Quy định của pháp luật về phí Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và thực tiễn thi hành

Nghiên cứu - Trao đổi
Với những đặc thù về quy mô, đối tượng khách hàng và tính liên kết hệ thống, các QTDND phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng và nguy cơ đổ vỡ hệ thống.
aa

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật về trích nộp, thu phí Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành quy định về trích nộp phí Quỹ bảo toàn từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả trong việc trích nộp và thu phí Quỹ bảo toàn.

Từ khóa: Quỹ bảo toàn, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Ngân hàng HTX), QTDND, trích nộp phí.

THE LEGAL REGULATIONS ON FEES FOR THE SAFETY FUND
AND THE PRACTICE OF IMPLEMENTATION

Abstract: This article analyzes and evaluates the legal regulations on deduction and collection of fees for the Safety Fund and the practice of implementing regulations on deduction and payment of fees for the Safety Fund from the time of its establishment in 2014 to present. On that basis, the author proposes some of solutions and recommendations for improving the law as well as enhancing efficiency in the payment and collection of Safety Fund fees.

Keywords: Safety fund; Cooperative Bank, People’s Credit Fund; fee deduction.

1. Đặt vấn đề

Với những đặc thù về quy mô, đối tượng khách hàng và tính liên kết hệ thống, các QTDND phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng và nguy cơ đổ vỡ hệ thống. Chính vì thế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) rất quan tâm đến các biện pháp bảo đảm an toàn hệ thống QTDND. Từ thực tiễn thí điểm Quỹ bảo toàn tại 03 tỉnh (Hưng Yên, Thái Bình, An Giang) và kinh nghiệm của hệ thống Ngân hàng Hợp tác xã của Cộng hòa liên bang Đức; hệ thống Quỹ Tín dụng Desjardins của Canada, ngày 23/01/2014, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2014/TT-NHNN quy định về Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống QTDND. Qua hơn 09 năm hoạt động chính thức (từ năm 2014 đến năm 2023), Quỹ bảo toàn đã phát huy tính hiệu quả, khẳng định tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính liên kết và tương trợ trong hệ thống QTDND. Quỹ bảo toàn đã tạo ra một thiết chế quan trọng bảo đảm an toàn cho hoạt động của hệ thống QTDND thông qua hoạt động cho vay hỗ trợ đối với các QTDND gặp khó khăn tài chính, khó khăn chi trả để có thể khắc phục trở lại hoạt động bình thường. Bên cạnh đó, Quỹ bảo toàn còn là công cụ cảnh báo sớm cho Ngân hàng HTX và NHNN về những yếu kém trong hoạt động của hệ thống QTDND.

Nguồn vốn Quỹ bảo toàn được hình thành trên cơ sở phí trích nộp của Ngân hàng HTX và các QTDND thành viên, cùng với đó là lợi nhuận được để lại từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước tại Ngân hàng HTX và chênh lệch thu từ lãi và chi phí trong hoạt động của Quỹ bảo toàn. Trong đó, nguồn vốn từ phí trích nộp của Ngân hàng HTX và các QTDND chiếm tỉ trọng cao nhất trong nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo toàn. Quy định của pháp luật liên quan đến việc trích nộp và thu phí Quỹ bảo toàn không chỉ quyết định quy mô, khả năng bảo đảm an toàn của Quỹ bảo toàn mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của Ngân hàng HTX và các QTDND. Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật về trích nộp phí Quỹ bảo toàn và thực tiễn thi hành quy định về trích nộp phí Quỹ bảo toàn từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả trong việc trích nộp và thu phí Quỹ bảo toàn1.

2. Quy định của pháp luật về trích nộp phí Quỹ bảo toàn

2.1. Đối tượng có nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn và mức trích nộp

Theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 03/2014/TT-NHNN, Ngân hàng HTX, QTDND (trừ trường hợp đang bị áp dụng kiểm soát đặc biệt) có trách nhiệm trích nộp phí tham gia đầy đủ, đúng hạn vào Quỹ bảo toàn một năm một lần trước ngày 31/01 của năm tiếp theo. Việc trích nộp phí tham gia Quỹ bảo toàn của Ngân hàng HTX, QTDND bắt đầu thực hiện từ năm tài chính 2014. Theo quy định của Thông tư số 03/2014/TT-NHNN, mức phí trích nộp được quy định là 0,08% dư nợ cho vay bình quân của năm liền kề trước kết thúc vào ngày 31/12 của Ngân hàng HTX, QTDND. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện đã cho thấy mức trích nộp 0,08% dư nợ cho vay bình quân của năm liền kề trước là lớn và phần nào đó đã gây khó khăn cho các QTDND. Chính vì vậy, năm 2019, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 21/2019/TT-NHNN ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về Ngân hàng HTX, QTDND và Quỹ bảo toàn, theo đó từ năm tài chính 2019, mức phí trích nộp phí bảo toàn là 0,05% dư nợ cho vay bình quân của năm liền kề trước kết thúc vào ngày 31/12 của Ngân hàng HTX, QTDND2.

Việc thay đổi mức trích nộp phí là cần thiết và phù hợp với thực trạng tài chính của hệ thống các QTDND tại Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào dư nợ cho vay bình quân của năm liền kề trước để tính mức phí trích nộp Quỹ bảo toàn là vấn đề cần bàn luận thêm. Quỹ bảo toàn được thành lập và sử dụng để cho vay hỗ trợ các QTDND khi gặp khó khăn tài chính, khó khăn chi trả, tránh nguy cơ phá sản và đổ vỡ, bảo đảm an toàn cho hệ thống QTDND nói riêng và hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung. Khó khăn tài chính, khó khăn chi trả của các QTDND sẽ biểu hiện trực tiếp và rõ ràng nhất thông qua khả năng chi trả đối với người gửi tiền hoặc tổng tài sản có của QTDND. Chính vì vậy, sử dụng số dư tiền gửi hay tổng tài sản của QTDND làm cơ sở để tính mức phí trích nộp Quỹ bảo toàn sẽ phù hợp hơn việc sử dụng dư nợ cho vay bình quân của năm liền kề trước làm cơ sở. Trên thế giới, pháp luật các quốc gia cũng sử dụng số dư tiền gửi hay tổng tài sản của quỹ tín dụng để xác định mức trích nộp phí Quỹ bảo toàn. Cụ thể, pháp luật Jamaica quy định mức trích nộp phí Quỹ bảo toàn là 0,35% tiền gửi tiết kiệm, pháp luật Ireland quy định mức trích nộp phí là 0,58% tài sản của QTDND3.

2.2. Thời điểm dừng trích nộp phí và quy mô của Quỹ bảo toàn

Theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 03/2014/TT-NHNN, “Khi tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo toàn đạt 1,5 lần tổng tài sản có của hệ thống TCTD là HTX, Quỹ bảo toàn sẽ tạm thời ngừng thu phí tham gia của các thành viên và tiếp tục thu phí khi tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo toàn thấp hơn mức nêu trên”4. Quy định trên sau đó được sửa đổi thành “Việc trích nộp Quỹ bảo toàn của năm tài chính chỉ được thực hiện khi tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo toàn trước khi trích nộp thấp hơn 1,5% tổng tài sản có của hệ thống QTDND”5.

Con số “1,5 lần tổng tài sản có của hệ thống TCTD là HTX” theo quy định của Thông tư số 03/2014/TT-NHNN là quá lớn và không thật sự cần thiết. Tuy nhiên, việc thay đổi từ 1,5 lần xuống còn 1,5% là rất lớn (100 lần). Thời điểm ngừng thu phí tham gia của các thành viên có liên quan đến quy mô của Quỹ bảo toàn, bởi như đã nói, phí trích nộp từ các thành viên chiếm tỉ trọng lớn nhất trong quy mô, nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo toàn.

Trên thế giới, pháp luật các quốc gia có quy định khác nhau về quy mô của Quỹ bảo toàn. Tại Lithuania, Quỹ ổn định được thành lập bởi Liên hiệp tín dụng Trung ương (CCU). CCU không có quy định giới hạn quy mô của Quỹ ổn định mà chỉ quy định số dư của Quỹ ổn định không thấp hơn 1% tổng tài sản của tất cả các liên hiệp thành viên trong CCU và không thấp hơn giá trị tài sản trung bình của một thành viên tại thời điểm cuối năm tài chính6. Tại Jamaica, năm 1977, Liên đoàn Liên hiệp tín dụng hợp tác xã Jamaica (JCCUL) đã thành lập Quỹ ổn định. Theo quy định của JCCUL, mỗi năm JCCUL đều tiến hành đánh giá tất cả các liên hiệp tín dụng thành viên để xác định tỉ lệ đóng phí vào Quỹ ổn định của mỗi liên hiệp tín dụng thành viên, nhưng không vượt quá 0,35% tổng số tiền gửi và tiết kiệm của liên hiệp tín dụng đó. Trong trường hợp số dư Quỹ bảo toàn dưới 1% tổng số tiền gửi và tiết kiệm của tất cả các liên hiệp tín dụng thành viên thì các liên hiệp tín dụng thành viên cần phải đóng bổ sung, số tiền đóng bổ sung do JCCUL quyết định. Quỹ ổn định sẽ ngừng thu phí khi số tiền trong Quỹ bằng 3% tổng số tiền gửi và tiết kiệm của tất cả các liên hiệp tín dụng thành viên7.

Trở lại với Việt Nam, tổng tài sản có của hệ thống QTDND tính đến ngày 30/4/2023 là 171.374 tỉ đồng. Theo quy định hiện tại, quy mô của Quỹ bảo toàn sẽ bị giới hạn ở mức khoảng 2.500 tỉ đồng. Con số 2.500 tỉ đồng là quá nhỏ so với các số liệu về tổng dư nợ và tổng số dư tiền gửi của hệ thống các TCTD là HTX (tính đến ngày 30/4/2023, tổng dư nợ của hệ thống TCTD là HTX là 160.833 tỉ đồng (trong đó dư nợ của các QTDND là 131.562 tỉ đồng, dư nợ của Ngân hàng HTX là 29.271 tỉ đồng), tổng số dư tiền gửi của hệ thống TCTD là HTX là 190.931 tỉ đồng (trong đó tổng tiền gửi của các QTDND là 151.227 tỉ đồng, số dư tiền gửi của Ngân hàng HTX là 39.704 tỉ đồng)8.

Từ kinh nghiệm của các nước và thực trạng hệ thống QTDND tại Việt Nam có thể khẳng định, việc pháp luật Việt Nam quy định “Việc trích nộp Quỹ bảo toàn của năm tài chính chỉ được thực hiện khi tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo toàn trước khi trích nộp thấp hơn 1,5% tổng tài sản có của hệ thống QTDND” là chưa thật sự phù hợp. Như vậy, theo quy định tại Thông tư số 06/2017/TT-NHNN ngày 05/7/2017 của Thống đốc NHNN về quy mô của Quỹ bảo toàn chưa thể bảo đảm hỗ trợ an toàn cho hoạt động của hệ thống khi các QTDND gặp khó khăn tài chính, khó khăn chi trả.

2.3. Quy định về báo cáo hoạt động và báo cáo thu phí Quỹ bảo toàn

Theo quy định tại Điều 9 Thông tư số 03/2014/TT-NHNN, hằng năm, chậm nhất vào ngày 15/7, Ngân hàng HTX có trách nhiệm gửi báo cáo tình hình hoạt động 6 tháng đầu năm của Quỹ bảo toàn cho NHNN qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Hằng năm, chậm nhất sau 45 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính, Ngân hàng HTX có trách nhiệm gửi các báo cáo cho NHNN qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng các nội dung sau:

(i) Tình hình hoạt động và báo cáo tình hình tài chính năm trước của Quỹ bảo toàn.

(ii) Báo cáo về kết quả giám sát, kiểm toán nội bộ của Ban kiểm soát Ngân hàng HTX về hình hình hoạt động và kết quả tài chính của Quỹ bảo toàn.

Ngoài ra, Ngân hàng HTX phải báo cáo đột xuất theo yêu cầu của NHNN. Các báo cáo của Ngân hàng HTX phải được lập thành văn bản giấy, gửi trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính đến NHNN qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

3. Thực tiễn thi hành quy định về trích nộp phí Quỹ bảo toàn

3.1. Thực tiễn thi hành nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn của Ngân hàng HTX

Căn cứ vào quy định của pháp luật và các quy định về thu phí bảo toàn trong Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ bảo toàn. Hằng năm, căn cứ vào dư nợ cho vay (nhóm 1, nhóm 2) bình quân năm liền kề trước của các QTDND, Ban quản lý Quỹ bảo toàn lập Bảng tổng hợp tính phí tham gia Quỹ bảo toàn của các QTDND gửi các chi nhánh Ngân hàng HTX đối chiếu. Các chi nhánh Ngân hàng HTX phối hợp cùng Ban quản lý Quỹ bảo toàn đối chiếu, kiểm tra danh sách. Sau khi đối chiếu, thống nhất, bảng tổng hợp tính phí tham gia Quỹ bảo toàn của các QTDND sẽ được gửi cho các QTDND.

Các QTDND kiểm tra, nếu có thắc mắc sẽ phản hồi thông qua chi nhánh Ngân hàng HTX. Sau khi nhận được thắc mắc của các QTDND, chi nhánh Ngân hàng HTX sẽ phối hợp với Ban quản lý Quỹ bảo toàn đối chiếu, kiểm tra, thống nhất số phí QTDND phải nộp. Sau đó, Ban quản lý Quỹ bảo toàn gửi văn bản thông báo số phí bảo toàn tới các QTDND thông qua chi nhánh Ngân hàng HTX. Chi nhánh Ngân hàng HTX gửi thông báo bản cứng số phí phải nộp về từng QTDND. Đối với các QTDND không nộp phí tham gia Quỹ bảo toàn hoặc nộp không đầy đủ, đúng hạn, Quỹ bảo toàn sẽ phối hợp với chi nhánh Ngân hàng HTX nhắc nhở, đôn đốc. Dựa vào số liệu báo cáo của Ngân hàng HTX gửi NHNN có thể đưa ra một số đánh giá về tình hình thu phí Quỹ bảo toàn như sau:

Thứ nhất, trong các năm đầu việc thu phí Quỹ bảo toàn của các QTDND còn gặp nhiều khó khăn, do nhiều QTDND chưa hiểu đúng về ý nghĩa, vai trò của Quỹ bảo toàn và nghĩa vụ của các QTDND trong việc trích nộp phí Quỹ bảo toàn theo quy định. Tuy nhiên, qua thời gian, cùng với đó là sự đôn đốc, nhắc nhở của Ngân hàng HTX, các QTDND đã nhận thức đúng về vai trò, ý nghĩa của Quỹ bảo toàn và nghĩa vụ của các QTDND trong việc trích nộp phí Quỹ bảo toàn theo quy định. Chính vì vậy, theo thời gian các QTDND đã dần nghiêm túc hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn theo quy định. Tính đến ngày 31/12/2022, số tiền phí Quỹ bảo toàn của các năm từ 2014 đến 2021 đã được Ngân hàng HTX và các QTDND nộp đầy đủ, tổng số phí Quỹ bảo toàn Ngân hàng HTX và các QTDND đã trích nộp là: 490,6 tỉ đồng. Riêng năm 2022, tổng số phí Quỹ bảo toàn là 64,1 tỉ đồng, trong đó Ngân hàng HTX phải nộp 9,9 tỉ đồng, các QTDND phải nộp 54,2 tỉ đồng. Tính đến ngày 31/12/2022, Ngân hàng HTX và 602 QTDND đã thực hiện trích nộp phí Quỹ bảo toàn năm 2022 với tổng số tiền là: 37,1 tỉ đồng. (Bảng 1)

Bảng 1: Số tiền phí Quỹ bảo toàn thu của Ngân hàng HTX và các QTDND


Đơn vị: Tỉ đồng

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Ngân hàng HTX về tình hình hoạt động và tình hình tài chính

các năm gửi NHNN (số liệu được làm tròn đến 01 số thập phân)

Tuy nhiên, cá biệt vẫn tồn tại một số QTDND không thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn. Cụ thể: (i) Theo Báo cáo tình hình hoạt động của Quỹ bảo toàn năm 2016, Ngân hàng HTX gửi NHNN ngày 25/01/2017, tính đến ngày 25/01/2017, QTDND Thành Đô, tỉnh Ninh Bình vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn năm 2014; (ii) Theo Báo cáo tình hình hoạt động và tình hình tài chính năm 2021 của Quỹ bảo toàn, Ngân hàng HTX gửi NHNN ngày 10/02/2022, QTDND Long Bình, tỉnh Đồng Nai đến 07/01/2022 mới hoàn thành việc nộp phí năm 2019.

Thứ hai, theo quy định các QTDND phải hoàn thành việc trích nộp phí Quỹ bảo toàn của năm liền kề trước ngày 31/01 của năm tiếp theo. Tuy nhiên, số liệu trong báo cáo của Ngân hàng HTX gửi NHNN cho thấy, số lượng các QTDND chậm trích nộp phí Quỹ bảo toàn là khá phổ biến. (Bảng 2)

Bảng 2: Số liệu về các QTDND trích nộp phí Quỹ bảo toàn qua các năm


Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Ngân hàng HTX

về tình hình hoạt động và tình hình tài chính các năm gửi NHNN

Vấn đề đặt ra là pháp luật Việt Nam hiện tại không có quy định về biện pháp xử lí với các QTDND không trích nộp phí Quỹ bảo toàn hoặc trích nộp muộn so với thời gian quy định. Chính vì vậy, thực tế để thu đúng, thu đủ phí Quỹ bảo toàn, Ngân hàng HTX - đơn vị được giao nhiệm vụ quản lí và sử dụng Quỹ bảo toàn chỉ có thể dừng lại ở việc đôn đốc, nhắc nhở các QTDND thực hiện nghiêm túc quy định về trích nộp phí Quỹ bảo toàn. Trong Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ bảo toàn (Quy chế số 03/QC-NHHT ngày 23/9/2022 của Ngân hàng HTX) quy định một trong những điều kiện để QTDND được vay vốn từ Quỹ bảo toàn là: QTDND là thành viên của Ngân hàng HTX và đóng đầy đủ, kịp thời các khoản phí theo quy định9. Có thể hiểu, quy định trên được đặt ra với mục đích tạo sức ép để các QTDND thực hiện việc trích nộp phí Quỹ bảo toàn đúng quy định. Tuy nhiên, quy định trên là điều kiện để QTDND được vay vốn từ Quỹ bảo toàn chứ không phải là biện pháp xử lí và thực tế cho thấy không có nhiều ý nghĩa trong việc buộc các QTDND phải trích nộp phí Quỹ bảo toàn đúng quy định và hơn nữa đó chỉ là quy định nội bộ, không phải quy định của pháp luật.

Thứ ba, Ngân hàng HTX đã thực hiện nghiêm túc việc trích nộp phí Quỹ bảo toàn theo quy định. Tổng số tiền trích nộp phí Quỹ bảo toàn của Ngân hàng HTX tính đến năm 2022 là 80,4 tỉ đồng (Bảng 1). Ngoài việc trích nộp phí Quỹ bảo toàn, Ngân hàng HTX cũng thực hiện nghiêm túc quy định về việc thu phí Quỹ bảo toàn của các QTDND. Việc tính số phí phải nộp, quy trình thông báo, giải quyết thắc mắc, khiếu nại và đôn đốc nhắc nhở các QTDND trích nộp phí bảo toàn được thực hiện nghiêm túc và khoa học.

3.2. Thực tiễn thi hành quy định về báo cáo thu phí Quỹ bảo toàn

Thực tế cho thấy, Ngân hàng HTX được giao nhiệm vụ quản lí và sử dụng Quỹ bảo toàn đã thực hiện nghiêm túc các báo cáo 6 tháng và báo cáo năm gửi NHNN qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

(i) Về thời gian báo cáo: Tất cả các báo cáo 6 tháng của Ngân hàng HTX đều được thực hiện và gửi NHNN trước ngày 15/7 hằng năm. Các báo cáo năm của Quỹ bảo toàn đều được thực hiện và gửi NHNN trước ngày 31/01 hằng năm.

(ii) Về tên gọi của báo cáo và các nội dung báo cáo: Thông tư số 03/2014/TT-NHNN không có quy định, hướng dẫn cụ thể về mẫu báo cáo. Đến Thông tư số 14/2019/TT-NHNN mới có quy định, hướng dẫn cụ thể về báo cáo 6 tháng và báo cáo năm. Chính vì vậy, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2019 báo cáo của Ngân hàng HTX không có sự thống nhất về tên báo cáo, nội dung và bố cục. Từ năm 2020 đến nay, báo cáo 6 tháng và báo cáo năm của Ngân hàng HTX được thực hiện theo đúng mẫu báo cáo được ban hành kèm theo Thông tư số 14/2019/TT-NHNN.

Các thông tin được trình bày trong các báo cáo 6 tháng bao gồm:

- Thông tin về thu phí Quỹ bảo toàn của năm liền trước (tổng số tiền phí đã thu được; số QTDND và số tiền phí đã nộp; số tiền phí Ngân hàng HTX đã nộp; số QTDND chưa nộp phí và số tiền phí chưa thu được).

- Thông tin về thu nhập và chi phí của Quỹ bảo toàn (tổng thu nhập, trong đó lãi tiền gửi và lãi tiền vay; tổng chi phí, chi phí cho các hạng mục, nội dung cụ thể).

- Thông tin về cho vay hỗ trợ các QTDND gặp khó khăn về tài chính, khó khăn chi trả để có thể khắc phục trở lại hoạt động bình thường (số QTDND vay vốn, số tiền cho vay với từng QTDND, thời hạn vay, lãi suất cho vay).

Các thông tin được trình bày trong các báo cáo năm bao gồm:

- Thông tin về thu phí Quỹ bảo toàn của năm trước nữa (tổng số tiền phí đã thu được; số QTDND và số tiền phí đã nộp; số tiền phí Ngân hàng HTX đã nộp).

- Thông tin về thu phí Quỹ bảo toàn của năm vừa rồi: Tổng số tiền phí đã thu được; số QTDND và số tiền phí đã nộp; số tiền phí Ngân hàng HTX đã nộp; số QTDND chưa nộp phí và số tiền phí chưa thu được.

- Thông tin về nguồn vốn của Quỹ bảo toàn: Tổng số phí bảo toàn đã thu; lợi nhuận được để lại từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước tại Ngân hàng HTX; chênh lệch thu, chi từ hoạt động của Quỹ bảo toàn; trích lập dự phòng; tổng nguồn vốn của Quỹ bảo toàn.

- Chi phí hoạt động của Quỹ bảo toàn: Tổng chi phí; các nội dung và số tiền chi phí cụ thể.

- Số liệu về cho vay hỗ trợ các QTDND gặp khó khăn về tài chính, khó khăn chi trả và cho vay đặc biệt: Doanh số cho vay cộng dồn của các năm; doanh số thu nợ cộng dồn của các năm; tổng dư nợ còn lại; số QTDND vay vốn trong năm vừa rồi, số tiền cho vay, thời hạn vay, lãi suất vay; số liệu về công tác thu hồi nợ, số nợ gốc thu hồi, tiền lãi thu hồi, số tiền thu hồi cụ thể đối với từng QTDND.

- Số liệu về trích lập dự phòng rủi ro: Số liệu trích lập năm vừa rồi và tổng số tiền trích lập.

- Số liệu về sử dụng nguồn vốn của Quỹ bảo toàn: Số dư tiền gửi; số tiền gửi có kì hạn; số tiền gửi không kì hạn.

Trên cơ sở nghiên cứu, xem xét thực tế các báo cáo 6 tháng, báo cáo năm của Ngân hàng HTX gửi NHNN qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có thể khẳng định: Ngân hàng HTX đã thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về thời gian báo cáo, nội dung báo cáo. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, thời hạn để các QTDND hoàn thành nghĩa vụ đóng phí là ngày 31/01 của năm sau, trong khi thời hạn để Ngân hàng HTX gửi báo cáo năm là 45 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Khoảng thời gian 15 ngày là không đủ để Ngân hàng HTX tổng hợp số liệu và hoàn thiện báo cáo. Chính vì vậy, Ngân hàng HTX thường phải chốt số liệu xây dựng báo cáo gửi NHNN trước ngày 31/01 hằng năm và đó chính là nguyên nhân dẫn đến thực trạng các thông tin, số liệu được thể hiện trong các báo cáo năm chưa có sự thống nhất.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Từ những phân tích đánh giá quy định của pháp luật liên quan đến nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn và thực tiễn thi hành, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành quy định của pháp luật về trích nộp, thu phí Quỹ bảo toàn như sau:

Thứ nhất, các cơ quan nhà nước cần căn cứ vào thực tế quy mô, tổ chức và hoạt động của hệ thống QTDND tại Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để điều chỉnh thời điểm ngừng thu phí Quỹ bảo toàn theo hướng tăng giới hạn quy mô để bảo đảm Quỹ bảo toàn phát huy được vai trò cho vay hỗ trợ khó khăn tài chính, khó khăn chi trả giúp cho các QTDND trở lại hoạt động bình thường, không ảnh hưởng đến an toàn hệ thống.

Thứ hai, để nâng cao hiệu quả thi hành quy định của pháp luật về nghĩa vụ trích nộp phí bảo toàn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động thu phí Quỹ bảo toàn của Ngân hàng HTX, quy định của pháp luật về Quỹ bảo toàn cần hoàn thiện theo hướng:

(i) Bổ sung quy định về các biện pháp xử lí (chế tài) áp dụng với QTDND không thực hiện đúng quy định về trích nộp phí Quỹ bảo toàn. Quy định thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lí (chế tài) đối với QTDND không thực hiện đúng quy định về trích nộp phí Quỹ bảo toàn cho các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố.

(ii) Bổ sung quy định xác định trách nhiệm của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trong việc tuyên truyền, phổ biến đối với các QTDND về ý nghĩa, vai trò của Quỹ bảo toàn và nghĩa vụ trích nộp phí bảo toàn; đôn đốc, nhắc nhở các QTDND không thực hiện đúng nghĩa vụ trích nộp phí Quỹ bảo toàn.

Thứ ba, để Ngân hàng HTX có thêm thời gian tổng hợp, đánh giá số liệu báo cáo của Ban quản lý Quỹ bảo toàn và xây dựng báo cáo gửi NHNN, qua đó bảo đảm số liệu báo cáo được đầy đủ, chính xác và thống nhất, quy định về thời hạn gửi báo cáo tình hình hoạt động và tình hình tài chính của Quỹ bảo toàn của Ngân hàng HTX về NHNN tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 03/2014/TT-NHNN cần được sửa đổi theo hướng lùi thời hạn thực hiện báo cáo năm về tình hình hoạt động của Quỹ bảo toàn đối với Ngân hàng HTX.

Thứ tư, NHNN, Ngân hàng HTX và các QTDND cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và cao hơn nữa là đào tạo để nâng cao nhận thức, hiểu biết của độ ngũ lãnh đạo, cán bộ QTDND về ý nghĩa, vai trò của Quỹ bảo toàn và quy định của pháp luật về Quỹ bảo toàn.

1 Các số liệu được sử dụng trong bài viết được tổng hợp từ các Báo cáo 6 tháng và Báo cáo năm của Ngân hàng HTX về Quỹ bảo toàn từ năm 2014 đến năm 2022.
2 Dư nợ cho vay bình quân năm được tính bằng tổng dư nợ cho vay (nhóm 1 và nhóm 2 theo quy định về phân loại nợ của NHNN) tại thời điểm cuối mỗi tháng trong năm chia cho số tháng phải tính thực tế. Riêng đối với Ngân hàng HTX, số dư nợ cho vay nêu trên được loại trừ phần dư nợ cho vay điều hòa vốn đối với các QTDND thành viên.
3 Trích lại theo: Jones, P.A. (2010). “Stabilising British Credit Unions: A Research Study into the International Rationale and Design of Credit Union Stabilisation Programmes.” Research Report published by the Faculty of Health and Applied Social Sciences, Liverpool John Moores University.
4 Ngoài nguồn thu từ trích nộp phí của Ngân hàng HTX, QTDND, Quỹ bảo toàn còn được bổ sung từ các nguồn: (i) Chênh lệch thu từ lãi và chi phí trong hoạt động của Quỹ bảo toàn; (ii) Lợi nhuận được để lại từ nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước tại Ngân hàng HTX theo quy định pháp luật được sử dụng bổ sung Quỹ bảo toàn. (Từ năm 2016 đến nay đã dừng nộp Quỹ bảo toàn)
5 Điều 1 Thông tư số 06/2017/TT-NHNN.
6 Trích lại theo: Credit Unions’ System In Lithuania, Jurgita Liutvinskienė, Head of Marketing and Product Development Department, Lithuanian Central Credit Union, Savanoriu pages 363-211, Kaunas, Lithuania.
7 Trích lại theo: Jones, P.A. (2010). “Stabilising British Credit Unions: A Research Study into the International Rationale and Design of Credit Union Stabilisation Programmes.” Research Report published by the Faculty of Health and Applied Social Sciences, Liverpool John Moores University.
8 Các số liệu trên được lấy từ hệ thống PRMS của Ngân hàng HTX.

9 Điều 8 Quy chế số 03/QC-NHHT ngày 23/9/2022 của Ngân hàng HTX.


Tài liệu tham khảo:

1. Lê Hà Diễm Chi (2022), Quỹ bảo toàn hỗ trợ QTDND: Thực trạng và giải pháp, đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ năm 2020.

2. Credit Unions’ System In Lithuania, Jurgita Liutvinskienė, Head of Marketing and Product Development Department, Lithuanian Central Credit Union, Savanoriu pages 363-211, Kaunas, Lithuania.

3. Jones, P.A. (2010). “Stabilising British Credit Unions: A Research Study into the International Rationale and Design of Credit Union Stabilisation Programmes.” Research Report published by the Faculty of Health and Applied Social Sciences, Liverpool John Moores University.

4. Quy chế số 179/QC-NHHT ngày 28/3/2014 của Ngân hàng HTX.

5. Quy chế số 2095/QC-NHHT ngày 31/12/2019 của Ngân hàng HTX.

6. Quy chế số 03/QC-NHHT ngày 23/9/2022 của Ngân hàng HTX.

7. Báo cáo tình hình hoạt động và tài chính của Quỹ bảo toàn từ năm 2014 đến năm 2022.

8. Báo cáo 6 tháng Quỹ bảo toàn từ năm 2014 đến năm 2022.


TS. Đỗ Mạnh Phương (Phó Trưởng Khoa Luật - Học viện Ngân hàng)

ThS. Nguyễn Thị Duyên (Tạp chí Ngân hàng)

https://tapchinganhang.gov.vn

Tin bài khác

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về thuế đối với các tài sản điện tử - Một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Tài sản điện tử đang tăng trưởng nhanh chóng, phản ánh xu hướng số hóa không thể đảo ngược trong hệ thống tài chính toàn cầu. Việc hoàn thiện và sớm ban hành một khung chính sách thuế toàn diện đối với tài sản điện tử trên nền pháp lý mà Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 đã tạo dựng là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối Việt Nam hiện nay...
Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Phương thức hậu kiểm chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước theo mô hình hai cấp

Nghiên cứu phân tích phương thức hậu kiểm trong kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong bối cảnh hiện đại hóa tài chính công theo Quyết định số 385/QĐ-BTC. Trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu khẳng định hậu kiểm là xu hướng tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát chi, giảm thủ tục hành chính và thúc đẩy giải ngân. Tác giả đề xuất mô hình hậu kiểm gồm ba nội dung trọng tâm: Tổ chức bộ máy tách biệt chức năng thanh toán và kiểm soát, kiểm soát theo mức độ rủi ro và ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam

Việc nghiên cứu, giải quyết các rào cản trong tiếp cận nguồn tài chính xanh của doanh nghiệp tại Việt Nam là rất quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, cũng như giúp doanh nghiệp nâng tầm giá trị trên thị trường quốc tế. Những rào cản hiện tại không chỉ làm chậm tiến trình thực hiện các dự án xanh mà còn cản trở việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Bài viết phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận tài chính xanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam; từ đó, đề xuất một số khuyến nghị để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ, hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ.
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống tổ chức, hoạt động, quản trị chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm từ nước ngoài và đội ngũ nhân sự bản địa được đào tạo chất lượng cao, cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Kinh nghiệm cho các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức thư tín dụng

Việt Nam là một trong những quốc gia chủ động hội nhập kinh tế khi tham gia sâu rộng vào nhiều hiệp định thương mại tự do. Theo đó, phương thức thư tín dụng (L/C) cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đạt được, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đối mặt với những chiêu trò lừa đảo chào bán, mua hàng, ký kết hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi, khó phát hiện, gây tổn thất nặng nề về tài chính. Do đó, cần thiết có những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Sử dụng phương pháp định tính và định lượng, nghiên cứu này điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đại học khi tham gia mua sắm trực tuyến tại thành phố Thủ Dầu Một. Qua các bước kiểm định, nghiên cứu xác định những biến tác động đến sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một khi tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: Tính tiện ích của nền tảng trực tuyến, chất lượng thông tin sản phẩm, chất lượng sản phẩm.
Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Bài viết nghiên cứu thực trạng dân trí tài chính số tại Việt Nam trong bối cảnh các sản phẩm tài chính số phát triển mạnh, nhưng hiểu biết của người dân còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp nâng cao kiến thức tài chính số cho nhóm dễ tổn thương và mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ an toàn, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy hệ sinh thái tài chính số bền vững.
Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề cấp bách toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, đòi hỏi sự chung tay hành động từ cả quốc gia và từng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính vẫn đặt lợi nhuận lên trên trách nhiệm xã hội, thể hiện qua hành vi “tẩy xanh”. Việc nhận diện và kiểm soát hành vi này là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững.
Xem thêm
Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Tiếp tục ổn định lãi suất, hỗ trợ nền kinh tế

Chiều 4/8/2025, tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay. Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà chủ trì Hội nghị.
Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Chủ sở hữu hưởng lợi trong doanh nghiệp: Góc nhìn pháp lý mới và tác động đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam

Thuật ngữ “chủ sở hữu hưởng lợi” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022 và lần đầu tiên được luật hóa trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp (Luật số 76/2025/QH15). Đây được xem là bước tiến quan trọng nhằm thu hẹp khoảng trống pháp lý và đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Việc xác định rõ chủ sở hữu hưởng lợi không chỉ góp phần tăng cường minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân - Hệ quả pháp lý và mối liên hệ với hoạt động cho vay của ngân hàng

Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình, là nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên. Tuy nhiên không giống như quan hệ dân sự thông thường, quan hệ tài sản trong hôn nhân vốn có những đặc thù riêng biệt. Cho dù vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì làm sao để xác định được nguồn thu nhập của bên vợ hoặc chồng sử dụng để trả khoản vay riêng là tài sản riêng, được sử dụng hợp pháp để trả nợ cho ngân hàng mà không có tranh chấp với người còn lại, vẫn là một vấn đề không đơn giản...
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam

Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD được ghi nhận công khai, rõ ràng trong luật, đi kèm với cơ chế phối hợp hỗ trợ từ chính quyền cấp xã và lực lượng công an cơ sở. Trong bối cảnh tỉ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng sau các biến động kinh tế - xã hội và chính sách cơ cấu lại ngân hàng tiếp tục được đẩy mạnh, Luật phản ánh nỗ lực thể chế hóa một công cụ thu hồi nợ nhanh chóng, hiệu quả và giảm thiểu phụ thuộc vào quy trình tố tụng kéo dài.
Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Pháp luật về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Phân tích và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích khung pháp lý về thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Đây là một loại hình tài sản bảo đảm mới, ngày càng được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tín dụng, nhất là tại các tổ chức tín dụng (TCTD) và doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, do đặc thù là quyền tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chưa gắn với tài sản hiện hữu, nên việc xác định tính pháp lý, điều kiện thế chấp và trình tự xử lý loại tài sản này còn đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh đó, việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo đảm tính an toàn, minh bạch và khả thi của loại hình thế chấp này là yêu cầu cấp thiết, góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Rủi ro thanh khoản, hàm lượng vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại khu vực Đông Nam Á

Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào nhóm 4 nước là Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Campuchia. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng và dữ liệu bảng để tìm ra một ngưỡng tổng tài sản của các ngân hàng tại 4 quốc gia này, đánh giá việc các ngân hàng có mức tổng tài sản trên và dưới ngưỡng này tạo ra khả năng sinh lời dương hay âm. Nghiên cứu dựa trên 2 yếu tố chính để đánh giá đó chính là tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỉ lệ các khoản vay so với các khoản tiền gửi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trước ngã rẽ quyết định về lãi suất

Áp lực chính trị trong năm 2025 gia tăng đáng kể khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được kêu gọi hạ lãi suất nhanh và mạnh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh GDP có dấu hiệu chậm lại và thị trường lao động xuất hiện tín hiệu suy yếu.
Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Tháng 4/2025 chứng kiến cuộc khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng đối với đồng USD, bất chấp lợi suất trái phiếu Mỹ tăng. Bài viết phân tích những bất thường trên thị trường tài chính toàn cầu sau các biện pháp thuế quan gây tranh cãi của Mỹ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ sự thay đổi cấu trúc tài chính, phi toàn cầu hóa và biến động địa chính trị. Nếu xu hướng này tiếp diễn, USD có nguy cơ mất dần vị thế, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III  trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiệp ước vốn Basel III là khuôn khổ nâng cao với sự sửa đổi và củng cố cả ba trụ cột của Basel II, đây là công cụ hỗ trợ đắc lực để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bài viết phân tích tình hình áp dụng các Hiệp ước vốn Basel của hệ thống ngân hàng trên thế giới, cùng với kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam trong việc áp dụng Hiệp ước vốn Basel III, tác giả đưa ra một số đề xuất giải pháp chính sách cho hệ thống ngân hàng...
Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Bài viết phân tích vai trò của hiểu biết tài chính trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ, dựa trên khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu; đồng thời, đề xuất tăng cường giáo dục và truyền thông tài chính để hỗ trợ chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế bền vững.

Thông tư số 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 10/2025/TT-NHNN quy định về tổ chức lại, thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của quỹ tín dụng nhân dân

Thông tư số 07/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2024/TT-NHNN ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

Thông tư số 08/2025/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch bưu điện trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt, Thông tư số 29/2024/TT-NHNN ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về quỹ tín dụng nhân dân và Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2024 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nướ

Nghị định số 94/2025/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2025 của Chính phủ quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng

Nghị định số 26/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông tư số 59/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2021/TT-NHNN ngày 30 tháng 7 của 2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước

Thông tư số 60/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về dịch vụ ngân quỹ cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thông tư số 61/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định về bảo lãnh ngân hàng

Thông tư số 62/2024/TT-NHNN ngày 31/12/2024 Quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phi ngân hàng