
Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính và định lượng để nghiên cứu hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và định hướng phát triển trong thời gian tới, đồng thời có thể giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nhìn nhận được điểm mạnh và lợi thế cạnh tranh trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài để xây dựng chiến lược hoạt động phù hợp trong thời gian tới.
Từ khóa: Hiệu quả hoạt động, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, lợi thế cạnh tranh.
FACTORS AFFECTING THE OPERATIONAL EFFICIENCY OF FOREIGN BANK BRANCHES IN HO CHI MINH CITY
Abstract: This study uses qualitative and quantitative methods to study the operational efficiency of foreign bank branches, thereby providing solutions to improve the operational efficiency of foreign bank branches and future development orientations,simultaneously supporting Vietnamese commercial banks to recognize the strengths and competitive advantages in the operations of foreign bank branches to build appropriate operational strategies in the future.
Keywords: Operational efficiency, foreign bank branches, competitive advantages.
1. Giới thiệu
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đến ngày 31/12/2024, Việt Nam có sự hiện diện của 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn tập trung nhiều nhất cả nước với 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động. Trong vòng 13 năm, kể từ năm 2011 đến năm 2023, các ngân hàng nước ngoài liên tục thành lập, mở rộng mạng lưới và quy mô hoạt động của chi nhánh trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù vậy, hoạt động của các chi nhánh này phần lớn hướng đến các khách hàng là doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư, hoạt động tại Việt Nam, chưa mở rộng phát triển hoạt động bán lẻ, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới hướng đến nhu cầu tài chính có tiềm năng rất lớn cho cá nhân và tổ chức Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động ngân hàng
NHTM là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Cũng giống như các doanh nghiệp khác, hiệu quả hoạt động là mục tiêu hướng đến của NHTM nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận và bảo đảm an toàn hoạt động. Theo định nghĩa của các tác giả, hiệu quả hoạt động là sự thể hiện mối tương quan giữa các các biến số đầu vào được sử dụng để thu được các biến số đầu ra (Farrell, 1957), hiệu quả hoạt động được hiểu là khả năng biến đổi các yếu tố đầu vào có tính khan hiếm thành khả năng sinh lời hoặc giảm thiểu chi phí (Daft, 2008). Theo Nguyễn Việt Hùng (2008), hiệu quả là phạm trù phản ánh sự thay đổi công nghệ, sự kết hợp và phân bổ hợp lý các nguồn lực, trình độ lành nghề của lao động, trình độ quản lý…; nó phản ánh quan hệ so sánh được giữa kết quả kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cũng có thể hiểu hiệu quả hoạt động ngân hàng là mức độ thành công mà các doanh nghiệp hoặc ngân hàng đạt được trong việc phân bổ các đầu vào có thể sử dụng và các đầu ra mà họ sản xuất, nhằm đáp ứng một mục tiêu nào đó.
2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng
Hiệu quả hoạt động ngân hàng có thể được chia làm hai nhóm là hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Trong đó, hiệu quả hoạt động NHTM dựa trên tiêu chuẩn đánh giá kinh tế, thể hiện mối quan hệ tối ưu giữa kết quả kinh tế đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, nghĩa là khả năng biến các đầu vào thành các đầu ra trong hoạt động của NHTM và xác suất hoạt động an toàn của ngân hàng (Nguyễn Việt Hùng, 2008). Hiệu quả hoạt động ngân hàng có thể đánh giá qua hai nhóm chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối. Các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động theo cả chiều sâu và chiều rộng, tuy nhiên, trong một số trường hợp lại gặp khó khăn khi so sánh các ngân hàng có quy mô khác nhau. Trong khi đó, các chỉ tiêu hiệu quả tương đối thuận tiện để so sánh theo thời gian và không gian, có thể so sánh giữa các ngân hàng có quy mô khác nhau, các thời kỳ khác nhau (Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang, 2014).
Từ các cơ sở lý thuyết nêu trên và dữ liệu hiện có trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu sử dụng định nghĩa hiệu quả hoạt động ngân hàng theo nhóm hiệu quả tương đối để phân tích hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Có nhiều phương pháp để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM. Trong đó, các hệ số tài chính là công cụ được sử dụng nhiều nhất để phân tích, đánh giá và thể hiện hiệu quả hoạt động của NHTM. Có nhiều loại hệ số tài chính được sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng, bao gồm các nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính và nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động (Nguyễn Việt Hùng, 2008).
2.3.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh. Theo thông lệ quốc tế, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời thông thường bao gồm các chỉ tiêu sau: Thu lãi biên ròng (NIM), thu ngoài lãi biên ròng (NOM), thu nhập hoạt động biên (TNHĐB), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận sau thuế trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE).
2.3.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính
Ngoài việc nâng cao khả năng sinh lời và nâng cao giá trị cổ phiếu, các NHTM cũng chú trọng việc kiểm soát chặt chẽ những rủi ro trong hoạt động. Đặc biệt, trong một nền kinh tế có nhiều biến động, các nhà quản trị ngân hàng càng phải tập trung nhiều hơn vào hoạt động kiểm soát và đo lường rủi ro trong hoạt động ngân hàng, các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính trong hoạt động ngân hàng thông thường gồm các chỉ tiêu về rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro thu nhập, rủi ro phá sản, bao gồm các chỉ tiêu như: (i) Tỉ lệ nợ xấu trên tổng cho vay (NPL): Phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chỉ số này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại; (ii) Tỉ lệ cho vay trên tổng tài sản (LOANTA): Phản ánh phần tài sản có được phân bổ vào những loại tài sản có tính thanh khoản kém. Tỉ lệ này cho thấy, việc tăng cường sử dụng nguồn vốn vay rất có thể gây ra rủi ro thanh khoản nếu như nhu cầu rút tiền của công chúng tăng và chất lượng của các khoản cho vay giảm; (iii) Vốn được cấp trên tổng tài sản (ETA): Thể hiện việc tài trợ cho tài sản bằng vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này cao thể hiện việc tài trợ cho tài sản bằng vốn được cấp cao, thể hiện độ lành mạnh tài chính của ngân hàng. Tỉ lệ này có thể ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến hiệu quả hoạt động; (iv) Tỉ lệ giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất: Khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể rơi vào tình trạng bất lợi và thua lỗ nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi quy mô vốn nhạy cảm với lãi suất vượt quá tài sản nhạy cảm với lãi suất, thua lỗ chắc chắn sẽ xảy ra nếu lãi suất tăng; (v) Tỉ lệ đòn bẩy tài chính (tổng tài sản/tổng vốn chủ sở hữu): Phản ánh bao nhiêu đồng giá trị tài sản được tạo ra trên cơ sở một đồng vốn chủ sở hữu và ngân hàng phải dựa vào nguồn vay nợ là bao nhiêu. Thực tế cho thấy tỉ lệ này trung bình khoảng trên 15 lần, nhưng do vốn chủ có chức năng bù đắp thua lỗ nên tỉ lệ này càng lớn thì rủi ro phá sản của ngân hàng càng cao.
2.3.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động
Với chiến lược tối đa hóa lợi nhuận, các NHTM thường nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng cách giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở tự động hóa và nâng cao trình độ nhân viên. Bởi vậy, các thước đo phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng và năng suất lao động của nhân viên gồm các chỉ tiêu sau: (i) Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động: Là thước đo phản ánh mối tương quan giữa đầu vào và đầu ra, tức là việc phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của ngân hàng; (ii) Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/Số nhân viên làm việc đầy đủ thời gian): Phản ánh hiệu quả sử dụng và trình độ lao động của ngân hàng; (iii) Tổng thu nhập hoạt động/tổng tài sản: Phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Hệ số này cao phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản (cơ cấu danh mục đầu tư) một cách hợp lý để tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng; (iv) Tổng dư nợ trên vốn huy động (LDR): Thể hiện hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động; (v) Tiền gửi trên tiền cho vay (DLR): Thể hiện hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động bằng việc cho vay tạo ra thu nhập từ lãi.
Từ phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng thông qua các hệ số tài chính, nghiên cứu này áp dụng các hệ số tài chính thuộc các nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính và nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động để đưa vào mô hình nghiên cứu hiệu quả hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
3.1. Tổng quan hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Về loại hình chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc được ngân hàng mẹ có trụ sở chính ở nước ngoài thành lập chi nhánh ở nước sở tại, ngân hàng mẹ có năng lực tài chính, kinh nghiệm quốc tế và chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của chi nhánh tại nước ngoài, tuân thủ các quy định pháp luật của nước sở tại và của nước nơi ngân hàng mẹ đặt trụ sở chính.
3.1.2. Vai trò của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
NHTM nói chung và chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng là cấu phần không thể thiếu của nền kinh tế. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng đã có những đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế như những tổ chức tín dụng (TCTD) khác.
Cụ thể, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đóng vai trò là trung gian trong quá trình thanh toán, góp phần thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa nhanh chóng, đặc biệt là giao thương giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Bên cạnh đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường tiền tệ, thị trường vốn thông qua các hoạt động của mình như hoạt động huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, hoạt động ngoại hối, thực hiện nghiệp vụ thanh toán… Ngoài ra, chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn đóng vai trò là công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, sự hiện diện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các hoạt động như một NHTM là động lực thúc đẩy quá trình cải cách và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam, không những tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nguồn vốn đầu tư với thị trường tài chính mà còn trong nhiều lĩnh vực đầu tư khác; đồng thời, sự hiện diện của chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn là nhân tố quan trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
3.1.3. Một số đặc trưng cơ bản trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Quy mô của chi nhánh ngân hàng nước ngoài khá nhỏ, trụ sở tập trung chủ yếu tại địa bàn trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ cấu tổ chức nhân sự trung bình một chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ có khoảng 20 nhân sự. Trong khi đó các NHTM Việt Nam hầu hết đều có đơn vị mạng lưới, chi nhánh, phòng giao dịch đặt tại toàn bộ các đơn vị hành chính trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và hiện diện trên cả nước nói chung với số lượng nhân sự đông.
Theo quy định tại Luật Các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có phạm vi hoạt động hẹp hơn khi các NHTM Việt Nam và NHTM 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
3.1.4. Thực trạng hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Từ các số liệu về tình hình hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (về tổng tài sản, dư nợ, huy động, lợi nhuận, chất lượng tín dụng) cho thấy, nguyên nhân khác biệt chủ yếu trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài so với các NHTM phần lớn là do sự khác biệt về đối tượng khách hàng. Đối tượng khách hàng đặc trưng của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài, trong khi đối tượng của các NHTM Việt Nam chủ yếu là các tổ chức kinh tế, dân cư trong nước. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Lien Dinh (2013) khi ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trước tiên tập trung vào khách hàng từ quốc gia của họ hoặc từ các quốc gia khác chứ không phải khách hàng địa phương, và nghiên cứu của Cerutti và các cộng sự (2007), khi chi nhánh ngân hàng nước ngoài có xu hướng tập trung vào phân khúc bán buôn đối với các doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại nước sở tại, trong khi các ngân hàng con nước ngoài hay các NHTM nước sở tại tập trung chủ yếu vào kinh doanh mảng bán lẻ.
3.1.5. Một số lợi thế và hạn chế cơ bản trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Về lợi thế: Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm tỉ trọng lớn và chi phí huy động rất thấp so với NHTM Việt Nam; tỉ trọng cho vay bằng ngoại tệ khá cao nên tỉ trọng thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối trên tổng thu nhập của chi nhánh ngân hàng nước ngoài cao; bên cạnh đó, hoạt động tín dụng được kiểm soát an toàn, ít rủi ro cho thấy hiệu quả trong công tác quản lý, kiểm soát của ngân hàng mẹ. Việc quản trị chất lượng tín dụng tốt nên chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thấp, dẫn đến hiệu quả hoạt động cao hơn; bên cạnh đó, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng quốc tế với nguồn nhân lực chuyên môn cao; hệ thống công nghệ phát triển…
Về hạn chế: Trong giai đoạn 2011 - 2023, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu chỉ huy động của khách hàng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dẫn đến nguồn vốn huy động từ khách hàng thấp, không đa dạng đối tượng khách hàng; chưa có định hướng phát triển, mở rộng và tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động bán lẻ; khách hàng vay chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không đa dạng về cơ cấu đối tượng khách hàng vay. Trong khi đó, đối tượng vay vốn là các hộ kinh doanh, cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam có tiềm năng rất lớn, nhưng chưa được các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khai thác để nâng cao lợi nhuận hoạt động. Tiếp nữa, quy định về tổng dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng, nhóm khách hàng và người có liên quan dựa trên cơ sở mức vốn tự có mà chủ yếu là mức vốn pháp định. Tuy nhiên, mức vốn pháp định tối thiểu của chi nhánh ngân hàng lại thấp nên tổng mức cấp tín dụng cho khách hàng và người liên quan thấp, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn của khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp đa quốc gia có nhu cầu tài chính lớn, dẫn đến hạn chế về thu nhập cho ngân hàng.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu kế thừa mô hình nghiên cứu trước của các tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008), Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2014) về các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động NHTM Việt Nam, là mô hình hồi quy Tobit để phân tích, đánh giá các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua biến phụ thuộc ROA, với các yếu tố bên trong ngân hàng (các hệ số tài chính) được lựa chọn thích hợp với việc xác định khả năng sinh lời. Mô hình có dạng như sau:
ROA = α + β1*SIZE + β2*DLR + β3*NPL + β4*ETA + β5*LOANTA + ε
Bảng 1: Mô tả các biến và dấu kỳ vọng trong mô hình
![]() |
Nguồn: Tác giả tổng hợp |
3.3. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu được lấy từ các bảng cân đối kế toán của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài các năm từ 2011 - 2020 được các ngân hàng báo cáo NHNN theo quy định về chế độ thông tin, báo cáo.
Hạn chế của dữ liệu: Số lượng chi nhánh nghiên cứu là 24/31 chi nhánh so với thời điểm 31/12/2023 và dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 10 năm từ 2011 - 2020 nhằm đảm bảo số lượng lớn dữ liệu và tính liên tục của dữ liệu nên loại bỏ các chi nhánh chưa đủ thời gian hoạt động liên tục các năm từ 2011 - 2023 (do được thành lập sau năm 2011, đã chấm dứt hoạt động hoặc chuyển đổi mô hình hoạt động sang ngân hàng 100% vốn nước ngoài) và đảm bảo tính phù hợp của dữ liệu do một số năm (2021, 2022) hoạt động của chi nhánh bị tác động bởi dịch Covid-19.
3.4. Giả thuyết về các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
SIZE (Logarit tự nhiên của tổng tài sản): Giả thuyết dấu tác động của biến SIZE lên ROA sẽ dương.
DLR (Tỉ lệ huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế trên số tiền cho vay): Giả thuyết dấu tác động của biến DLR lên ROA sẽ dương.
NPL (Tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ): Giả thuyết dấu tác động của biến NPL lên ROA sẽ âm.
ETA (Tỉ lệ vốn được cấp trên tổng tài sản): Giả thuyết dấu tác động của biến ETA lên ROA sẽ âm.
LOANTA (Tỉ lệ dư nợ trên tổng tài sản): Giả thuyết dấu tác động của biến LOANTA lên ROA sẽ dương.
3.5. Phương pháp xử lý dữ liệu
Nghiên cứu sẽ sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu như thống kê mô tả, phân tích ma trận tương quan và kinh tế lượng.
Phân tích thống kê mô tả sẽ tập trung vào phân tích đơn biến theo các giá trị trung bình (Mean) và độ lệch chuẩn (Standard deviation) để mô tả hiện trạng từng biến số theo thời kỳ nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2020.
Phân tích ma trận tương quan sẽ giúp cho nghiên cứu có thể nhận diện sớm các biến số độc lập có dấu hiệu đa cộng tuyến. Phần cuối cùng là phân tích mô hình hồi quy để giúp đánh giá tác động của các biến số tới hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
3.6. Thống kê mô tả biến
Với cỡ mẫu là 240 quan sát; trong đó, số lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài được chọn để sử dụng trong mô hình gồm là 24/29 chi nhánh so với thời điểm ngày 31/12/2020, nhằm bảo đảm tính liên tục của dữ liệu nên loại bỏ các chi nhánh chưa đủ thời gian hoạt động liên tục từ năm 2011 đến năm 2020 (do được thành lập sau năm 2011, đã chấm dứt hoạt động hoặc chuyển đổi mô hình hoạt động sang ngân hàng 100% vốn nước ngoài). Thời kỳ nghiên cứu là 10 năm từ năm 2011 đến năm 2020.
Bảng 2: Thống kê mô tả biến
![]() |
Nguồn: Tác giả tổng hợp |
ROA trung bình trong giai đoạn 2011 - 2020 chỉ đạt mức thấp (0,007), thấp hơn mức trung bình của các NHTM là 0,96 (theo số liệu tại thời điểm ngày 31/12/2020 của NHNN). Trong đó, tại một số thời điểm, một số chi nhánh có lợi nhuận âm do hoạt động cho vay giảm nhưng vẫn phát sinh chi phí hoạt động cao.
3.7. Phân tích ma trận tương quan
Bảng 3: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến
![]() |
Nguồn: Tác giả tổng hợp |
Theo kết quả kiểm định từ Ma trận hệ số tương quan giữa các biến cho thấy, có mối quan hệ tương quan giữa biến phụ thuộc và biến độc lập các hệ số tự tương quan có giá trị khá thấp và trung bình (<0,5). Bên cạnh đó, các biến độc lập không có hiện tượng tự tương quan với nhau vì các hệ số tự tương quan đều có giá trị < 0,8. Về cơ bản, có thể kết luận rằng rất khó có thể xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy.
3.7. Phân tích kết quả hồi quy
Bảng 4: Phân tích kết quả hồi quy
![]() |
Nguồn: Tác giả tổng hợp |
Kết quả hồi quy cho thấy biến DLR, NPL và LOANTA có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
DLR: Ở mức ý nghĩa thống kê 1%, tỉ lệ huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế trên số tiền cho vay (DLR) có ảnh hưởng cùng chiều đến hiệu quả hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài (0,0013). Điều này cho thấy các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa sử dụng tốt nguồn vốn huy động để cho vay tạo ra thu nhập. Kết quả này khác biệt so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008) khi biến DLR có ảnh hưởng ngược chiều đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam. Có thể thấy định hướng hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách hàng của ngân hàng mẹ (chủ yếu huy động và cho vay đối tượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam), chưa chú trọng việc phát triển mảng bán lẻ đối với các khách hàng cá nhân, tổ chức Việt Nam (huy động và cho vay khách hàng cá nhân, tổ chức Việt Nam rất thấp).
NPL có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ có ảnh hưởng ngược chiều đến hiệu quả hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (-0,1874). Kết quả này tương ứng với kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008), Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2014) khi tỉ lệ nợ quá hạn càng thấp, việc quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng càng tốt, hiệu quả hoạt động càng cao; ngược lại, tỉ lệ nợ quá hạn càng cao thì hiệu quả hoạt động càng giảm. Nguyên nhân tỉ lệ nợ quá hạn của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thấp chủ yếu là do hoạt động cấp tín dụng của các chi nhánh được ngân hàng mẹ quản trị, kiểm soát chất lượng tín dụng rất tốt theo quy trình, quy định nội bộ tiên tiến đã được áp dụng và có kinh nghiệm tại nhiều quốc gia. Đồng thời, các khách hàng vay tại Việt Nam cũng là khách hàng của ngân hàng mẹ tại nước ngoài nên đã được ngân hàng mẹ thẩm định, đánh giá năng lực tài chính, năng lực hoạt động kinh doanh.
LOANTA có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, tỉ lệ dư nợ trên tổng tài sản có ảnh hưởng cùng chiều đến hiệu quả hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài (0,0306). Điều này cho thấy chi nhánh ngân hàng nước ngoài càng tăng trưởng cho vay thì càng làm gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Kết quả này tương ứng với kết quả nghiên cứu của các tác giả Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2014) khi LOANTA càng cao thì lợi nhuận ngân hàng càng cao và khác biệt so với kết quả của các tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008) - khi kết quả này cho thấy không phải ngân hàng cho vay càng nhiều thì lại hiệu quả càng cao.
4. Một số khuyến nghị chính sách và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, cần có cơ chế, chính sách để phát triển, mở rộng hoạt động của các ngân hàng nước ngoài.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (năm 2024) về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài: Tính đến hết năm 2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 38,23 tỉ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2023. Ngày 31/12/2024, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 259/NQ-CP ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Thông báo số 47-TB/TW của Bộ Chính trị về xây dựng Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam. Trong đó, đã phân công 49 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho 12 bộ, ngành và các địa phương chủ trì triển khai, gắn với các sản phẩm đầu ra để hình thành khung pháp lý và chuẩn bị các điều kiện nền tảng phát triển các trung tâm tài chính tại Việt Nam. Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; nhấn mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Với bối cảnh nêu trên, yêu cầu về sự đóng góp của ngành Ngân hàng trong phát triển kinh tế của đất nước đòi hỏi ngày càng lớn hơn. Mặt khác, với sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, do đó, Việt Nam cần có cơ chế, chính sách để phát triển, mở rộng hoạt động của các ngân hàng nước ngoài, cũng như tranh thủ sự hỗ trợ, hợp tác đầu tư của các ngân hàng nước ngoài đối với các NHTM Việt Nam.
Thứ hai, cần tận dụng các lợi thế cạnh tranh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài để tăng trưởng hoạt động cho vay tài trợ nhập khẩu.
Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có lợi thế cạnh tranh khá lớn so với các NHTM Việt Nam để có thể chiếm lĩnh thị phần cho vay tiêu dùng tại Việt Nam gồm: Thị phần cho vay tiêu dùng tại Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển do dân số Việt Nam khá đông và trẻ, có thói quen sử dụng công nghệ, điện thoại thông minh, là nhóm đối tượng cho vay tiêu dùng tiềm năng cao; có nhiều kinh nghiệm quốc tế trong quản trị hoạt động cho vay tiêu dùng, đặc biệt tại các quốc gia Đông Nam Á có đặc điểm kinh tế, xã hội giống Việt Nam; có hệ thống công nghệ số hiện đại trong hoạt động cho vay tiêu dùng để tối ưu hóa chi phí và tiếp cận nhanh chóng đến khách hàng; nguồn huy động giá rẻ từ ngoại tệ để cạnh tranh lãi suất cho vay với các NHTM Việt Nam.
Bên cạnh đó, đối với hoạt động cho vay tài trợ nhập khẩu, thị phần, dư địa cho vay đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu có tiềm năng phát triển rất lớn. Với nguồn vốn huy động ngoại tệ lớn và giá rẻ từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là lợi thế cạnh tranh rất lớn về lãi suất cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài so với NHTM Việt Nam. Do đó, đề xuất các chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét tăng trưởng hoạt động cho vay tài trợ nhập khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở tiềm năng thị trường cho vay tài trợ nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam và lợi thế từ nguồn vốn ngoại tệ giá rẻ để gia tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời gian tới. Song song với tăng trưởng hoạt động cho vay, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần thực hiện chiến lược nhằm gia tăng, thu hút nguồn vốn huy động từ các khách hàng cá nhân, tổ chức Việt Nam trên cơ sở lợi thế cạnh tranh so với các NHTM Việt Nam về kinh nghiệm hoạt động ngân hàng quốc tế, công nghệ số hiện đại.
Thứ ba, xem xét, điều chỉnh quy định về giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng áp dụng đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Qua phân tích và kết quả hồi quy cho thấy, tăng trưởng hoạt động cấp tín dụng của chi nhánh ngân hàng nước ngoài hiệu quả và được ngân hàng mẹ kiểm soát chặt chẽ. Mặt khác, theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay, ngân hàng mẹ đã cam kết bảo đảm toàn bộ trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và hoạt động của chi nhánh tại Việt Nam nên việc điều chỉnh “mở hơn” đối với quy định về giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng áp dụng cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài là có cơ sở. Theo đó, nhóm tác giả đề xuất xem xét giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng được tính trên mức vốn tự có ở một tỉ lệ cao hơn áp dụng riêng đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài (điều chỉnh quy định tại Điều 136 Luật Các TCTD năm 2024).
Thứ tư, điều chỉnh quy định về giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại NHTM Việt Nam.
Theo quy định pháp luật hiện hành, sở hữu của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ và tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của NHTM Việt Nam (trừ trường hợp đặc biệt để thực hiện cơ cấu lại TCTD yếu kém). Tuy nhiên, để phát triển hoạt động của các NHTM Việt Nam cần có cơ chế tăng cường sự hỗ trợ, hợp tác đầu tư chiến lược của các ngân hàng nước ngoài.
Theo đó, đề xuất cấp thẩm quyền xem xét tăng tỉ lệ giới hạn sở hữu cổ phần của một NHTM Việt Nam (điều chỉnh quy định tại Điều 7 Nghị định số 01/2014/NĐ-CP của Chính phủ); đồng thời yêu cầu nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phải đảm bảo các điều kiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 01/2014/NĐ-CP và có kế hoạch, chiến lược đầu tư, phát triển cụ thể nhằm nâng cao hoạt động của NHTM Việt Nam.
5. Kết luận
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011 - 2023. Qua kết quả hồi quy và phân tích, đánh giá đặc trưng trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, lợi thế cạnh tranh so với các NHTM Việt Nam, nhóm tác giả đã đưa ra khuyến nghị các giải pháp, định hướng và đề xuất, khuyến nghị chính sách với các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu có hạn chế là không khai thác được đầy đủ dữ liệu các biến như trong mô hình nghiên cứu của các tác giả về phân tích hiệu quả hoạt động NHTM Việt Nam. Ngoài ra, các đề xuất liên quan đến cơ chế, chính sách cần được cấp có thẩm quyền phê duyệt là ý kiến độc lập của nhóm tác giả. Việc đánh giá tính khả thi và đưa ra các chính sách phù hợp cần được nghiên cứu tổng quát trên nhiều phương diện và thực hiện theo trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định .
Tài liệu tham khảo:
1. Cục Thống kê, Báo cáo một số chỉ tiêu kinh tế xã hội.
2. Chi cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Các TCTD số 32/2024/QH15 ngày 18/01/2024.
5. Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 86/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức vốn pháp định của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
6. Chính phủ, Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam.
7. Cerutti, E., Dell'Ariccia, G., Soledad, M., Peria, M. (2007), How banks go abroad: Branches or subsidiaries?. Journal of Banking & Finance, No 31 (2007), pages 1669-1692.
8. Clarke, G., Cull, R., Soledad, M., Peria, M. và Sánchez, S. (2003), Foreign Bank entry: Experience, Implications for Developing Economies, anh Agenda for Further Research. The World Bank Reserch Observer, vol. 18, no 1 (Spring 2003), pages 25-59.
9. Lien Dinh (2013), Foreign Banks in Vietnam: Determinants of Profitability and Comparison with Domestic Banks. Proceedings of World Business and Social Science Research Conference 24-25 October, 2013, Novotel Bangkok on Siam Square, Bangkok, Thailand.
10. Hà Văn Dũng và Nguyễn Đặng Hồng Anh (2017), Ảnh hưởng của thu nhập phi truyền thống đến khả năng sinh lời và rủi ro của NHTM Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, số 54 (3) 2017, pages 3-12.
11. Goulding, W., and Nolle, E., D. (2012), Foreign Banks in the U.S.: A primer. Board of Governors of the Federal Reserve System International Finance Discussion Papers, Number 1064.
12. Nguyễn Việt Hùng (2008), Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2008, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
13. Nguyễn Thị Hà Thanh và Lê Hoàng Việt (2018), Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016. Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 103/2018.
14. Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2013), Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 85, tháng 4/2013, pages 11-15.
Tin bài khác


Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên khi mua sắm trực tuyến: Nghiên cứu tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một

Dân trí tài chính số tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Kiểm soát hành vi “tẩy xanh” hướng tới tăng trưởng bền vững - Góc nhìn từ khía cạnh pháp lý

Sự tham gia của Thừa phát lại vào hoạt động xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng: Thực trạng pháp luật và kiến nghị

Những điểm dễ tổn thương của hệ thống tài chính trong kỷ nguyên biến động mạnh địa chính trị và kinh tế - Một số khuyến nghị chính sách

Tác động của rủi ro địa chính trị đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam

Khai thác hình ảnh vệ tinh để nghiên cứu ảnh hưởng về bất bình đẳng kinh tế địa phương đến ESG của doanh nghiệp Việt Nam

Để đồng thuận xã hội chuyển đổi thuế hộ kinh doanh

Phản ứng chính sách của Fed và BPoC trước xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc

Pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực ngân hàng tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Điều hành tín dụng linh hoạt là nền tảng cho thị trường bất động sản phát triển bền vững

Chương trình 145 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội: Doanh số giải ngân dần cải thiện

Vị thế của đô la Mỹ trên thị trường tài chính toàn cầu

Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng Hiệp ước vốn Basel III trong hoạt động ngân hàng và khuyến nghị cho Việt Nam

Hiểu biết tài chính và truyền tải chính sách tiền tệ: Kinh nghiệm từ Ngân hàng Trung ương châu Âu và một số khuyến nghị

Giải mã bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm Đông Á và một số khuyến nghị chính sách
