Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024: Kiên cường và đầy hứa hẹn trước những thách thức

Nghiên cứu - Trao đổi
Nhìn chung, kinh tế thế giới đang dần hồi phục sau đại dịch Covid-19 và những biến động địa chính trị, tuy nhiên, vẫn còn chậm và chưa đồng đều.
aa

1. Triển vọng kinh tế toàn cầu

Nhìn chung, kinh tế thế giới đang dần hồi phục sau đại dịch Covid-19 và những biến động địa chính trị, tuy nhiên, vẫn còn chậm và chưa đồng đều. Mặc dù, nền kinh tế đang phục hồi trở lại từ đầu năm 2023 và lạm phát giảm so với mức đỉnh năm 2022, vẫn còn quá sớm để chúng ta cảm thấy yên tâm. Các hoạt động kinh tế vẫn chưa đạt được trạng thái như trước đại dịch Covid-19, đặc biệt tại các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, đồng thời, có sự khác biệt ngày càng lớn giữa các khu vực. Có rất nhiều lí do kìm hãm kinh tế phục hồi, ví dụ như từ hậu quả lâu dài của đại dịch Covid-19, những biến động địa chính trị và sự phân chia khu vực kinh tế ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, một số lí do khác có tính chất chu kì hơn, bao gồm tác động của việc chính sách tiền tệ thắt chặt cần thiết để giảm lạm phát, giảm hỗ trợ tài chính trong bối cảnh nợ công cao và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ chậm lại, từ 3,5% vào năm 2022, 3,0% vào năm 2023 xuống còn 2,9% vào năm 2024. Nền kinh tế thế giới có thể sẽ bình ổn sau chu kì thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ nhất trong nhiều năm, mặc dù có rất nhiều rủi ro. Tác động trễ của việc một số ngân hàng trung ương thắt chặt cung tiền có thể nhận thấy rõ ở các nền kinh tế phát triển, với tốc độ tăng trưởng trung bình chậm lại, được dự báo khoảng 1% vào năm 2024.

Ngược lại, tốc độ tăng trưởng của châu Á trong năm 2024 dự kiến sẽ đạt tới 4,9%, trở thành khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Mặc dù tăng trưởng của Trung Quốc có thể không nổi bật, nhưng lĩnh vực xuất khẩu và du lịch được cải thiện sẽ thúc đẩy nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ hơn ở các quốc gia châu Á khác. Đặc biệt ở Ấn Độ, tốc độ tăng trưởng được kì vọng sẽ tăng lên sau bầu cử. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Đông và châu Phi đang được cải thiện. Các quốc gia Ả Rập như: Arab Saudi và UAE sẽ tiếp tục đa dạng hóa nền kinh tế, mặc dù nhu cầu tiêu thụ dầu thô trên toàn cầu được dự báo sẽ đạt mức cao nhất mọi thời đại trong năm 2024.

Lạm phát toàn cầu được dự báo sẽ giảm dần, từ 8,7% năm 2022, 6,9% năm 2023 xuống còn 5,8% năm 2024. Tuy nhiên, dự báo cho năm 2024 được điều chỉnh tăng 0,6 điểm phần trăm và thế giới có thể sẽ không đạt mức lạm phát mục tiêu cho tới năm 2025. Lạm phát kéo dài và những vấn đề địa chính trị là những rủi ro đối với triển vọng phục hồi toàn cầu. Những biến động địa chính trị, căng thẳng Mỹ - Trung Quốc và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11/2024 là những tác nhân chính gây ra rủi ro địa chính trị và chính trị, trong khi tình hình phân chia khu vực kinh tế ngày càng gia tăng. Về mặt lạm phát, trong khi các chính phủ đang liên tục nỗ lực giảm bớt áp lực giá cả, tuy nhiên, chưa rõ liệu lạm phát có thể chậm lại một cách bền vững hay không. Lạm phát cơ bản vẫn duy trì ở mức cao tại một số thị trường. Các yếu tố khác như thâm hụt tài chính và chi phí chuyển đổi sang các nguồn năng lượng tái tạo có thể khiến lạm phát cao hơn so với giai đoạn trước đại dịch Covid-19. Giá dầu và xung đột địa chính trị cũng là lí do gây ra rủi ro lạm phát tăng cao.

Theo quan điểm của tác giả, chỉ số giá tiêu dùng nhìn chung sẽ giảm tốc vào năm 2024 ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt. Các hiệu ứng cơ sở, lạm phát giá năng lượng giảm gần đây và tác động trễ của việc thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ giúp làm giảm áp lực giá cả. Tuy nhiên, ở nhiều thị trường, ảnh hưởng của điều kiện thời tiết El Niño có nguy cơ làm tăng giá lương thực.

Giá dầu là nguyên nhân chính khiến rủi ro lạm phát tăng cao. Giá dầu Brent được nhận định sẽ đạt trung bình 98 USD/thùng vào năm 2024, tăng lên 109 USD/thùng vào năm 2025. Bất chấp kì vọng tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm nhẹ vào năm 2024, mức tăng của giá dầu vẫn rất đáng kể. Theo dự báo, nhu cầu sử dụng dầu toàn cầu vẫn ở mức cao, cùng với tăng trưởng vững chắc ở châu Á và đạt mức cao nhất mọi thời đại là 104 triệu thùng/ngày vào tháng 8/2024. Tóm lại, những biến đổi về khí hậu và địa chính trị có thể khiến giá lương thực và năng lượng tăng cao.

2. Triển vọng kinh tế vĩ mô và ngành Ngân hàng Việt Nam năm 2024: Những khó khăn, thách thức đi qua, dấu hiệu phục hồi tích cực

Về cơ bản, năm 2023 là một năm đầy thách thức mà Việt Nam và toàn bộ nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt. Những biến động kinh tế toàn cầu đã tác động đáng kể đến Việt Nam như tăng trưởng kinh tế chậm lại, áp lực lên tỉ giá USD/VND, lạm phát cao hơn gây ra thách thức và áp lực cho ngành Ngân hàng Việt Nam.

Ngân hàng Standard Chartered dự báo Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP 6,7% trong năm 2024 (6,2% trong nửa đầu năm 2024 và 6,9% trong nửa cuối năm 2024); lạm phát sẽ tăng lên 5,5% vào năm 2024 từ mức 3,25% vào năm 2023, tăng trưởng kinh tế trung bình là 6,5 - 7,0% trong giai đoạn 2021 - 2025. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng khoảng 15% vào năm 2024 là khả thi sau mức tăng trưởng tín dụng 13,71% vào năm 2023.

Theo số liệu thống kê, doanh số bán lẻ và khối lượng sản xuất công nghiệp của năm 2023 duy trì tăng trưởng mạnh mẽ dù có dấu hiệu chững lại vào thời điểm cuối năm; các khoản đầu tư vào sản xuất và xây dựng bắt đầu đóng góp vào tăng trưởng chung. Tăng trưởng GDP năm 2023 ở mức 5,05% nhờ quý IV/2023 tăng trưởng vững chắc đạt 6,72% so với cùng kì năm 2022. Dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đang phục hồi mạnh mẽ. Năm 2023, vốn FDI được giải ngân tăng 3,5% so với cùng kì năm 2022, đạt khoảng 23,2 tỉ USD, trong khi vốn FDI cam kết tăng 32% so với cùng kì đạt khoảng 37 tỉ USD. Dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam có thể tăng cao hơn, qua đó, đóng góp chung vào tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2024.

Việt Nam có triển vọng phục hồi và tăng trưởng kinh tế đầy hứa hẹn vào năm 2024. Ngành sản xuất của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển từ việc chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam có lợi thế rất lớn để nắm bắt hoạt động sản xuất đang được chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc do giá lao động tăng và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, đặc biệt khi nước này mở rộng sang các lĩnh vực sản xuất phức tạp hơn như điện tử. Theo Bộ Công thương, tính đến tháng 8/2023, Việt Nam đã kí kết và thực thi 19 hiệp định thương mại tự do (FTA). Phần lớn các FTA đã phát huy tác dụng, nâng cao vị thế thương hiệu hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế, qua đó, cho phép Việt Nam tận dụng các luồng thương mại gia tăng. Ngoài ra, Việt Nam cũng có lợi thế với dân số khoảng 100 triệu người và lực lượng lao động lên tới 56 triệu người, cao thứ hai trong ASEAN sau Indonesia; chi phí lao động tương đối thấp và có vị trí địa lí thuận lợi.

Ngành sản xuất đang ngày càng mở rộng, là trọng tâm của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đang vươn lên là một quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực điện tử, dệt may và các ngành công nghiệp khác, đồng thời, sẵn sàng củng cố vị thế là trung tâm sản xuất được lựa chọn trên thế giới vào năm 2024, thu hút thêm nguồn vốn FDI khi các công ty lớn tìm kiếm quốc gia để đặt cơ sở sản xuất. Xu hướng này dự kiến sẽ đóng góp đáng kể vào sản lượng công nghiệp và sản lượng xuất khẩu.

Cách tiếp cận chủ động của Việt Nam trong các hiệp định thương mại quốc tế tiếp tục mang lại những lợi ích. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã mở ra những cánh cửa mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các hiệp định này góp phần giảm bớt các rào cản thương mại và mở rộng tiếp cận thị trường, là công cụ thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.

Để tận dụng được các cơ hội này, Việt Nam nên tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, nơi tỉ lệ lấp đầy cao và giá thuê tăng. Việt Nam cần tích cực cải thiện cơ sở hạ tầng (đặc biệt là logistics) để hưởng lợi từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng. Do sự tăng trưởng nhanh chóng trong lĩnh vực sản xuất nên chất lượng không khí ở Việt Nam không cao. Vì thế, cần có lộ trình rõ ràng để giảm lượng khí thải carbon giúp tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu và thu hút FDI của Việt Nam.

Phát triển bền vững và công nghệ hóa là những ưu tiên chiến lược của Chính phủ Việt Nam với trọng tâm cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 và số hóa với Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Tại Hội nghị COP26 vào tháng 11/2020, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết về việc Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Đây là một thách thức rất lớn, nhưng đồng thời, cũng là cơ hội để Việt Nam thực hiện cải cách mạnh mẽ, tái cơ cấu nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững, tăng dần tỉ trọng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo trong việc phát triển nền kinh tế, đồng thời, đảm bảo thực thi tiêu chuẩn ESG. Trong quá trình này, sự đồng hành và chia sẻ của các tổ chức quốc tế, tổ chức tín dụng, ngân hàng nước ngoài có ý nghĩa quan trọng, không chỉ ở góc độ tư vấn chính sách, chia sẻ kinh nghiệm cho các cơ quan quản lí nhà nước mà còn trong việc hỗ trợ nguồn tài chính và nguồn vốn trực tiếp cho các nhà đầu tư dự án xanh hướng tới phát triển bền vững. Thỏa thuận Hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng (Just Energy Transition Partnership - JETP) và Kế hoạch huy động nguồn lực được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính công bố tại Hội nghị COP28 sẽ đảm bảo việc hiện thực hóa kế hoạch huy động nguồn lực thành các cơ hội đầu tư và tuân thủ ESG, từ đó, thực sự mang lại tác động cho nền kinh tế Việt Nam.

Ngành Ngân hàng Việt Nam sẽ có những bước phát triển tích cực trong năm 2024. Chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện góp phần tạo môi trường kinh tế ổn định và kiểm soát lạm phát. Theo nhận định của chúng tôi, lãi suất tái cấp vốn có thể được giữ ở mức 4,5% cho đến cuối quý III/2024 trước khi tăng 50 điểm cơ bản trong quý IV/2024, tuy nhiên, tỉ lệ này có thể giảm. Những nỗ lực kiểm soát lạm phát và đảm bảo ổn định tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế. Sự ổn định của ngành Ngân hàng cho thấy cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và phát triển.

Bối cảnh phương tiện thanh toán phát triển nhanh chóng, cùng với sự phát triển của nền tảng thanh toán qua bên thứ ba và Fintech cũng như môi trường pháp lí thay đổi sẽ tiếp tục tạo ra nhiều thách thức cho hoạt động ngân hàng, đồng thời sẽ mang đến nhiều cơ hội hợp tác và phát triển. Thực tế cho thấy, thông qua việc đổi mới liên tục và tăng cường mở rộng hợp tác sẽ tạo ra sự kết nối và hội nhập rộng rãi hơn, giúp Việt Nam đạt được sự tăng trưởng bền vững và mạnh mẽ trong tương lai.

3. Một số khuyến nghị

Đối với Chính phủ

Một là, ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng: Đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm (đặc biệt là logistics) để tận dụng cơ hội từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng, góp phần tạo ra nhiều việc làm mới và tăng cường kết nối trong nước.

Hai là, thúc đẩy đổi mới và công nghệ hóa: Hỗ trợ các sáng kiến thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ, khuyến khích đổi mới và tăng cường áp dụng công nghệ số để tăng năng suất và khả năng cạnh tranh.


Ba là, phát triển bền vững: Thiết lập khuôn khổ pháp lí và cơ chế chính sách thúc đẩy thực thi ESG nhằm tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững, đồng thời, đạt được mức phát thải carbon ròng bằng "0" vào năm 2050.


Bốn là, tăng cường giáo dục và đào tạo kĩ năng: Tập trung cải thiện hệ thống giáo dục và các chương trình đào tạo nghề để trang bị cho lực lượng lao động những kĩ năng cần thiết cho các ngành nghề, lĩnh vực mới nhằm bắt kịp xu hướng trên thế giới, giúp cho lực lượng lao động có khả năng cạnh tranh và thích ứng cao hơn.

Năm là, tiếp tục nỗ lực thúc đẩy tài chính toàn diện nhằm đảm bảo một bộ phận lớn dân số có thể tiếp cận các dịch vụ và tín dụng ngân hàng, thúc đẩy sự tham gia kinh tế và giảm bất bình đẳng về thu nhập; tăng cường mạng lưới an sinh xã hội để hỗ trợ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, đảm bảo phát triển kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các thành phần xã hội.


Sáu là, hợp tác khu vực: Tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực và các đối tác quốc tế để thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại và ổn định khu vực.

Đối với NHNN

Một là, tăng cường khuôn khổ pháp lí và cơ chế chính sách, góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và từng bước tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Các ngân hàng Việt Nam cần cam kết đồng hành, phối hợp cùng NHNN khi được đề nghị hỗ trợ, hoặc khi có các vấn đề mới phát sinh.


Hai là, về chuyển đổi xanh, NHNN cần tiếp tục đẩy mạnh huy động nguồn lực thúc đẩy tài chính xanh - bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu.


Ba là, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và chuyển đổi số. Các ngân hàng thương mại cần tích cực tham gia vào việc phát triển chiến lược số hóa toàn diện, phát triển các hệ thống thanh toán hiệu quả, thúc đẩy khả năng tiếp cận tài chính mạnh mẽ và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.


Bốn là, giám sát và điều hành chính sách chủ động, linh hoạt; thường xuyên đánh giá tác động của các chính sách được thực hiện, thu thập phản hồi từ các ngân hàng thương mại và các bên liên quan, đồng thời, linh hoạt điều chỉnh các chính sách dựa trên các tác động kinh tế và xã hội.

Triển vọng trung hạn của nền kinh tế Việt Nam rất hứa hẹn nhờ những chính sách cởi mở và ổn định. Việt Nam đang lấy lại động lực phục hồi và phát triển với các triển vọng bên ngoài được cải thiện và những dấu hiệu phục hồi kinh tế vĩ mô tích cực. Ngân hàng Standard Chartered cam kết hợp tác với Chính phủ Việt Nam và NHNN để đạt được một nền kinh tế phát triển bền vững.

Michele Wee

Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Từ “thế trận lòng dân” đến “thế trận số” - Sức mạnh mới của Đảng trong kỷ nguyên số hiện nay (Kỳ 3)

Trong bối cảnh không gian mạng trở thành phần tất yếu của đời sống xã hội, việc xây dựng “thế trận số” vững chắc và chủ động làm chủ truyền thông số là yêu cầu chiến lược để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và lan tỏa các giá trị đúng đắn, tích cực trong xã hội.
Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Giữ vững niềm tin trước “bão” thông tin sai lệch (Kỳ 2)

Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển bùng nổ của công nghệ, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đối diện với thách thức chưa từng có từ những “cơn bão” thông tin sai lệch, xuyên tạc trên môi trường số.
Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Không gian số - Mặt trận mới trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (Kỳ 1)

Trong kỷ nguyên số, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp thiết và mang tính chiến lược hơn, đòi hỏi tư duy đổi mới, cách tiếp cận hệ thống, gắn kết giữa “xây” và “chống”, giữa “thế trận lòng dân” và “thế trận số”.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 5)

Bài toán về nguồn nhân lực số không chỉ là thách thức cấp bách đối với ngành giáo dục, mà còn là mối trăn trở của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nóng bỏng từng ngày. Để giải được bài toán này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược và tổng thể: Quy hoạch nguồn nhân lực, thúc đẩy hợp tác quốc tế, cải cách giáo dục, đổi mới khu vực công, biến doanh nghiệp thành “trường học” và vun đắp văn hóa học tập suốt đời.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 4)

Từ việc xác định đào tạo là khâu đột phá chiến lược, lồng ghép vào quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương đến việc xây dựng mô hình tổ chức Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển nhân lực; từ công tác giám sát chặt chẽ, chống bệnh hình thức đến việc kết hợp hài hòa giữa giáo dục đạo đức, tư tưởng và đào tạo chuyên môn - tất cả tạo nên một cơ chế đồng bộ, hướng tới mục tiêu chung: Xây dựng con người Việt Nam toàn diện cho kỷ nguyên số!
Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Vận dụng quan điểm khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Quan điểm khách quan trong triết học Mác - Lênin không chỉ là yêu cầu nhận thức đúng về thế giới hiện thực, mà còn là nguyên tắc phương pháp luận định hướng hành động thực tiễn. Vận dụng quan điểm này trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng giúp bảo đảm cho các chính sách, quy định pháp luật phản ánh trung thực thực tế khách quan, phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao tính khoa học, tính khả thi và tính ổn định của hệ thống pháp luật ngân hàng.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 3)

Đã đến lúc chúng ta phải chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy về giáo dục và đào tạo: Từ việc coi đào tạo chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục, cần nhìn nhận đây là một chiến lược quốc gia, mang tầm ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Giáo dục không thể dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải hướng tới phát triển năng lực toàn diện, khơi dậy tinh thần sáng tạo và bản lĩnh hội nhập của người học. Phương pháp giảng dạy cũng phải được đổi mới căn bản - từ lối truyền đạt thụ động sang mô hình đào tạo gắn chặt với thực tiễn đời sống, với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Xây dựng nhân lực quốc gia trong kỷ nguyên số: Từ thách thức đến bứt phá (Kỳ 2)

Việt Nam đang đứng trước một “cơn khát kép” về nguồn nhân lực: Vừa khát về số lượng, vừa khát về chất lượng. Điểm sáng và khoảng trống đan xen tạo nên một bức tranh nhiều gam màu. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, nguy cơ tụt hậu so với khu vực là hiện hữu.
Xem thêm
Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả hoạt động cấp tín dụng cho hộ kinh doanh tại Việt Nam

Các quy định hiện hành về hộ kinh doanh đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển về quy mô và năng lực sản xuất, cung cấp các tiền đề cần thiết giúp thu hẹp khoảng cách giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hộ kinh doanh vẫn đang gặp phải một số rào cản trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Để tháo gỡ những vướng mắc này cần có sự kết hợp đồng bộ từ phía cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tín dụng (TCTD) và bản thân hộ kinh doanh. Việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp không chỉ giải quyết được bài toán vốn cho hộ kinh doanh mà còn thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon của EU và hàm ý chính sách cho hệ thống ngân hàng - tài chính Việt Nam

Cơ chế định giá carbon là một trong những công cụ chính sách then chốt nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải, đồng thời tạo động lực thị trường cho đổi mới công nghệ xanh và chuyển đổi năng lượng...
Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản: Cân bằng giữa ổn định tài chính và tăng trưởng thị trường

Chính sách tín dụng bất động sản luôn có độ nhạy cao, tác động trực tiếp đến thị trường tài chính, tâm lý nhà đầu tư và tốc độ phục hồi của các ngành liên quan. Nếu triển khai quá nhanh, có thể gây sốc thanh khoản và làm chậm đà tăng trưởng tín dụng; nhưng nếu quá chậm, nguy cơ đầu cơ và bong bóng giá có thể quay trở lại.
Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số

Ngày 30/10/2025, tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Tọa đàm “Tiết kiệm - Sức mạnh nội sinh trong kỷ nguyên số”. Sự kiện được tổ chức nhân dịp Ngày Tiết kiệm Thế giới (31/10), với sự tham dự của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Trần Lan Phương; các chuyên gia kinh tế - tài chính trong nước và quốc tế, đại diện các tổ chức tài chính, cơ quan báo chí, cùng đông đảo đại biểu quan tâm. Ngày Tiết kiệm Thế giới nhằm khuyến khích thói quen tiết kiệm rộng rãi trong dân chúng và nâng cao nhận thức về vai trò của tiết kiệm trong phát triển xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh nguồn lực toàn cầu, áp lực lãi suất quốc tế, và xu hướng dịch chuyển vốn…, việc bồi đắp nội lực tài chính nội địa càng trở nên cấp thiết.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn chuyển đổi số và tài chính bền vững tại khu vực Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Ninh

Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù khu vực Tây Yên Tử là hướng đi đúng đắn nhằm khai thác tiềm năng tự nhiên - văn hóa của địa phương gắn với xu thế chuyển đổi số và tài chính xanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các hợp tác xã du lịch cộng đồng đã hình thành và tạo dấu ấn ban đầu, song khu vực này vẫn đối mặt với nhiều thách thức về hạ tầng, nguồn vốn, nhân lực và công nghệ.
Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Sự tái định hình của hệ thống tiền tệ toàn cầu: Từ chu kỳ suy yếu của đô la Mỹ đến tương lai “đa cực hạn chế”

Chu kỳ suy yếu hiện nay của USD không chỉ mang tính ngắn hạn do chênh lệch lãi suất hay thương mại, mà phản ánh những thay đổi mang tính cấu trúc của nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối cảnh thế giới nhiều khả năng bước vào giai đoạn “đa cực hạn chế”, chiến lược thích ứng của các nền kinh tế đang phát triển cần cân bằng giữa ổn định vĩ mô và đa dạng hóa hợp lý...
Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết phân tích quá trình hiện đại hóa dịch vụ giao dịch ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Lào trong bối cảnh chuyển đổi số. Thông qua việc tích hợp sâu rộng dịch vụ ngoại tệ vào nền tảng số BCEL One và đa dạng hóa các sản phẩm, ngân hàng này đã đạt được những kết quả ấn tượng, được phản ánh rõ nét qua sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng khách hàng, khối lượng giao dịch và doanh thu từ kênh số.
Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Nghiên cứu quy định về thư tín dụng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ

Trong bối cảnh hội nhập pháp lý quốc tế ngày càng sâu rộng và yêu cầu chuẩn hóa các chuẩn mực nghiệp vụ ngân hàng theo thông lệ quốc tế, việc ban hành Thông tư số 21/2024/TT-NHNN đã thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận của NHNN trong việc xây dựng hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử: Nghiên cứu tại Ngân hàng Ngoại thương Lào

Phần lớn các nghiên cứu trước đây về chấp nhận và phát triển ngân hàng điện tử được thực hiện tại các quốc gia phát triển hoặc có nền tảng hạ tầng số vững chắc. Trong khi đó, tại một quốc gia đang phát triển như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, với đặc thù văn hóa tập thể, trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế - xã hội riêng biệt, các yếu tố then chốt có thể khác biệt đáng kể. Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trên bằng cách kiểm định một mô hình nghiên cứu tích hợp, kế thừa các yếu tố truyền thống và bổ sung các biến số đặc thù phù hợp với bối cảnh của CHDCND Lào.
Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Quản lý rủi ro tài sản số tại các ngân hàng: Kinh nghiệm từ các thị trường phát triển và bài học cho Việt Nam

Tài sản số đang tái định hình hệ thống tài chính toàn cầu với tốc độ nhanh chóng, đặt ra thách thức lớn trong việc quản lý rủi ro khi sử dụng chúng làm tài sản bảo đảm. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính phải xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế định giá đáng tin cậy, cùng hệ thống giám sát hiệu quả nhằm bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro và duy trì ổn định tài chính.

Thông tư số 27/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền

Thông tư số 25/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư số 17/2024/TT-NHNN ngày 28/6/2024 quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

Thông tư số 26/2025/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 62/2024/TT-NHNN quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 24/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 63/2024/TT-NHNN quy định về hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hồ sơ, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng

Quyết định số 2977/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1158/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 5 năm 2018 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 23/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2019/TT-NHNN ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 22/2025/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về giám sát tiêu hủy tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 20/2025/TT-NHNN hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng phi ngân hàng

Thông tư số 19/2025/TT-NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính vi mô

Thông tư số 18/2025/TT-NHNN quy định về thu thập, khai thác, chia sẻ thông tin, báo cáo của Hệ thống thông tin phục vụ công tác giám sát hoạt động quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô