Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến hệ thống ngân hàng Việt Nam

Hoạt động ngân hàng
Sự phát triển của nhân loại trong hơn ba thế kỉ qua chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những thay đổi từ các cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN). Cũng như ba cuộc CMCN trước, cuộc CMCN lần thứ tư (CMCN 4.0) đang tạo ra thời cơ mới cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
aa

Tóm tắt: Sự phát triển của nhân loại trong hơn ba thế kỉ qua chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những thay đổi từ các cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN). Cũng như ba cuộc CMCN trước, cuộc CMCN lần thứ tư (CMCN 4.0) đang tạo ra thời cơ mới cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, đi cùng với cuộc cách mạng này là những tác động tích cực lẫn tiêu cực đến đời sống kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng. Bài viết đưa ra những tác động của CMCN 4.0 đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ đó, đưa ra một số giải pháp để hệ thống ngân hàng Việt Nam thích ứng với CMCN 4.0.

Từ khóa: CMCN 4.0; công nghệ hiện đại; hệ thống ngân hàng.

CMCN 4.0 ra đời trên cơ sở nền tảng của CMCN lần thứ ba, trọng tâm là các phát minh, phát kiến và sự kết hợp của ba xu hướng lớn: Vật lí, số hóa và sinh học, hay nói cách khác, đó là sự kết hợp của ba thế giới: Thế giới vật chất, thế giới ảo (thế giới số) và thế giới sinh vật. Tương tự như CMCN lần thứ ba, CMCN 4.0 cũng được dự đoán có ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu rộng đến các quốc gia trên thế giới.

Việt Nam cũng chịu sự tác động của CMCN 4.0 nhưng có lẽ lĩnh vực chịu tác động nhiều nhất là các hoạt động kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng. Trong những năm qua, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới, trưởng thành và lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của CMCN 4.0 thì hệ thống ngân hàng Việt Nam còn chịu nhiều thách thức và cần có các giải pháp ứng phó kịp thời.

1. Tác động của CMCN 4.0 đến hệ thống ngân hàng Việt Nam

Những tác động tích cực

Thứ nhất, đối với hoạt động hệ thống ngân hàng, CMCN 4.0 sẽ mang lại cơ hội lớn cho các ngân hàng trong việc ứng dụng mô hình quản trị thông minh của trí tuệ nhân tạo (AI) và tự động hóa trong quy trình nghiệp vụ. Đồng thời, CMCN 4.0 sẽ giúp các ngân hàng chuyển đổi các dịch vụ cung ứng của mình từ chủ yếu xử lí thủ công sang môi trường giao dịch điện tử. Theo đó, các ngân hàng phải gia tăng tính chính xác, kịp thời (ứng dụng công nghệ để cải thiện năng lực phân tích, dự báo); tăng tính khách quan, minh bạch và giải trình (hiện đại hóa các thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ số trong quản trị điều hành, tự động hóa một số khâu trong quy trình nghiệp vụ).

Thứ hai, đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, những tiến bộ từ CMCN 4.0 là bàn đạp giúp các ngân hàng trong nước phát triển và cạnh tranh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Ảnh hưởng của CMCN 4.0 mà cụ thể là Internet di động, điện toán đám mây, lưu trữ dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT) sẽ giúp các ngân hàng trong nước định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị, hướng tới việc xây dựng các ngân hàng kĩ thuật số thông minh trong tương lai.

Một số thách thức

Một là, tác động đến khuôn khổ pháp lí. CMCN 4.0 đòi hỏi chúng ta phải thay đổi khuôn khổ pháp lí và cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng số để đáp ứng yêu cầu thực tế. Bởi vì, việc sử dụng chứng từ điện tử và dữ liệu điện tử thay thế chứng từ giấy cho quan hệ thanh toán giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và khách hàng cần phải được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật. Mặc dù hiện nay hành lang pháp lí được tích cực bổ sung và hoàn thiện, tuy nhiên, còn nhiều nội dung chưa được pháp luật hiện hành hỗ trợ nên các quy chế nghiệp vụ mới đôi khi chỉ dừng lại trong phạm vi pháp luật hiện hành cho phép, không phù hợp với phương thức giao dịch điện tử, làm hạn chế khả năng tận dụng thế mạnh công nghệ mới của hệ thống ngân hàng, vì thế, cần hoàn thiện hành lang pháp lí đối với hoạt động ngân hàng.

Hai là, tác động đến chính sách tiền tệ, kiểm soát dòng tiền và an toàn hoạt động toàn hệ thống. Trong tương lai, sự phát triển của công nghệ thông tin có thể dẫn tới một hệ thống tiền tệ toàn cầu với những giao dịch điện tử diễn ra theo thời gian thực và do đó, các ngân hàng trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát hệ thống tiền tệ quốc gia. Đặc biệt, ngân hàng trung ương không thể kiểm soát lượng cung tiền của nền kinh tế trong trường hợp tổ chức phát hành tiền điện tử là các định chế tài chính phi ngân hàng tại nước ngoài. Mặt khác, do xu hướng thâm nhập giữa các công ty công nghệ tài chính (Fintech) vào lĩnh vực ngân hàng kéo theo sự phát triển và khả năng xâm chiếm của hoạt động ngân hàng ngầm, đặc biệt đối với các hoạt động thanh toán phi truyền thống (cổng thanh toán điện tử, ví điện tử, thanh toán do công ty viễn thông cung cấp...). Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong việc quản lí cấp phép, giám sát hoạt động cũng như kiểm soát dòng tiền thanh toán từ các tổ chức này.

Ba là, tác động đến hạ tầng thanh toán, mô hình kinh doanh và quản trị. Cơ sở hạ tầng thanh toán đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của dịch vụ ngân hàng mới, đặc biệt là các sản phẩm thanh toán ứng dụng công nghệ cao như ví điện tử, ví ảo (Virtual Wallets)... Một cơ sở hạ tầng mạnh sẽ đảm bảo các giao dịch được diễn ra nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các khách hàng, tiết kiệm chi phí thanh, quyết toán. Hiện nay, hệ thống thanh toán của Việt Nam vẫn còn tồn tại cấu phần chưa được tập trung, hạn chế trong công nghệ. Bên cạnh đó, sự dịch chuyển tất yếu từ số hóa đơn giản sang thông minh hóa dựa trên công nghệ hiện đại buộc các ngân hàng trong nước phải điều chỉnh để phù hợp với xu hướng quản trị thông minh, mô hình ngân hàng di động, ngân hàng số... Hiện nay, trên thực tế, 100% các ngân hàng trong nước đều áp dụng phương pháp quản trị tập trung dựa trên hệ thống ngân hàng lõi (Core Banking), tuy nhiên, sự phát triển không đồng đều về công nghệ giữa các ngân hàng đã cản trở việc ứng dụng các vấn đề nghiệp vụ mang tính toàn Ngành. Nhiều ngân hàng đã đạt được trình độ công nghệ tiên tiến nhưng không ít ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ và vừa đang phải sử dụng vận hành những hệ thống thiếu đồng bộ, trình độ công nghệ ở mức thấp.

Bốn là, tác động đến các kênh phân phối, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, vấn đề bảo mật thông tin và an ninh mạng. Những thay đổi lớn về nhu cầu của người tiêu dùng buộc các ngân hàng phải điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị, phân phối sản phẩm và dịch vụ của mình. Khách hàng thời đại CMCN 4.0 sẽ khó tính hơn, đòi hỏi nhiều lựa chọn hơn, được tiếp cận dễ dàng hơn với các phương thức phân phối; dịch vụ chất lượng, nhanh chóng, hiệu quả hơn; có quyền kiểm soát nhiều hơn trong các giao dịch và không còn bị lệ thuộc vào số lượng hạn chế các nhà cung cấp dịch vụ. Điều khách hàng cần là tiện ích của cả dịch vụ ngân hàng, khả năng thanh toán được tích hợp trên cùng một thiết bị. Điều này cho phép người dùng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng tại bất cứ nơi nào, bất cứ thời gian nào. Tuy nhiên, sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số kéo theo sự gia tăng những lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao, tin tặc (hackers) tấn công các ngân hàng Việt Nam. Xu hướng sử dụng mạng xã hội, điện thoại thông minh kéo theo sự thay đổi trong hành vi của khách hàng khiến các ngân hàng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ thông tin. Sự phát triển của dịch vụ thẻ ngân hàng có thể xem là lĩnh vực phát triển năng động nhất trong các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy nhiên, công nghệ càng hiện đại, càng phải đối mặt với những rủi ro khôn lường. Ngoài việc làm tê liệt mọi giao dịch của ngân hàng, loại tội phạm công nghệ cao luôn rình rập tấn công vào tài khoản, làm giả phôi thẻ và ăn cắp tiền của khách hàng, các hackers còn có thể tấn công trực diện vào hệ thống thông tin của ngân hàng.

2. Một số giải pháp chủ yếu để hệ thống ngân hàng Việt Nam thích ứng với CMCN 4.0

Thứ nhất, NHNN cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lí cho hệ thống ngân hàng. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lí để điều chỉnh các dịch vụ công nghệ và các nhà cung ứng dịch vụ mới, hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử, các phương tiện thanh toán mới. Khi xây dựng cơ chế và khuôn khổ pháp lí phải tính đến tác động của CMCN 4.0, đảm bảo tính rõ ràng để cho phép thành lập các tổ chức xử lí bù trừ tập trung các giao dịch thanh toán trên nguyên tắc cạnh tranh, tạo cơ sở phát triển thanh toán trên bề rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán. Đồng thời, phải xây dựng một nhận thức chung trong toàn xã hội đối với những thay đổi nhanh chóng do CMCN 4.0 mang tới. Mặt khác, cần tăng cường nâng cao nhận thức của các cơ quan hoạch định chính sách, cũng như hệ thống ngân hàng về CMCN 4.0 để giúp điều chỉnh kế hoạch kinh doanh và đầu tư nhằm tránh các khoản đầu tư sai, qua đó, giúp ngăn ngừa các khoản nợ xấu phát sinh trong tương lai.

Thứ hai, đẩy mạnh đổi mới và ứng dụng các công nghệ hiện đại. Đối với NHNN, tiếp tục hoàn thiện kết cấu cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin hiện đại, thực hiện tự động hóa các quy trình nghiệp vụ, phát triển dịch vụ hậu cần thông minh thông qua việc ứng dụng công nghệ số. Cấu trúc lại hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS) theo hướng chuyển đổi mô hình từ phân tán sang xử lí tập trung. Đối với các tổ chức tín dụng, cần phát triển những giải pháp công nghệ thông tin mới, trong đó nhấn mạnh khả năng tích hợp các công nghệ hiện đại như hệ thống cảm biến, hệ thống điều khiển, mạng truyền thông, các ứng dụng kinh doanh, chăm sóc khách hàng; ứng dụng quản trị thông minh AI trong quản trị quan hệ khách hàng và quản trị rủi ro, quản lí văn bản, kế toán quản trị, quản lí nguồn vốn, quản lí dự án và phân tích hiệu quả đầu tư, quản trị nhân sự; xây dựng trung tâm chăm sóc khách hàng điện tử; cổng thông tin điện tử tích hợp các dịch vụ điện tử trên mạng Internet. Đồng thời, các ngân hàng cần tận dụng một cách triệt để công nghệ thông tin trên nền tảng điện toán đám mây để giải quyết nhanh các nhu cầu phát sinh về tài nguyên công nghệ thông tin.

Thứ ba, tối ưu hóa mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và tăng cường ứng dụng chuỗi cung ứng thông minh. Các ngân hàng cần nâng cấp đầu tư phát triển công nghệ hiện đại có khả năng liên kết trong hệ thống, để nâng cao năng lực trước xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh việc tối ưu hóa mô hình kinh doanh thông qua việc thiết kế các trải nghiệm trực tuyến cho chính khách hàng, các ngân hàng cần phải phát triển các phương thức thanh toán di động, trong đó có ví điện tử và các giải pháp không dùng thẻ. Như vậy, đứng trước kỉ nguyên CMCN 4.0, các ngân hàng trong nước cần nhanh chóng hoạch định chiến lược, tìm kiếm những giải pháp toàn diện cho dịch vụ ngân hàng thông qua sử dụng các dữ liệu thông minh và sự hợp tác với nhiều ngành kinh doanh. Theo đó, các ngân hàng Việt Nam cần áp dụng sản phẩm, dịch vụ qua giao diện kĩ thuật số như web, điện thoại di động, máy tính bảng... qua đó, cải thiện tỉ lệ đăng kí sử dụng sản phẩm mới; đồng thời nâng cao tỉ suất lợi nhuận cho khoản đầu tư vào các công nghệ nền tảng của ngân hàng.

Thứ tư, đẩy mạnh dịch vụ ngân hàng điện tử và quản lí an ninh mạng. Các ngân hàng cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng trung tâm dự phòng dữ liệu (Disaster Recovery); nâng cấp hệ thống an ninh, bảo mật ở mức cao, đảm bảo việc mở rộng phạm vi hoạt động (nếu có) được ổn định, an toàn, mang lại hiệu quả lâu dài. Đồng thời, NHNN cần tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn cho hệ thống thanh toán quốc gia; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chức năng, tăng cường các quy định và biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật, phát hiện đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lí các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thanh toán thẻ, ATM, POS và các phương thức thanh toán sử dụng công nghệ cao. Song song đó, NHNN cũng cần giám sát thận trọng luồng tiền phát sinh trong các hoạt động thanh toán xuyên biên giới, thanh toán quốc tế; các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới.

Thứ năm, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ngành Ngân hàng. NHNN và các tổ chức tín dụng cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ, nhất là cán bộ nghiệp vụ NHNN phải được đào tạo đầy đủ khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, phương thức làm việc tiên tiến, có năng lực đề xuất, tham mưu xây dựng chiến lược, định hướng, chính sách, chế độ, thực hiện quản lí nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trong thời gian tới, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin tại các tổ chức tín dụng để đáp ứng nhu cầu quản trị vận hành và làm chủ các hệ thống công nghệ hiện đại. Kết hợp đào tạo nâng cao trình độ, khảo sát công nghệ hiện đại trong nước và quốc tế, thực hiện các chế độ đãi ngộ chuyên gia.

CMCN 4.0 đang diễn ra với tốc độ nhanh theo cấp số nhân đã làm thay đổi bối cảnh toàn cầu và có tác động ngày một gia tăng đến Việt Nam, cả tác động tích cực cũng như tạo ra nhiều thách thức. Nếu tận dụng tốt cơ hội, Việt Nam có khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước tiên tiến và sớm thực hiện được mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình cao. Trong trường hợp ngược lại, khoảng cách phát triển với các nước đi trước sẽ tiếp tục gia tăng. Thực hiện một số giải pháp chủ yếu nêu trên và với sự nỗ lực của ngành Ngân hàng, trong thời gian tới, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, sánh vai với các ngân hàng trong khu vực và quốc tế.

Tài liệu tham khảo:

1. Hoàng Duy (2017), Thấy gì qua thương mại điện tử xuyên biên giới, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.

2. Trần Hồng Quang, Nguyễn Hồng Hà (2016), CMCN 4.0 và dự báo tác động đến nền kinh tế Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.

3. Lê Quốc Lý (2010), Chính sách kinh tế, tài chính và tiền tệ ở Việt Nam trong thời kì đổi mới (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị

Hành chính.

4. Lê Bảo Long (2016), Dưới ảnh hưởng của CMCN 4.0: Những ai phải lo?, Báo Tuổi trẻ cuối tuần.

5. Đường Thị Thanh Hải (2015), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Tài chính.

6. Hải Minh (2017), CMCN 4.0: Đảo lộn tất cả, Báo Tuổi trẻ cuối tuần.

7. Phạm Thị Bích Ngọc (2017), CMCN 4.0 làn sóng làm thay đổi cả thế giới, Tạp chí Con số sự kiện.

8. Nguyễn Xuân Thạch (2015), Thẻ ngân hàng - Những rủi ro, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán.

9. Phạm Chí Trung (2016), CMCN 4.0 và những hàm ý chính sách đối với Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ.

Phạm Ngọc Hòa

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Đồng Tháp


https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm 2025 - Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đầu năm 2025 trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, cho thấy tín dụng phục hồi tích cực ở các lĩnh vực sản xuất, công nghiệp và logistics nhưng vẫn còn thách thức như tăng trưởng chưa đồng đều và rủi ro nợ xấu. Dựa trên chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, nhóm tác giả đưa ra khuyến nghị về ổn định lãi suất, định hướng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả điều hành tín dụng và tăng trưởng bền vững.
Xem thêm
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Tín dụng tăng trưởng “tiếp sức” nền kinh tế hiệu quả

Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành đồng bộ các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng