Sức sống mới nơi non nước xứ Mường

Hoạt động ngân hàng
Vào những ngày đất nước sang xuân mới Nhâm Dần, chúng tôi đến với non nước xứ Mường, nơi có dòng sông Đà huyền thoại và nền văn hóa Hòa Bình đậm hồn thiêng sông núi. Hòa Bình giờ đã đổi thay nhiều, đời sống văn minh, phố thị ngăn nắp, thanh bình và nhân ái.
aa



Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình Ngô Văn Tuấn phát biểu tại buổi làm việc với Đoàn công tác NHCSXH

Vào những ngày đất nước sang xuân mới Nhâm Dần, chúng tôi đến với non nước xứ Mường, nơi có dòng sông Đà huyền thoại và nền văn hóa Hòa Bình đậm hồn thiêng sông núi. Hòa Bình giờ đã đổi thay nhiều, đời sống văn minh, phố thị ngăn nắp, thanh bình và nhân ái. Ngay cả ở những nơi rẻo cao, núi sâu, người Mường cùng đồng bào các dân tộc Tày, Thái, Dao, Mông cũng dần vượt qua nghèo đói, bừng bừng khí thế phát triển kinh tế cùng với nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội. Câu chuyện giảm nghèo phát triển bền vững đang hứa hẹn có thêm những đột phá mới từ sự quan tâm đặc biệt và đồng hành của Tỉnh cùng Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Hòa Bình, giai đoạn 2022 - 2030.



Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng phát biểu tại buổi làm việc với Tỉnh ủy Hòa Bình

Chia sẻ với Đoàn công tác của NHCSXH do Ủy viên Hội đồng quản trị (HĐQT) - Tổng Giám đốc Dương Quyết Thắng làm Trưởng đoàn trong buổi làm việc với Tỉnh ủy Hòa Bình, Phó Chủ tịch Thường thực Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hòa Bình kiêm Trưởng ban đại diện HĐQT Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hòa Bình Nguyễn Văn Toàn cho biết, là tỉnh miền núi, cửa ngõ vùng Tây Bắc, có vị trí địa lý quan trọng, là vùng đệm trung gian tiếp nối giữa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ với vùng núi cao miền Tây Bắc của Tổ quốc, là nơi sinh sống của 6 dân tộc, trong đó, người Mường chiếm 63,3%, những năm qua, công cuộc giảm nghèo của Tỉnh có sự góp sức trọng yếu của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hòa Bình. Khi mới thành lập năm 2003, từ 3 chương trình tín dụng nhận bàn giao ban đầu với tổng dư nợ hơn 206 tỷ đồng, đến nay trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đang triển khai thực hiện 19 chương trình tín dụng chính sách với tổng dư nợ đến ngày 31/12/2021 đạt trên 3.625 tỷ đồng, với 120.947 khách hàng đang còn dư nợ, gấp 16,6 lần so với khi mới thành lập.

Gần 600 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn tại Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hòa Bình kể từ khi mới thành lập đến nay, với tổng doanh số cho vay đạt 10.521 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã thực sự phát huy hiệu quả trong đời sống khi tạo và duy trì việc làm cho gần 46 nghìn lao động; hơn 1,3 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; gần 32 nghìn lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn trang trải chi phí học tập; cho vay hỗ trợ xây dựng, cải tạo gần 179 nghìn công trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; xây dựng, sửa chữa gần 21,5 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo; 10 người sử dụng lao động được vay vốn để trả lương ngừng việc cho 1.462 lượt người lao động do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19...

Thành viên Ban chỉ đạo giảm nghèo Quốc gia - Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng ghi nhận một trong những điểm tựa tạo nên thành quả hoạt động tín dụng chính sách xã hội 20 năm qua đó là sự quan tâm, vào cuộc của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh Hòa Bình từ việc đề ra nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, giảm nghèo, cho đến luôn quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi, chủ động xem xét, giải quyết các đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả triển khai tín dụng chính sách xã hội và hoạt động của NHCSXH trên địa bàn.



Toàn cảnh buổi làm việc Đoàn công tác NHCSXH với Tỉnh ủy Hòa Bình

Đặc biệt, từ sau khi Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội và Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW được ban hành, Tỉnh ủy Hòa Bình đã ban hành một công văn riêng để triển khai. UBND tỉnh cũng đã ban hành kế hoạch để hiện thực hóa, trong đó chỉ đạo UBND tỉnh, huyện, thành phố quan tâm chuyển vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH thực hiện cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn.

Mới đây, thực hiện Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình cũng đã nhanh chóng ban hành Kết luận, từ đó UBND tỉnh đã xây dựng và ban hành kế hoạch và công văn triển khai thực hiện. Theo đó, sẽ tập trung các nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn có tính chất từ thiện và các nguồn vốn hợp pháp khác vào chi nhánh NHCSXH tỉnh; hằng năm, cân đối, ưu tiên bố trí nguồn vốn từ ngân sách các cấp ủy thác sang NHCSXH trong giai đoạn 2022 - 2030, mỗi năm tối thiểu 32 tỷ đồng để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác... Thông qua việc tham gia quản trị NHCSXH của Ban đại diện HĐQT NHCSXH các cấp, lãnh đạo các cơ quan quản lý Nhà nước của tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội đã gắn kết các công việc chuyên môn của ngành, của địa phương với việc thực hiện các chương trình tín dụng chính sách, thực hiện gắn kết trực tiếp, toàn diện hoạt động tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, góp phần quan trọng quyết định hiệu quả tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn.

Hiệu quả của những trợ lực này có thể thấy rõ trong từng hoạt động của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hòa Bình, như nguồn vốn nhận ủy thác tại địa phương đạt trên 61 tỷ đồng, tăng 55 tỷ đồng so với trước khi có Chỉ thị số 40-CT/TW, góp phần đưa tổng nguồn vốn tín dụng đến hết năm 2021 đạt 3.635 tỷ đồng, gấp 16,6 lần so với khi mới thành lập năm 2003. Chất lượng hoạt động tín dụng chính sách không ngừng được củng cố, nâng lên. Đến ngày 31/12/2021, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh chiếm 0,13% tổng dư nợ, giảm 3,7% so với thời điểm nhận bàn giao.

“Hoạt động tín dụng chính sách xã hội góp phần tích cực vào việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững với tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021 theo chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 giảm từ 36,14% xuống còn 15,21% so với đầu giai đoạn. Hiệu quả hoạt động của NHCSXH trong thời gian qua đã khắc phục các hạn chế của chính sách hỗ trợ cho không, tạo chuyển biến cơ bản về nhận thức của người nghèo, từ mặc cảm, tự ti, ỷ lại, sợ vay vốn không biết cách sử dụng vốn đến ý thức vươn lên thoát nghèo làm giàu chính đáng. Mặt khác, hoạt động tín dụng chính sách xã hội đã góp phần đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn, tạo niềm tin của người dân đối với chính quyền địa phương”, Bí thư Tỉnh ủy Ngô Văn Tuấn ghi nhận.

Tuy nhiên, dự báo năm 2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2022 - 2025 của tỉnh Hòa Bình còn cao (hộ nghèo 15,49%; hộ cận nghèo 10,65%). Mặc dù tỉnh Hòa Bình đã có kế hoạch dành nguồn vốn ngân sách tối thiểu 32 tỷ đồng/năm ủy thác qua Chi nhánh NHCSXH tỉnh cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách, song Bí thư Tỉnh ủy Ngô Văn Tuấn cũng cho biết, nhu cầu vay vốn tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn tỉnh rất lớn. Vì vậy, ông Ngô Văn Tuấn đề nghị NHCSXH Trung ương quan tâm bố trí nguồn vốn tăng trưởng từ 12% - 15%/năm trong giai đoạn 2022 - 2025, đặc biệt là nguồn vốn cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm để kịp thời đáp ứng nhu cầu vay vốn của các đối tượng thụ hưởng trên địa bàn.

Ghi nhận những ý kiến đề xuất của tỉnh Hòa Bình, Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng khẳng định sẽ đồng hành, quan tâm bố trí nguồn vốn tăng trưởng giai đoạn 2022 - 2025. Đối với các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, học sinh, sinh viên, người lao động đi làm việc ở nước ngoài, nguồn vốn Trung ương cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn.

Tổng Giám đốc NHCSXH cũng chỉ ra nhu cầu vay vốn để tạo việc làm, xuất khẩu lao động, sản xuất, kinh doanh từ nguồn ngân sách địa phương còn rất lớn. Theo nguyên tắc, với nhóm nhu cầu này nguồn vốn Trung ương phân bổ sẽ đối ứng tương đương với nguồn vốn từ ngân sách địa phương. Tuy nhiên, hiện tỷ trọng nguồn vốn từ ngân sách địa phương trong tổng nguồn vốn còn thấp, đến ngày 31/12/2021, nguồn vốn ủy thác tại địa phương chỉ chiếm tỷ trọng 1,68% tổng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội.

Từ đó, Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng đề nghị Tỉnh ủy và UBND tỉnh Hòa Bình cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội theo Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư, Quyết định số 1630/QĐ-TTg ngày 28/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW.

Đồng thời chỉ đạo các sở, ngành có liên quan phối hợp với NHCSXH xây dựng các Đề án hỗ trợ người dân được vay vốn tạo việc làm, phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lao động từ nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH; phấn đấu trong 5 năm tới, nguồn vốn ngân sách địa phương chiếm từ 8% - 10% tổng nguồn vốn tín dụng chính sách trên địa bàn. Bên cạnh đó, chỉ đạo các sở, ngành liên quan, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội; phối hợp, lồng ghép các mô hình, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn với chương trình tín dụng chính sách xã hội, đưa tín dụng chính sách xã hội trở thành một trụ cột trong công cuộc giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới, góp phần xây dựng Hòa Bình trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, cửa ngõ vùng Tây Bắc.

Việt Hải (Hà Nội)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Truyền thông nội bộ: Công cụ quản lý hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời đại công nghệ

Trong thời đại 4.0, truyền thông nội bộ không chỉ là cầu nối thông tin mà còn là hệ sinh thái công nghệ, văn hóa, chiến lược, đóng vai trò trung tâm trong quản trị tổ chức, xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới tại Ngân hàng Trung ương. Đầu tư đúng và đủ cho truyền thông nội bộ là đầu tư cho sự bền vững và hiện đại hóa của Ngân hàng Trung ương trong tương lai.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045. Mặc dù tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm đáng kể trong những năm qua, nhưng các thách thức như việc làm không ổn định, tín dụng đen và áp lực dân nhập cư vẫn cản trở tiến trình này. Trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, tín dụng vi mô đóng vai trò quan trọng, đặc biệt với các nhóm thu nhập thấp như công nhân tại các khu công nghiệp. Nghiên cứu này đánh giá tác động của tín dụng vi mô đến thu nhập hộ gia đình công nhân tại tỉnh Bình Dương thời điểm trước sáp nhập với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng dữ liệu khảo sát từ 200 hộ gia đình công nhân và mô hình hồi quy Tobit để đưa ra đánh giá và đề xuất kiến nghị phù hợp.
Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Tín dụng tiếp tục là điểm sáng của ngành Ngân hàng

Kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2025 ghi nhận tín hiệu tích cực với nhiều chỉ tiêu tăng trưởng khá. Tuy nhiên, sức ép từ các biện pháp thuế quan của Mỹ bắt đầu ảnh hưởng rõ nét đến hoạt động sản xuất, thể hiện qua đà sụt giảm của chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI). Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) triển khai linh hoạt để giữ ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tiếp tục phát huy hiệu quả tín dụng chính sách gắn với Chương trình OCOP tại tỉnh Quảng Ngãi

Tương tự nhiều địa phương khác trong cả nước, tại tỉnh Quảng Ngãi, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã được triển khai đồng bộ, rộng khắp, huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trở thành một giải pháp ưu tiên trong phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống Ngân hàng Khu vực 14: Khơi thông vốn tín dụng phát triển kinh tế địa phương

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực 14 gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đây là địa bàn với tiềm năng và thế mạnh kinh tế là trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hoạt động của hệ thống ngân hàng Khu vực 15 góp phần phát triển kinh tế địa phương

Hệ thống ngân hàng Khu vực 15 gồm 4 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp và Cà Mau, với những lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế đa dạng, bản sắc văn hóa phong phú và nguồn lực xã hội dồi dào, tạo nên “cực tăng trưởng” mới cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Xem thêm
Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024

Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2024 với những thay đổi quan trọng liên quan đến cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị không chỉ tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra một môi trường quản trị chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, khách hàng và các bên liên quan khác. Bên cạnh những thành công đạt được, các quy định pháp luật về Hội đồng quản trị tại ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, quá trình xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan cần phải tiếp tục triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả. Đây chính là hướng đi quan trọng nhằm tạo dựng hành lang pháp lý ổn định, bảo đảm sự phát triển bền vững của các ngân hàng cổ phần nói riêng và hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung ở Việt Nam.
Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Chuẩn hóa tỷ lệ an toàn vốn: Bước tiến mới trong quản lý rủi ro và nâng cao sức chống chịu của hệ thống ngân hàng

Việc triển khai Thông tư số 14/2025/TT-NHNN không chỉ là bài toán kỹ thuật của riêng NHNN hay từng tổ chức tín dụng, mà là một quá trình cải cách mang tính hệ thống, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tài chính và toàn bộ hạ tầng pháp lý quốc gia. Chỉ khi có sự hỗ trợ toàn diện từ thể chế, năng lực nội tại của ngân hàng mới có thể phát huy đầy đủ trong việc thực thi các chuẩn mực an toàn vốn theo thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định tài chính vĩ mô trong dài hạn.
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng