởi xướng và đặt nền móng cho việc đổi mới và tinh giản bộ máy nhà nước, hướng đến mục tiêu hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả, một nhà nước bảo đảm về yếu tố tinh, gọn, mạnh, lấy chất lượng và tinh thần phục vụ Nhân dân lên trên hết, trước hết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên phác thảo, khởi xướng và đặt nền móng cho việc đổi mới và tinh giản bộ máy nhà nước, hướng đến mục tiêu hiệu lực, hiệu quả lấy chất lượng và tinh thần phục vụ Nhân dân lên trên hết
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên phác thảo, khởi xướng và đặt nền móng cho việc đổi mới và tinh giản bộ máy nhà nước, hướng đến mục tiêu hiệu lực, hiệu quả lấy chất lượng và tinh thần phục vụ Nhân dân lên trên hết

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần bàn về vấn đề tinh giản bộ máy nhà nước, nhằm xây dựng một nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, góp phần giảm đáng kể gánh nặng về chi phí và ngân sách vận hành bộ máy, theo quan điểm “thà ít mà tốt”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc tinh giản bộ máy nhà nước luôn đi liền với vấn đề tiết kiệm chi phí, chống lãng phí, chống quan liêu, cửa quyền. Người chỉ rõ: “Nói chung tiết kiệm cái gì? Tiết kiệm sức người như dân công, tiết kiệm tiền, tiết kiệm của. Mọi thứ đều phải tiết kiệm, tăng gia mà không tiết kiệm thì vô ích. Tiết kiệm mà không tăng gia thì lấy gì mà tiết kiệm? Mục đích tiết kiệm không phải là bớt ăn, mà là thêm ăn, làm cho bộ đội no”1.

Khi bàn về tinh giản bộ máy nhà nước, Người khẳng định: “Riêng cơ quan cung cấp tổ chức còn kềnh càng, thừa người, phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao năng suất của mình. Thế là tinh giản, tinh là năng suất lên cao, làm cho mau, cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”2. Những nội dung, quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh giản bộ máy nhà nước vẫn còn nguyên về mặt giá trị lý luận và thực tiễn; tiếp tục trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước kế thừa, phát huy, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Vị trí, vai trò của việc tinh giản tối đa bộ máy nhà nước

Tinh giản bộ máy nhà nước là một trong những nội dung có vị trí, vai trò to lớn, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp và hiệu quả trong xây dựng nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việc tinh giản bộ máy nhà nước, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề cần thiết, phải làm mạnh mẽ và triệt để, vì một số lý do sau: (i) Nhằm xây dựng cơ quan nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, mang lại lợi ích cho đất nước; (ii) Tránh được hiện tượng rườm rà, cồng kềnh trong các hoạt động của bộ máy Nhà nước, thực hiện chủ trương nhanh, gọn và tiện lợi; (iii) Góp phần giảm bớt chi phí ngân sách cho Nhà nước và mang lại lợi ích thiết thực cho Nhân dân, tránh phiền hà, sách nhiễu, nhũng nhiễu Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả phải là một nhà nước có ít bộ, ngành, nhưng bù lại hoạt động mang lại hiệu quả cao hơn nhiều bộ. Thực tiễn cho thấy, trong thời kỳ lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn chăm lo, quan tâm đến công tác xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước; làm cho bộ máy hoạt động vừa hiệu quả, vừa nhịp nhàng, vừa tiện lợi.

Ở thời kỳ đầu Chính phủ mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng bộ máy chỉ có vèn vẹn 13 bộ, ngành. Đến thời kỳ Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, từ năm 1946, Chính phủ chỉ còn có 10 bộ. Điều này vừa bảo đảm hoạt động nhanh, gọn, lẹ, nhẹ; vừa bảo đảm tính cơ động, linh hoạt trong chiến tranh; giảm nhiều chi phí cho ngân sách nhà nước, đồng thời bảo đảm yếu tố bí mật, nhanh chóng khi triển khai các nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc. Khi được các nhà báo hỏi về sự cần thiết của việc tinh giản các bộ, các cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời rất rõ ràng, ngắn gọn: “Vì nước mình nhỏ nên không cần nhiều bộ”3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm, chăm lo xây dựng các cơ quan tổ chức của Trung ương, mà Người còn thiết lập được bộ máy hành chính ở nhiều địa phương có tổ chức rất gọn nhẹ, nhưng chức năng hoạt động lại hiệu quả, trên cơ sở lấy chất lượng làm cốt; bảo đảm yếu tố thông suốt từ Trung ương đến địa phương, giảm thiếu tối đa các khâu trung gian, tầng, nấc. Người nói rõ: “Ủy ban nhân dân (làng, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương... ủy ban có từ 5 đến 7 người”4. Ngay cả như việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, tiền thân của Ban Thanh tra Chính phủ hiện nay, trong lịch sử cũng chỉ có hai thành viên đảm nhiệm là các đồng chí: Bùi Bằng Đoàn và Cù Huy Cận. Riêng bộ phận giúp việc, phục vụ Chính phủ kháng chiến chống Pháp cũng chỉ có 8 người, những người này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên là: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi. Đây chính là một minh chứng sinh động và cụ thể về tinh giản bộ máy nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện trong lịch sử.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước phải lấy gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả và chất lượng hoạt động làm đầu, làm cốt, tránh việc cơ cấu thành nhiều bộ, ngành, lực lượng, sinh ra bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, gây phiền nhiễu cho Nhân dân và lãng phí tiền của Nhà nước; với chủ trương “thà ít mà tốt”, còn hơn là nhiều, dẫn đến hoạt động nhũng nhiễu, sinh ra đùn đẩy lẫn nhau, cha chung không ai khóc, không cơ quan nào chịu trách nhiệm; hướng đến mục tiêu tinh giản bộ máy nhà nước là bảo đảm bộ máy được vận hành một cách trơn tru, nhịp nhàng theo dây chuyền thống nhất, hiệu quả, không thừa, không thiếu, không yếu một bộ phận nào trong quy trình lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tất cả mọi người, bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy. Thiếu một người nào hay có một người không làm tròn nhiệm vụ là hỏng cả”5.

Yêu cầu của việc sắp xếp, tinh giản bộ máy nhà nước

Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người hiểu rất rõ về tình hình, điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn của đất nước sau thời gian dài bị kẻ thù áp bức, đô hộ và chiến tranh tàn phá dẫn đến nền kinh tế lạc hậu, đời sống Nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Việc tiết kiệm tiền của, ngân sách trong vận hành bộ máy nhà nước là yêu cầu cấp thiết, nhằm góp phần giảm tối đa ngân sách cho Nhân dân, phục vụ nhiệm vụ kiến thiết đất nước, xây dựng nước nhà ngày càng văn minh, phát triển. Với quan điểm của Người, chỉ để lại những bộ, cơ quan thực sự cần thiết trong công tác quản lý xã hội, còn lại đều phải tiến hành tinh giản thật gọn nhẹ, tránh cồng kềnh, lãng phí. Người nói rõ, việc tinh giản phải diễn ra trong toàn bộ hệ thống chính trị chứ không chỉ trong các cơ quan hành chính: “Các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các cơ quan kinh tế và các ủy ban, cần phải nâng cao năng suất, giảm bớt số người (tinh giản). Hiện nay, các cơ quan của ta người nhiều, việc ít, xài phí lu bù... Lênin đã nhắc đi, nhắc lại hàng chục, hàng trăm lần rằng: Công nhân và nông dân không thể chịu đựng những cơ quan kềnh càng và tốn kém như vậy. Vô luận thế nào cũng phải tìm đủ cách để biên chế các cơ quan lại. Chúng ta phải dùng tinh thần Bônsêvích mà thực hành một chế độ tiết kiệm nghiêm ngặt. Nếu chúng ta không muốn dùng vốn liếng của ta vào những việc linh tinh, thì chúng ta phải thực hành ngay chế độ ấy”6.

Như vậy, có thể khẳng định, việc tinh giản bộ máy nhà nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm và tiến hành quyết liệt, không ngừng nghỉ, không nề hà, với tinh thần cương quyết, triệt để, quyết tâm cắt bỏ dư thừa, nhằm xây dựng một nhà nước thật gọn nhẹ. Việc tinh giản bộ máy nhà nước phải luôn gắn liền với tính hiệu lực, hiệu quả và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Người chỉ rõ: “Thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”7.

Giải pháp tinh giản bộ máy nhà nước

Với tinh thần muốn tốt thì phải cắt bỏ, muốn phát triển thì phải tinh gọn bộ máy. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để nâng cao tính tích cực, nâng cao hiệu suất, hiệu năng và chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước; gắn liền với nâng cao chất lượng làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống. Người đã cùng với Đảng, Nhà nước đưa ra nhiều giải pháp quan trọng để góp phần tinh giản bộ máy nhà nước cụ thể:

Thứ nhất, thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về yêu cầu của việc tinh giản bộ máy nhà nước. Phát huy vai trò của cơ quan báo chí, phát thanh đưa tin đầy đủ các hội nghị, nghị quyết, cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương của Đảng, Nhà nước và yêu cầu thực tiễn của việc tinh giản bộ máy hành chính, tránh lãng phí, phiền hà trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có một bộ máy thực sự tinh gọn hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, trước hết đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, những người lãnh đạo, quản lý của các ban, bộ ngành, những người hưởng lương phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ về yêu cầu, sự cần thiết của việc tinh giản biên chế bộ máy. Muốn làm tốt vấn đề này cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, để nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, các cơ quan, đoàn thể, nhất là những cơ quan nằm trong diện phải tinh giản biên chế. Người dạy: “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”8. Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về yêu cầu của việc tinh giản bộ máy nhà nước giúp cho công chúng thấy rõ đúng, sai, phải, trái, tự giác, vui vẻ nhận nhiệm vụ và thi hành một cách tự giác, tự nguyện.

Thứ hai, sắp xếp một bộ máy khoa học, sử dụng nhân lực một cách hiệu quả. Để làm được điều này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải phát huy vai trò sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; của các cơ quan ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, cần phải phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; sự tham mưu đóng góp của các ban, bộ, ngành như: Ban Tổ chức Trung ương, Ban Cán sự Đảng, Bộ Nội vụ trong việc sắp xếp, kiện toàn, luân chuyển, điều chuyển các tổ chức, cá nhân có liên quan một cách phù hợp và hiệu quả, dựa trên chuyên môn, ngành đào tạo và sở trường của cá nhân, bảo đảm các hoạt động của Nhà nước và Nhân dân không bị xáo trộn; đồng thời, sau khi tinh giản bộ máy Nhà nước, các hoạt động phải khoa học hơn, hiệu quả, thiết thực hơn. Người chỉ rõ: “Tổ chức phải gọn gàng. Nhiệm vụ của mỗi bộ phận, mỗi người phải quy định rõ ràng. Các cấp và các cán bộ lãnh đạo phải giúp đỡ và đôn đốc thường xuyên, phải kiểm tra chặt chẽ”9. Phát huy hiệu quả vai trò của cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong việc sắp xếp, bố trí lực lượng một cách phù hợp, theo phương pháp: “Dụng nhân như dụng mộc”. Thực hiện chủ trương người giỏi lĩnh vực gì thì sắp xếp, luân chuyển lĩnh vực đó, được đào tạo lĩnh vực nào thì sử dụng đúng lĩnh vực đó.

2. Tinh giản bộ máy nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Theo quan điểm của Đảng, việc tinh giản biên chế bộ máy không đơn thuần là việc cắt giảm số lượng các đầu mối, mà cần phải cải tiến mạnh mẽ nâng cao chất lượng hoạt động; bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, những người có chuyên môn giỏi, có trình độ, phẩm chất, năng lực, uy tín, có tinh thần phục vụ Nhân dân, đặc biệt là biết giải quyết hiệu quả các tình huống thực tiễn đặt ra một cách hiệu quả; tránh trường hợp cái gì khó, phức tạp lại đùn đẩy lên trên, hậu quả là công việc không thông suốt, không chạy, gây bức xúc trong dư luận. Để làm được điều này cần phải xây dựng một cơ chế sàng lọc, đánh giá minh bạch, khách quan, khoa học, dân chủ, tâm phục, khẩu phục; khắc phục hiện tượng nề hà, nể nang, e ngại trong đánh giá... phản ánh đúng cơ chế lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân đã và đang xây dựng.

Tinh giản bộ máy Nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, vì mục tiêu phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Tinh giản bộ máy nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, vì mục tiêu phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Ngày 17/4/2015, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với mục tiêu đến năm 2021 tinh giản tối thiểu 10% biên chế. Qua đánh giá kết quả thực hiện đã tinh giản được 11,67% biên chế trong giai đoạn này. Đây là một trong những thành quả lớn, tạo tiền đề vững chắc để Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 18). Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18 đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, cụ thể:

Các cấp, các ngành đã nâng cao nhận thức và tiến hành tinh giản biên chế mạnh mẽ, cơ cấu lại tổ chức, từng bước nâng cao chất lượng nhân lực; sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của nhà nước ở tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội. Cơ bản đã hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn, thí điểm một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng bộ, ngành, tổng cục theo hướng giảm dần số lượng, giảm đầu mối, giảm các khâu, bước trung gian không cần thiết, giảm số lượng cấp phó; bổ sung kịp thời một số quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong thực thi. Thực hiện thí điểm một số mô hình về tổ chức bộ máy để tinh gọn đầu mối nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước như: Người đứng đầu cũng đồng thời là bí thư cấp ủy, bỏ Hội đồng nhân dân ở một số địa phương; góp phần làm rõ một số vấn đề về lý luận, thực tiễn của việc tinh giản biên chế, cơ cấu tổ chức, tạo sự bứt phá lớn trong thời gian tới.

Những kết quả đạt được của việc tinh giản bộ máy nhà nước thời gian qua là rất lớn, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải quan tâm, giải quyết trong thời gian tới, cụ thể:

Một là, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta vẫn còn cồng kềnh so với các nước trong khu vực và trên thế giới; hoạt động lãnh đạo, quản lý còn trải qua nhiều khâu, nhiều bước, nhiều tầng, nấc, đầu mối gây ra nhiều khó khăn, hệ lụy, dẫn đến tính trạng lãng phí tiền của Nhân dân, gây bức xúc trong dư luận.

Hai là, tính hiệu quả, hiệu lực, hiệu năng của một số hoạt động Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao, chưa phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế và sự mong đợi của người dân và doanh nghiệp.

Ba là, vị trí, chức năng, nhiệm vụ công tác của nhiều tổ chức, cá nhân chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn; mối quan hệ công tác giữa nhiều tổ chức chưa thực sự rõ ràng, còn chồng chéo, trùng lặp, thiếu minh bạch.

Bốn là, việc phân định trách nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa hợp lý, thậm chí có chỗ còn bao biện làm thay việc của cơ quan khác, dẫn đến hiện tượng đùn đẩy.

Năm là, việc sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước còn thiếu đồng bộ, thiếu tính tổng thể, còn có tư duy ngắn hạn; nhất là chưa gắn với việc tinh giản biên chế, cơ cấu lại và chưa gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay.

Ở Việt Nam, hiện nay, số lượng đơn vị hành chính đang vượt xa nhiều so với quy mô lãnh thổ, với tổng diện tích 331.690 km2, nhưng có tới 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu so sánh giữa Mỹ và Trung Quốc, hai quốc gia có diện tích lớn thứ ba và thứ tư thế giới nhưng số đơn vị hành chính của những quốc gia này cũng chỉ có 50 bang, hoặc 34 tỉnh, thành phố tự trị. Điều này đồng nghĩa với việc một chủ tịch tỉnh ở Việt Nam quản lý một địa bàn chỉ bằng 4% so với một thống đốc bang ở Mỹ, hoặc một chủ tịch tỉnh ở Trung Quốc. Tính từ sau năm 1975 đến nay, Việt Nam đã trải qua hai lần sáp nhập và phân tách địa giới hành chính; tuy nhiên gánh nặng cho chi thường xuyên của bộ máy hành chính còn khá công kềnh, có tinh giản nhưng không đáng kể. Hiện nay, số lượng bộ, ngành ở Trung ương vẫn còn lớn, cả nước có tới 30 cơ quan bộ và ngang bộ. Trong khi đó, Nhật Bản là quốc gia có dân số đông hơn Việt Nam cũng chỉ có 11 bộ; hay quốc gia nhỏ gọn hơn là Singapore cũng chỉ có 15 bộ.

Với số lượng bộ, ngành ở Trung ương phình to, kéo theo cấp sở ở các tỉnh, phòng, ban ở cấp huyện, tạo ra bộ máy cồng kềnh, gây ra tình trạng lãng phí tiền của Nhà nước và Nhân dân, nguy hiểm hơn là kìm hãm sự phát triển của đất nước, ảnh hưởng đến tinh thần, thái độ và trách nhiệm phục vụ Nhân dân. Điều này cũng dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát, tạo cơ chế xin cho, chi phí vận hành bộ máy rất lớn.

Theo thống kê, hiện tỉ lệ hưởng lương công chức, viên chức trên 1.000 dân ở Việt Nam cũng cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Cụ thể, Việt Nam hiện nay có tới 43 người hưởng lương/1000 dân, chưa bao gồm lực lượng vũ trang (Quân đội và Công an), trong khi đó ở các quốc gia khác tính cả lực lượng vũ trang vẫn thấp hơn rất nhiều so với Việt Nam. Đơn cử như Philippines chỉ có 13 người hưởng lương/1000 dân, Ấn Độ chỉ có 16 người hưởng lương/1000 dân và Indonesia là 17 người hưởng lương/1000 dân. Thực trạng này cho thấy, tỉ lệ hưởng lương ở Việt Nam cao hơn gấp 3 lần so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, hiện nay, ngân sách Nhà nước đã phải dành khoảng 70% để chi trả lương, chi thường xuyên, còn lại chỉ dành khoảng 30% để lo cho quốc phòng, an ninh và đầu tư lại cho phát triển, sản xuất, xóa đói giảm nghèo thì không phù hợp. Do đó cần phải đổi mới, cơ cấu lại bộ máy, theo hướng tinh giản những ban, bộ, ngành không cần thiết hoặc tiến hành sáp nhập, để xây dựng một bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh trong tinh giản bộ máy nhà nước hiện nay

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đặt ra mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Điều này thể hiện tinh thần mạnh mẽ, quyết tâm cao, nghị lực lớn và khát vọng hùng cường để phát triển đất nước; với quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, sánh vai với tất cả các nước, các quốc gia trên thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần phải đoàn kết, chung sức, đồng lòng, quyết tâm phấn đấu đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện được những mục tiêu này đòi hỏi trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải thực sự nỗ lực; kết hợp với thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về nhận thức, thể chế, cơ chế quản lý; đặc biệt là đổi mới về tinh giản bộ máy Nhà nước theo hướng hiệu lực, hiệu năng và hiệu quả. Để thực hiện được mục tiêu này, cần phải thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, thường xuyên tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về sự cần thiết, yêu cầu, nội dung và tính cấp bách của việc tinh giản bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi hành động cách mạng đều bắt nguồn từ nhận thức, có nhận thức đúng thì tất yếu sẽ hành động đúng; mỗi khi có nhận thức thông suốt thì tiến hành triển khai công việc mới thuận lợi và mang lại hiệu quả cao. Do đó, việc tăng cường tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho các chủ thể về sự cần thiết của việc tinh giản biên chế ở nước ta hiện nay luôn là một trong những giải pháp quan trọng, cần được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, quyết liệt và hiệu quả.

Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu sâu sắc về tính cấp thiết của việc tinh giản biên chế. Yêu cầu công tác tuyên truyền, giáo dục phải truyền đạt đầy đủ các chủ trương, quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, biện pháp, phương hướng và kế hoạch của Đảng, Nhà nước đến các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương. Nội dung tuyên truyền phải làm rõ được những cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc diện phải tinh giản, do yêu cầu của nhiệm vụ và sự phát triển của đất nước, qua đó, góp phần nâng cao nhận thức, củng cố lập trường cho các lực lượng thuộc diện phải tinh giản biên chế, thực hiện tất cả vì lợi ích chung.

Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự tham mưu, đóng góp ý kiến của các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương, nhất là ý kiến góp ý của Nhân dân về tinh giản bộ máy nhà nước.

Việc tinh giản biên chế bộ máy nhà nước là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, đoàn quân, của cả hệ thống chính trị; nòng cốt là người đứng đầu Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương và các cơ quan ban, ngành, đoàn thể có liên quan, cùng chung sức, đồng lòng, đoàn kết để quyết tâm thực hiện nhiệm vụ. Trong đó, cần phải phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc đề ra mục tiêu, phương hướng, kế hoạch, lộ trình cụ thể của việc tinh giản bộ máy nhà nước, từ đó, làm cơ sở nền tảng cho các lực lượng có liên quan, cùng toàn dân cho ý kiến để lựa chọn phương án phù hợp. Phát huy tinh thần dân chủ, khách quan, truyền thống đoàn kết, nhân ái, chung sức, đồng lòng trong thực hiện nhiệm vụ tinh giản bộ máy nhà nước. Tránh tình trạng áp đặt, chủ quan, gượng ép hoặc nóng vội, dẫn đến những quyết định sai lầm, thiếu chuẩn xác trong quá trình tinh giản bộ máy nhà nước.

Thứ ba, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn, có tinh thần ý chí cách mạng, thực hiện với tinh thần tất cả vì lợi ích chung trong tinh giản bộ máy nhà nước.

Việc thay đổi cơ cấu, tổ chức nhà nước không phải là một việc nhỏ lẻ, càng không phải là công việc đơn thuần. Đó là việc thay đổi về thể chế, cơ chế, chính sách của một bộ phận của hệ thống chính trị; kéo theo sự thay đổi về quy mô, tổ chức, lực lượng, nguyên tắc, hoạt động của một số ban, bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương. Do đó, Đảng, Nhà nước, cùng các ban, bộ, ngành có liên quan phải có quyết tâm chính trị cao nhất, có nghị lực lớn, có tinh thần ý chí cách mạng rất cao; chấp nhận thay đổi, đau thương trước mắt để hướng tới lợi ích lâu dài cho dân tộc; thực hiện mọi hoạt động tinh giản phải vì lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân. Tất cả thực hiện vì lợi ích chung, vì sự phát triển phồn vinh và hạnh phúc của dân tộc; vì những mục tiêu chung của Đảng, Nhà nước đã đề ra đến năm 2030, năm 2045 và những năm tiếp theo.

Thứ tư, tiến hành nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và học tập kinh nghiệm của các nước để tiến hành tinh giản bộ máy nhà nước một cách hiệu quả.

Việc tinh giản bộ máy Nhà nước mặc dù đã có kế hoạch, lộ trình và bước đi cụ thể, song cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra; kết hợp với việc tổng kết thực tiễn những mặt được, chưa được của việc tinh giản bộ máy nhà nước ở nước ta từ trước đến nay; đồng thời tiến hành tham quan học tập các mô hình, thể chế chính trị, bộ máy hành chính của các nước trên thế giới để học tập và kịp thời rút kinh nghiệm một cách thấu đáo; nhất là những mô hình hay, những thể chế chính trị tương đồng với Việt Nam. Quá trình tổ chức tinh giản bộ máy nhà nước cần phải thực hiện nghiêm túc, quyết liệt và hiệu quả, tránh hiện tượng chủ quan, nóng vội và áp đặt. Trong tổ chức thực hiện, cần phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất, thể chế chính trị, truyền thống lịch sử, văn hóa, tập quán cũng như nhu cầu, nguyện vọng của đại đa số quần chúng Nhân dân để tiến hành cho phù hợp.

Tóm lại, tinh giản bộ máy nhà nước nhằm khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, tiến tới sáp nhập các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tương đồng để hoạt động hiệu quả; hướng tới giảm tối đa thủ tục hành chính, cắt giảm các chi phí, rút ngắn thời gian giải quyết bảo đảm công khai, minh mạch cho người dân và doanh nghiệp. Việc tinh giản bộ máy nhà nước phải hướng tới mục đích cao nhất là tinh giản biên chế, giảm số lượng người hưởng lương ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chăm lo cho quốc phòng, an ninh; đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tinh thần trách nhiệm phục vụ Nhân dân.

1, 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, 432.

3, 4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 146, 12.

5, 10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 219, 132.

6, 7, 8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr.432,367, 164.

9 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 122.

Nguyễn Huy Đại
Giảng viên Khoa Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Tin bài khác

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Quản lý phát triển xã hội thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn thể Nhân dân, của quốc gia, dân tộc, trong đó Nhà nước là chủ thể quan trọng, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp là nòng cốt, Nhân dân là chủ thể quyết định...
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trọng tâm

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Đây là lần đầu tiên, bảo vệ môi trường được xác định là trụ cột, điều kiện, động lực của mô hình phát triển nhanh, bền vững, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa xanh và cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.
Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Tư duy đột phá của Đảng ta trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Nhìn tổng thể, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong giai đoạn phát triển mới, một Đảng kiên định, đổi mới và hành động vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Việt Nam phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng.
Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Xem thêm
Sàn giao dịch vàng quốc gia: Lựa chọn chuẩn vàng và ý nghĩa đối với ổn định kinh tế vĩ mô

Sàn giao dịch vàng quốc gia: Lựa chọn chuẩn vàng và ý nghĩa đối với ổn định kinh tế vĩ mô

Trong hơn một thập kỷ qua, thị trường vàng Việt Nam luôn được xem là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với công tác điều hành kinh tế vĩ mô. Biến động giá mạnh, tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế, cơ cấu giao dịch phân tán, cùng với sự thiếu thống nhất về tiêu chuẩn vàng đã khiến thị trường vàng không chỉ chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh tài sản an toàn, mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và nghiên cứu xây dựng Sàn giao dịch vàng quốc gia là bước đi chiến lược nhằm chuẩn hóa thị trường, giảm thiểu rủi ro, đồng thời tạo động lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Triển khai Chiến lược ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vai trò trung tâm trong việc triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, vừa là cơ quan quản lý vừa là động lực thúc đẩy phát triển ngân hàng xanh. Điều này không chỉ góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia mà còn nâng cao vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.
Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Khung pháp lý xử lý phá sản quỹ tín dụng nhân dân hướng đến mục tiêu bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống

Bài viết này tập trung phân tích một số nội dung cốt lõi của khung pháp lý xử lý phá sản Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank) và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), đồng thời gợi mở một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả và minh bạch trong quá trình xử lý QTDND yếu, kém.
Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An

Ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong khai thác và bảo tồn di sản Tràng An không chỉ là một giải pháp để "xanh hóa" du lịch, mà là một chiến lược sống còn, một yêu cầu cấp bách để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và có khả năng chống chịu cho di sản Tràng An trong một tương lai đầy biến động.
Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Phân loại xanh và định hướng dòng vốn xanh vào xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam

Quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất tại Việt Nam khi lượng rác phát sinh không ngừng tăng cùng tốc độ đô thị hóa nhanh. Những hạn chế cố hữu của chôn lấp, kỹ thuật xử lý... đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch sang các công nghệ xử lý hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế, thu hồi vật liệu theo hướng tuần hoàn.
Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế  và khuyến nghị đối với Việt Nam

Phòng, chống rửa tiền trong giao dịch tài sản mã hóa: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam

Trong bối cảnh thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh xét theo cả quy mô giao dịch và mức độ phổ cập trong đời sống tài chính, yêu cầu hoàn thiện khung phòng, chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, bởi các chỉ dấu khách quan cho thấy Việt Nam vừa nằm trong nhóm quốc gia có giá trị giao dịch trên chuỗi rất lớn.
Pháp luật Liên minh châu Âu  về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử

Dữ liệu cá nhân giữ vai trò nền tảng trong thương mại điện tử, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động tương tác và kinh doanh trên môi trường số. Bài viết phân tích quy định của EU (đặc biệt là GDPR 2016), đánh giá tác động thực thi, so sánh với pháp luật Việt Nam để chỉ ra bất cập và đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử.
Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Thị trường hàng hóa: Thực tế và kỳ vọng

Ngày 29/10/2025, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo định kỳ hai lần trong một năm với phân tích cụ thể liên quan đến các nhóm hàng hóa chủ chốt, bao gồm năng lượng, nông nghiệp, kim loại.
Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Rủi ro mới nổi của ngân hàng trung ương

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, các ngân hàng trung ương (NHTW) đang phải đối mặt với nhiều rủi ro phức tạp như lạm phát dai dẳng, áp lực tài khóa, rủi ro từ khu vực phi ngân hàng, an ninh mạng và biến đổi khí hậu. Sự tương tác giữa các rủi ro có thể làm suy giảm niềm tin công chúng và xóa nhòa ranh giới chính sách. Bài viết đề xuất những chiến lược cho các NHTW nhằm hạn chế rủi ro, bao gồm nâng cấp giám sát, tăng khả năng chống chịu hệ thống, đổi mới truyền thông và đẩy mạnh phối hợp liên ngành, xuyên biên giới.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô